Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn Trao duyên” chuẩn nhất 12/2024.
Đoạn trích Trao có thể được xem là một minh chứng cụ thể cho tài năng ngôn ngữ bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du
Dàn ý trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn Trao duyên
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
II. Thân bài
– Vấn đề sử dụng ngôn ngữ: luôn được văn thi nhân quan tâm. Nó là điều làm nên sự sống còn của tác phẩm.
– Thế nào là ngôn ngữ nghệ thuật: còn là ngôn ngữ văn chương, ngôn từ: văn học đòi hỏi phải có tính gợi hình, gợi cảm. Đó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp xếp, lựa chọn để đạt hiệu quả thẩm mĩ cao.
1. Ngôn ngữ nghệ thuật trước hết đảm bảo chức năng thông tin
– Gia đình Kiều gặp tai biến.
– Kiều bán mình chuộc cha.
– Trong hoàn cảnh đó, nàng đã trao duyên cho em.
Tình cảm nhân đạo của tác giả thấm đẫm trong từng câu chữ.
2. Vẻ đẹp ngôn ngữ trong đoạn trích thể hiện ở tính hình tượng (Đó là khả năng ngôn ngữ gợi lên những hình ảnh làm các nhân vật như chuyến động và hiện hữu như ngoài đời).
– Không những khắc họa cử chỉ, hành động của Kiều mà còn thể hiện được suy nghĩ, ý nguyện của mình.
+ Cậy em.
+ Quạt nồng ướt lạnh => những từ ngữ bộc lộ nỗi đau đóm, xót xa và diễn tả.
+ Chén thề.
+ Bồ liễu.
+ Trúc mai.
=> Những từ ngữ này còn gợi lên cá dáng điệu mảnh mai, yếu ớt của Kiều.
=> Hiện lên từng câu, từng chữ là bóng dáng tội nghiệp, yếu ớt, đau khổ của Thúy Kiều, là sự dày vò vì tình yêu bị chia rẽ, là nỗi xót xa vì tình yêu tan vỡ, là sự hoảng hốt vì tương lai lắm bất trắc.
3. Vẻ đẹp ngôn ngữ của đoạn trích còn thể hiện ở tính cá thể hóa.
– Cả đoạn trích là ý chí, bình thản khi trao duyên nhưng rồi lại chìm vào tình yêu và bi kịch tinh thần của mình.
– Qua ngôn ngữ nhận ra Kiều là người thông minh, sắc sảo, tinh tế, ý nhị nhưng nàng vẫn là một người yếu đuối, một người trong lưới tình giăng mắc, ở Kiều ta thấy mọi phụ nữ và đau đớn vì yêu.
III. Kết luận:
– Khẳng định ngôn ngữ nghệ thuật làm nên sức sống của Truyện Kiều.
Bài mẫu số1: Trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn Trao duyên
Nói tới Nguyễn Du là nói tới một hiện tượng vô song của văn học Việt Nam. Với “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”, Truyện Kiều đến bây giờ vẫn là mẫu mực cho nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Đoạn trích “Trao duyên” có thể được xem là một minh chứng cụ thể cho tài năng ngôn ngữ bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du.
Vấn đề sử dụng ngôn từ bao giờ cũng được quan tâm hàng đầu của người cầm bút. Nhà văn chỉ có thế gửi gắm những suy nghĩ, những quan điểm của mình qua ngôn ngữ. Không rèn câu, luyện chữ thì không thế tạo ra những tác phẩm có giá trị. Nhưng những từ ngữ cầu kì, gọt rũa một cách không cần thiết lại trở nên vô duyên và sáo rỗng. Chính vì vậy để ngôn ngữ thăng hoa cần đến cả cái “tài” và cái “tâm”.
Ngôn ngữ nghệ thuật hay còn gọi là ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ văn học đòi hỏi phải có tính gợi hình, gợi cảm. Đó là ngôn ngữ được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ để đạt được giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ cao.
