Updated at: 01-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Soạn bài Nói và nghe Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau SGK Ngữ Văn 10 tập 2 Kết nối tri thức” chuẩn nhất 04/2024.

Soạn bài Nói và nghe Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau SGK Ngữ Văn 10 tập 2 Kết nối tri thức- Mẫu 1

Chuẩn bị nói

Lựa chọn đề tài: Nhân vật quản ngục trong Chữ người tử tù có thật sự là một người uy quyền, tự do?

Tìm ý và sắp xếp ý:

– Giới thiệu khái quát về nhân vật quản ngục:

+ Tả về ngoại hình của viên quản ngục: Một người tuổi trung niên; Khuôn mặt như mặt ao;… Với những chi tiết miêu tả của Nguyễn Tuân thì viên quản ngục là một người điềm đạm, phúc hậu.

+ Tính cách của viên quản ngục: Nhân vật viên quản ngục có tâm hồn thuần khiết và ông lại còn yêu cái đẹp; Viên quản ngục là một người có tâm hồn nghệ sĩ, yêu nghệ thuật; … Bên cạnh đó ông lại còn có tấm lòng khâm phục những người tài hoa.

+ Nguyễn Tuân cũng đã khắc họa lên nhân vật quản ngục có được một tâm hồn nghệ sĩ, nâng niu cái đẹp, những điều có được giá trị thẩm mĩ.

– Nhận xét chung về viên quản ngục: Không phải là người uy quyền, tự do

Chuẩn bị nghe

Một số lưu ý khi nghe người khác nói:

– Chú ý lắng nghe, ghi chép;

– Đưa ra những câu hỏi cần giải đáp.

Bài nói mẫu

Dàn ý

1. Mở bài

     Giới thiệu khái quát truyện ngắn Chữ người tử tù và nhân vật quản ngục.

2. Thân bài

– Ngoại hình của nhân vật quản ngục: là một người tuổi trung niên; có khuôn mặt như mặt ao;… -> viên quản ngục là một người điềm đạm, phúc hậu.

– Nhân vật quản ngục không phải là một hung thần với đôi bàn tay vấy máu mà ông được biết đến là một nhà nho, đọc nhiều sách thánh hiền và lại có những đức tính tốt. -> Tấm lòng nhân hậu bao dung của quản ngục

– Thủ pháp tương phản đối lập có thể làm nổi bật nghịch lí của hoàn cảnh, nổi bật được những bi kịch của số phận: tương phản giữa ngục quan và lũ lính ngục, đối lập chính cái thuần khiết đối với đống cặn bã, giữa người có tâm điền tốt đẹp với lũ quay quắt và tàn độc.

3. Kết bài

Khẳng định lại hình ảnh nhân vật quản ngục.

Bài nói mẫu

     Trong kho tàng truyện ngắn của văn học Việt Nam, rất nhiều tác phẩm nổi danh không chỉ nhờ cốt truyện, nội dung hấp dẫn người đọc mà tuyến nhân vật trong truyện cũng có khả năng thu hút người đọc đi sâu vào tìm hiểu chuyện. Mỗi truyện ngắn đều có một hệ thống nhân vật với vai trò khác nhau nhưng nếu chỉ nhìn cách tác giả miêu tả họ thì người đọc chưa thể đánh giá được chính xác tính cách sâu bên trong con người họ. Điển hình là nhân vật người quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân. Liệu nhân vật quản ngục trong Chữ người tử tù có thật sự là một người uy quyền, tự do như chúng ta nhìn thấy qua lời văn của Nguyễn Tuân hay không?

Tác giả Nguyễn Tuân viết truyện Chữ người tử tù năm 1939 và tác phẩm xứng đáng là một tờ hoa, trang hoa đích thực của ông. Nói lên sự thành công của tác phẩm chính là do Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật hết sức độc đáo cùng với tình huống truyện hấp dẫn, có một không hai. Nói về nhân vật thì ngoài nhân vật Huấn Cao – tử tù thì còn có nhân vật quản ngục – thanh âm trong trẻo nhưng lạc vào một bản nhạc mà âm điệu xô bồ.

Đầu tiên độc giả nhận thấy được ngục quan có một ngoại hình ưa nhìn dễ nhìn. Đó là đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu, thế rồi với vẻ mặt tư lự, nhăn nheo, có một đời sống nội tâm sâu sắc và lại còn cả nghĩ. Viên quản ngục sau khi nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường về  việc nhận 6 tử tù mà trong đó có Huấn Cao – người nổi tiếng với tài viết chữ đẹp. Thế rồi độc giả cũng càng không quên được hình ảnh ngục quan như cứ đăm chiêu và nghĩ ngợi. Thông qua việc miêu tả chi tiết những biến đổi tinh vi của nhân vật thì Nguyễn Tuân cũng đã giúp cho chúng ta nhận thấy được ngục quan thực sự là một người từng trải, ông lại có một tính cách vô cùng nhẹ nhàng chứ không tàn ác giống như những tên cầm quyền khác trong chốn đề lao.