Cũng như các phong cách ngôn ngữ khác, ngôn ngữ nghệ thuật trước hết đảm bảo chức năng thông tin. Gia đình Kiều gặp cơn tai biến. Bao ngày tháng êm đềm, hạnh phúc bỗng chốc trở thành ảo ảnh xa xôi. Kiều buộc phải bán mình chuộc cha, gác lại mối tình đầu vừa mới chớm nở với chàng Kim. Trong hoàn cảnh đó, nàng đã trao duyên cho em là Thúy Vân, mong Thúy Vân giúp nàng làm tròn nghĩa tình với Kim Trọng. Những chi tiết ấy, người đọc chỉ biết được khi tiếp cận với tác phẩm, qua lớp ngôn từ. Nhưng Truyện Kiều hấp dẫn người đọc không phải ở nội dung mà nó thông báo. Hơn bao giờ hết, Nguyễn Du đã để lại cho văn học dàn tộc những trang thơ tuyệt tác. Nếu Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho thơ nôm thì Nguyễn Du là người đưa nó đến đỉnh cao. Ngôn ngữ Truyện Kiều trong sáng, giản dị mà tinh tế. Nỗi đau khổ, dằn vặt của Thúy Kiều, sự xót xa cay đấng cho thân phận, sự nuối tiếc một tình yêu, sự băn khoăn cảm thấy có lỗi với chàng Kim…, tất cả những tâm trạng đó đã được Nguyễn Du miêu tả rất thành công. Bởi lẽ ông hoàn toàn nhập thân vào nhân vật, đồng cảm và thấu hiểu. Chẳng phải thế mà Mộng Liên Đường chủ nhân đã nhận xét: “Nguyễn Tố Như viết Kiều như có máu rỏ trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua tờ giấy”.
Vẻ đẹp ngôn ngữ trong đoạn trích trước hết thể hiện ở tính hình tượng. Đó là khả năng ngôn ngữ gợi lên những hình ảnh làm các nhân vật như chuyển động và hiện hữu như ngoài đời. Chỉ với hai câu thơ:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Tác giả không những khắc họa được cử chỉ, hành động của Kiều mà còn thể hiện được suy nghĩ, ý nguyện của nàng. Thúy Kiều là chị nhưng khi nhờ em lại dùng từ “cậy”. Kiều lại dùng từ “chịu” chứ không dùng từ “nhận” để hỏi ý kiến Thúy Vân. Đó hẳn không phải là cách dùng từ “ngẫu hứng”. Thúy Kiều hiểu rằng việc nàng sắp nói ra là một điều hệ trọng mà Thúy Vân khòng có quyền lựa chọn. Và Nguyễn Du đã để nàng kể lại câu chuyện ấy… Chuyện tình yêu vốn của riêng hai người nên khi phải kể cho người thứ ba, Thúy Kiều đã cố lược di những chi tiết rườm rà. Đó là sự tế nhị của một người con gái sâu sắc, Nguyễn Du đã truyền tải điều đó như thế nào? Chỉ với hai hình ảnh: “quạt ước”, “chén thề”, tác giả đà vẽ nên một không gian tình ái mà chỉ Kiều và Kim mới biết, chỉ “vầng trăng vằng vặc giữa trời” là nhân chứng. Rồi “chiếc vành với bức tờ mây”, hay “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”… những đồ vật ý nghĩa tưởng chừng rất giản đơn ấy đã gợi dậy trong Kiều những kỉ niệm mãnh liệt của thời yêu thương. Và dường như chúng khiến Kiều không còn đủ sáng suốt. Nàng “Trao duyên” cho Thúy Vân nhưng “tình” thỉ không.
“Duyên này thì giữ, vật này của chung”.
Kể cả khi Kiều nghĩ đến cái chết, thì tình nghĩa ấy vẫn không thôi rực cháy:
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghi trúc mai”…
“Bồ liễu”, “trúc mai” vốn là những hình ảnh tượng trưng quen thuộc trong văn thơ bác học. Nó xuất hiện trong câu thơ mang lại tính hàm súc. Cũng một nghĩa là đền đáp tình cảm của Kim Trọng nhưng câu thơ còn gợi lên cả dáng điệu mảnh mai. yếu ớt của Kiều, cả mối tình hai người vun đắp.
Tác giả không nói với chúng ta về sự đau khổ, không nói về tình yêu thiết tha của Thúy Kiều nhưng tiếng kêu: “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!” đã nói lên tất cả. Kim Trọng với Kiều đã không đơn thuần là người yêu mà là một đức lang quân, một người chồng mà nàng trao thân gửi phận. Vị trí của Kim Trọng trong trái tim nàng thật vô cùng to lớn.
Cứ hiện lên trên từng cầu chữ một bóng dáng tội nghiệp, vật vã của nàng thiếu nữ xinh đẹp mà bạc phận. Cứ hiện lên trong trang thơ những giọt nước mắt đắng cay cho thân phận của nàng Kiều. Điều mà chúng ta cảm nhận được chính là do tính hình tượng của ngôn từ nghệ thuật và tính truyền cảm của nó. Hẳn rằng Nguyễn Du cũng đã khóc rất nhiều cùng nhân vật, hẳn rằng nhà thơ đã xót xa đau khổ rất nhiều. Để bây giờ trở thành “người cho máu” nói như En-xa Tri-Ô-Iê, làm rung động tâm hồn bạn đọc nhiều thế hệ. Chắc chắn rằng không chỉ có một Nguyễn Du mà còn có muôn triệu con người cùng chung nhịp đập với tác giả và nhân vật của ông. Thương cho cuộc tình duyên của Kiều, lại càng thấm thía những điều:
“Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
Càng căm ghét xã hội mà con người phải chịu tước bỏ những giá trị tinh thần đẹp đẽ, thiêng liêng nhất chỉ về thế lực “cường quyền” và “đồng tiền”.
Vẻ đẹp ngôn ngữ trong đoạn trích còn thể hiện ở tính cá thể hóa. Cả đoạn trích là lời Thúy Kiều cùng những giằng xé nội tâm đau đớn. Kiều tỏ ra là người sâu sắc, có ý chi khi trao duyên cho Thúy Vân. Nhưng rồi nàng lại chìm sâu vào dòng tâm tưởng với những hồi ức, với viễn cảnh tương lai và bi kịch tinh thần, để rồi sau tiếng gọi tưởng chừng đứt ruột “Ôi, Kim lang, hỡi Kim lang!”. Nàng hoàn toàn khủng hoảng, sụp đổ vì nỗi đau đứt ruột:
“Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng”
Nguyễn Du rất tài tình khi khắc họa nhân vật của mình. Một Thúy Kiều thông minh, sắc sảo, tinh tế, ý nhị nhưng nàng vẫn là một con người, một người con gái yếu đuối, một người trong lưới tình giăng mắc Trong Thúy Kiều ta thấy mọi phụ nữ, nhưng cũng lại không thể nhầm Kiều với ai khác được. Đó chính là nhờ tính cá thể của ngôn ngữ nghệ thuật. Qua đoạn trích, ta cũng phần nào thấy được phong cách nghệ thuật Nguyễn Du. Một giọng điệu rất riêng: thiết tha, đằm thắm mà chỉ Tố Như bằng ngọn gió yêu thương của tâm hồn mình mới tạo ra được.
Còn nhớ Nguyễn Du trong Truyện Kiều từng mượn lời nhân vật khác để khen Thúy Kiều:
“Khen tài nhả ngọc phun châu
Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này “.
Thiết nghĩ lời ấy dành cho Truyện Kiều cũng hoàn toàn xứng đáng. Truyện Kiều – một hòn ngọc vô giá trong kho tàng văn học dân tộc.
Bài mẫu số2: Trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn Trao duyên
Nhắc tới Nguyễn Du là nhắc tới Truyện Kiều, tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Được coi là chuẩn mực ngôn từ, Truyện Kiều đã để lại dấu ấn trong lòng người đọc về nhân vật Thúy Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng số phận bất hạnh, long đong. Đoạn trích “Trao duyên” được coi là một minh chứng nổi bật cho nghệ thuật sử dụng ngôn từ khéo léo, sắc sảo của tác giả, mang đến góc nhìn đa chiều cho người đọc về tính thông tin, tính gợi tả và tính cả thể hóa trong việc sử dụng ngôn từ.
Ngôn ngữ được sử dụng trong một tác phẩm văn học luôn là yếu tố được quan tâm hàng đầu, quyết định chỗ đứng của tác phẩm ấy trong bản đồ văn học. Ngay từ khi chắp bút, người nghệ sĩ cần cẩn trọng lựa chọn phong cách ngôn ngữ, đảm bảo cả về mặt nội dung và hình thức, vừa tuân theo những chuẩn mực nghệ thuật, vừa cần có cái tôi cá nhân. Một tác phẩm thơ cần vận dụng nhiều yếu tố nghệ thuật ngôn từ, đòi hỏi khả năng chọn lựa từ ngữ chính xác, ngắn gọn, hàm súc nhưng ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa, khơi gợi cho độc giả những luồng suy nghĩ hàn lâm. Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ văn chương, ngôn từ văn học đòi hỏi phải có tính gợi, được sắp xếp và lựa chọn cẩn thận nhằm truyền tải nội dung, tư tưởng của người viết.
Trong đoạn trích Trao duyên, ngôn ngữ nghệ thuật được thể hiện ở ba khía cạnh: tính thông tin, đảm bảo nội dung, diễn biến sự kiện, tính hình tượng gợi tả, gợi cảm chân thực và tính cá thể hóa, bộc lộ được tâm tư, tình cảm cụ thể của nhân vật. Với tài năng thiên bẩm cùng vốn hiểu biết sâu rộng, Nguyễn Du đã kết hợp hài hòa những yếu tố trên, tạo nên một tổng thể vừa chuẩn mực, ngắn gọn, vừa độc đáo, gợi tả, gợi cảm.
Vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong “Trao duyên” trước hết được bộc lộ qua chức năng thông tin. Bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng cần có nội dung truyền đạt tới độc giả qua phương tiện ngôn ngữ. Cuộc đời Thúy Kiều được mở ra với nhiều bi kịch đau khổ, gia đình gặp biến cố, những ngày tháng êm đềm bỗng tan thành mây khói, nàng buộc phải bán mình chuộc cha, xa rời mối tình đầu mặn nồng với Kim Trọng. Trong hoàn cảnh bất đắc dĩ ấy, nàng chấp nhận trao lại mối duyên hồng cho em gái Thúy Vân, những mong em sẽ thay thế nàng giữ trọn lời hẹn thề với Kim Trọng. Cái hấp dẫn nằm ở chỗ, tác giả không hề kể lại những diễn biến sự kiện ấy bằng giọng văn người kể chuyện đơn thuần, mà qua lời nhân vật Kiều, tính thông báo của ngôn từ đưa người đọc tiếp cận đến nội dung câu chuyện một cách tinh tế, uyển chuyển. Nỗi khổ đau dày vò tâm trạng Thúy Kiều, tiếng kêu thương tâm cho một số phận nghiệt ngã và bi kịch tình yêu tan vỡ, tưởng như tác giả đã đặt chính bản thân mình vào nhân vật, mượn lời nhân vật để nói lên cái bất hạnh của nhân vật. Chức năng thông tin của nghệ thuật ngôn từ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đưa người đọc từng bước qua tình huống của câu chuyện mà không hề chủ quan, khô khan, trái lại, người đọc có thể tự hình dung ra những nút thắt tâm trạng, tình huống truyện qua lời bộc bạch của nhân vật Kiều.
Vẻ đẹp ngôn từ trong đoạn trích được thể hiện qua tính hình tượng, gợi lên những hình ảnh khiến nhân vật và sự kiện như hiện hữu ngoài đời thực. Tính Hình tượng mang đến sức thuyết phục, đồng thời khơi gợi sự đồng cảm, tri âm từ phía độc giả đối với người nghệ sĩ cũng như những nhân vật trong tác phẩm. Hai câu thơ:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Thúy Kiều xét theo vai vế là bậc chị lớn trong nhà, nhưng khi nhờ đến em lại phải “cậy”, hỏi ý kiến em qua “chịu lời”. Vì nàng biết, điều mà nàng khẩn khoản nhờ em tới đây thật khó chấp nhận, nhưng Thúy Vân sẽ chẳng có cách nào từ chối. “Lạy” rồi “thưa”, Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều tự kể lại câu chuyện tình yêu bi kịch của chính mình trong tâm thế một kẻ bề dưới, nhọc lòng mong mỏi người khác giúp đỡ nàng. Những từ ngữ đắt giá không chỉ thể hiện hoàn cảnh khốn cùng của Thúy Kiều mà còn bộc lộ sự mong chờ, tha thiết của nàng, những mong em gái chấp nhận lời cầu xin.
Đi vào thẳng vấn đề, Thúy Kiều bày tỏ, tâm sự với Thúy Vân về mối tình mặn nồng của mình và Kim Trọng. “Quạt ước”, “chén thề”, những vật làm tin bí mật giữa Kim và Kiều. Vào đêm hôm ấy, có đất, có trời, có trăng, có sao và có tấm lòng son sắt, hai người đã trao cho nhau chiếc quạt đính ước, ly rượu phu thê thề nguyền. Rồi còn có cả “chiếc vành với bức tờ mây”, “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”, những kỉ vật tình yêu được Thúy Kiều trang trọng cất giữ, giờ đây nàng trao lại cho em gái với hi vọng em sẽ thay vị trí của mình, nối tiếp mối duyên hồng với người yêu. Tuy vậy, nàng Kiều trong phút giây khổ đau đoạn tuyệt vẫn muốn níu kéo chút tình cảm lứa đôi:
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Cái luyến tiếc những kí ức dấu yêu khiến Kiều bị dày vò tinh thần, không còn đủ tỉnh táo. Rõ ràng là duyên đã trao, lại mang thân phận cậy nhờ, nhưng nàng vẫn muốn “vật này của chung”, vẫn muốn lưu giữ lại những kỉ niệm đáng nhớ giữa nàng và người yêu. Dễ hiểu thôi cho một người con gái, người con gái mới biết yêu lần đầu, chẳng thể nào cam tâm cắt bỏ hoàn toàn mối duyên tình, chỉ mong muốn được gìn giữ lại cho bản thân chút hình bóng nhỏ bé. Cảm xúc chân thật của Thúy Kiều gợi trong lòng người đọc nỗi đồng cảm, thấu hiểu cho những day dứt của nàng, thấu hiểu vì sao nàng lại muốn giữ làm của chung như vậy. Tình yêu còn nồng cháy như vậy, chẳng thể nào đành lòng ra tay chấm dứt.
Một chi tiết đắt giá thể hiện tính hình tượng của vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật là khi Kiều nghĩ đến cái chết. Người con gái tuổi mới trăng tròn còn mơn mởn sức sống như vậy, nhưng đứng trước hoàn cảnh chia li, trong đầu chỉ quanh quẩn đến kết thúc bi kịch, cái chết.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghi trúc mai
“Bồ liễu”, “trúc mai” vốn là những hình ảnh tượng trưng quen thuộc trong văn thơ, mang tính biểu tượng hàm súc, gợi tả dáng vẻ mong manh, liễu yếu đào tơ của người con gái. Với Thúy Kiều, không chỉ là thân phận long đông, không sức chống cự, mà “bồ liễu”, “trúc mai” còn là tiếng than cho duyên phận lỡ làng, phúc phần mỏng manh mà nàng phải gánh chịu. Ra đi không mong ngày trở về, trước mắt nàng là tương lai đen tối, mịt mù, là cái chết vĩnh hằng, bị chà đạp, rẻ rúng đến chết. Xót xa thay cho một kiếp người, còn trẻ, còn biết yêu, biết rung động mà đã tự đặt ra cho mình cái chết cận kề. Tác giả không nói về sự đau khổ, không đề cập trực tiếp đến tình yêu thiết tha của Thúy Kiều và Kim Trọng, nhưng câu thơ cuối bài, tiếng kêu của Kiều đã thể hiện rất rõ những bi kịch mà nàng gặp phải:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Kiều gọi Kim Trọng là “lang”, là cách gọi của người phụ nữ xưa đối với chồng. Đối với Kiều, chàng Kim không còn đơn thuần chỉ là người yêu, mà đó là chồng, là đức lang quân mà nàng trao gửi số phận. Vị trí của Kim Trọng trong tim nàng quả thực to lớn. Nhưng giờ đây, nàng đành chấp nhận xa rời, chấp nhận từ bỏ mối tình còn đang nồng cháy với chàng, vì chữ hiếu, vì phải bán mình để đổi lấy hạnh phúc cho người thân. Nàng phụ lòng chàng Kim, chỉ biết thốt lên một câu đầy ai oán. Bi kịch tình yêu tan vỡ, những trái tim còn thổn thức yêu nhau bị chia rẽ. Ngôn ngữ nghệ thuật đã bao hàm toàn vẹn cảm xúc của nhân vật Kiều, người đọc dường như có thể thấu cảm được những diễn biến tâm trạng của nàng, từ cam chịu đến luyến tiếc rồi đau khổ tột cùng nhưng vẫn phải đối mặt với sự thật phũ phàng. Tác giả đã chạm đến trái tim và lòng trắc ẩn của bạn đọc để cùng tri âm, sẻ chia sự đau xót đối với nhân vật.
Vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật trong “Trao duyên” còn được thể hiện ở tính cá thể hóa, qua đó, Thúy Kiều bộc lộ được cá tính riêng biệt, không hòa lẫn của mình. Từng câu chữ trong tác phẩm đều tập trung gợi tả thân phận tội nghiệp của nàng Kiều hồng nhan bạc mệnh, từng trang thơ là từng trang nước mắt khóc thương cho người phụ nữ kém may mắn. Thúy Kiều hiện lên qua trang viết của Nguyễn Du là người con gái biết điều, biết nghĩ, hiếu thảo với cha mẹ, sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của bản thân nhưng cũng vô cùng sắc sảo, chủ động trao duyên cho em gái vì muốn giữ trọn lời thề. Đặc biệt, cá tính của Kiều thể hiện ở chỗ, trao duyên cho Thúy Vân nhưng nàng vẫn đề cập đến việc được giữ lại chút ít kỉ vật giữa nàng và Kim Trọng, bộc lộ tính cách của một cô gái mạnh mẽ, thông minh. “Trao duyên” thực chất là lời bộc bạch của Thúy Kiều trên những cung bậc cảm xúc lẫn lộn, giằng xé. y đau là thế, tiếc là thế, đứng giữa những hồi ức hạnh phúc và tương lai bi kịch, nhưng cái tinh tế, sắc sảo mà ý nhị của người con gái ấy vẫn được thể hiện khéo léo. Qua đoạn trích, ta cũng thấy được phong cách nghệ thuật mang tính nhân văn cao cả Nguyễn Du, yêu thương con người, trân trọng và cảm thông cho những số phận cơ cực, bất hạnh.
Vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật qua “Trao duyên” đã làm nên kiệt tác Truyện Kiều, tạo nên tên tuổi của Nguyễn Du không chỉ trong nước mà còn có sức ảnh hưởng tầm cỡ thế giới. Ngôn từ trong sáng, chọn lọc, mang nhiều tầng nghĩa, gợi tả, gợi cảm cùng đảm bao ba chức năng chính: thông tin, hình tượng và cá thể hóa đã đưa Truyện Kiều trở thành chuẩn mực ngôn từ trong làng văn học thơ Nôm. Với tác phẩm này, thơ chữ Nôm đã tạo nên thành công vang dội, đưa chữ quốc ngữ của Việt Nam thời bấy giờ lên tầm văn hóa, bản sắc đặc trưng riêng biệt của dân tộc.
Kết luận
Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn Trao duyên” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.
Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 12/2024!