Thực sự nhân vật quản ngục không phải là một hung thần với đôi bàn tay vấy máu mà ông được biết đến là một nhà nho, đọc nhiều sách thánh hiền và lại có những đức tính tốt. Việc làm quản ngục có thể thét ra lửa và thêm nữa là bộ hạ tay chân là bọn côn đồ, tàn nhẫn,… toàn những điều xấu, thế nhưng quản ngục lại khác lạ. Với quản ngục nét tính cách không thay đổi, vẫn luôn luôn dịu dàng. Thông qua đây ta nhận thấy được tấm lòng thì nhân hậu bao dung của quản ngục cũng đã biết giá người, biết trọng người ngay nữa. Điều đó được thể hiện đó chính là lúc nhận tù, ngục quan lúc này đây cũng thật đáng trọng biết bao nhiêu. Nhất là khi đứng trước thái độ như nhâng nháo, hách dịch, tàn nhẫn của bọn lính ngục, ông ta chỉ nhẹ nhàng mà nghiêm trang nói một câu đó là: “Việc quan, ta có phép nước. Các chú chớ nhiều lời”.

Có thể nói được văn chương lãng mạn thời tiền chiến thường sử dụng thủ pháp tương phản đối lập. Dùng thủ pháp này có thể làm nổi bật nghịch lí của hoàn cảnh, nổi bật được những bi kịch của số phận. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng vậy, thông qua cảnh nhận tù, thì ta nhận thấy được nó cũng đã tương phản giữa ngục quan và lũ lính ngục, đối lập chính cái thuần khiết đối với đống cặn bã, giữa người có tâm điền tốt đẹp với lũ quay quắt và tàn độc. Thông qua đó làm nổi bật nhân cách tốt đẹp của quản ngục mà như Huấn Cao nhận xét có một thanh âm trong trẻo chen vào chính giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.

Người đọc có thể nhận thấy được hình ảnh quản ngục được xem chính là một trong những thành công của Nguyễn Tuân ở trong nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật ở phương diện đó là sự tài hoa độc đáo của nghệ sĩ bậc thầy. Ngục quan luôn yêu cái đẹp với tấm lòng biệt nhỡn liên tài, thêm vào đó là tâm hồn tính cách của ngục quan – nhân vật góp phần làm lên sức hấp dẫn của truyện Chữ người tử tù.

Thảo luận

Học sinh tự thực hành

Soạn bài Nói và nghe Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau SGK Ngữ Văn 10 tập 2 Kết nối tri thức- Mẫu 2

  1. Chuẩn bị nói và nghe 
  2. Chuẩn bị nói

* Lựa chọn đề tài

– Trước một tác phẩm truyện, sự đánh giá của người đọc về các khía cạnh nội dung hoặc hình thức nghệ thuật thường khác nhau.

– Ví dụ: Giới thiệu, đánh giá về nội dung, nghệ thuật truyện ngắn “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân).

* Tìm ý và sắp xếp ý

– Bài nói cần có các ý sau:

+ Bản chất vấn đề là gì?

+ Đâu là chỗ gây ra những cách hiểu khác nhau?

+ Có những cách lí giải khác nhau như thế nào về vấn đề này?

+ Cách hiểu nào là có cơ sở?

+ Những lí lẽ và bằng chứng nào củng cố cho cách hiểu ấy?

* Xác định từ ngữ then chốt

– Có thể sử dụng các cụm từ phù hợp với kiểu bài nói này như: mặc dù…nhưng…; về vấn đề này, theo ý tôi…; từ góc nhìn khác, ta có thể thấy…; có thể khẳng định…

  1. Chuẩn bị nghe

– Tìm hiểu các thông tin cần thiết xung quanh vấn đề nêu ra để thảo luận.

– Ghi vắn tắt ý kiến của bản thân về vấn đề thảo luận.

– Sẵn sàng tham gia thảo luận để cùng đi đến cách hiểu thoả đáng về vấn đề.

  1. Thực hành nói và nghe 
Người nóiNgười nghe
– Nêu sự hưởng ứng đối với đề tài của cuộc thảo luận.

– Tóm tắt và đánh giá các ý kiến đã có về vấn đề; nêu cách nhìn nhận riêng của mình và làm rõ căn cứ của cách nhìn nhận đó.

– Tóm tắt lại ý kiến của bản thân, nêu những điểm cần được đồng thuận, nhấn mạnh sự bổ ích của cuộc thảo luận.

– Nghe trên tinh thần chuẩn bị đưa ra ý kiến hồi đáp của mình để thúc đẩy cuộc thảo luận đạt kết quả tích cực.

– Ghi vắn tắt vào sổ tay hay vở ghi chép những điểm cần tranh luận với người nói.

 Bài nói mẫu tham khảo:

Kính chào thầy cô và các bạn. Tôi tên là…………học sinh………trường………

Trước một tác phẩm truyện, mỗi người đọc có thể có những cảm nhận, quan điểm riêng biệt, những đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó. Đến với bài nói ngày hôm nay tôi xin giới thiệu, đánh giá về nội dung, nghệ thuật truyện ngắn “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân.

Trước hết tôi sẽ trình bày lí do vì sao tôi lựa chọn tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân để giới thiệu đến các bạn. Thứ nhất, Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập “Vang bóng một thời” chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến “Chữ người tử tù” với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống. Thứ hai, truyện ngắn này được đánh giá là một tác phẩm đạt gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ.

“Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên “Dòng chữ cuối cùng”, sau in thành sách đổi thành “Chữ người tử tù”. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.

Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.

Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.

Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.

Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.

Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.

Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắc sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ.

Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng chân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc sặc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Tôi rất vinh hạnh nếu được nghe chia sẻ giới thiệu, đánh giá về nội dung, nghệ thuật của nhiều những tác phẩm truyện khác mà mọi người quan tâm.

  1. Trao đổi 

– Người nghe đưa ra các nhận xét, góp ý, câu hỏi về bài nói. Người nói tiếp nhận các ý kiến này và trao đổi thêm (tán đồng, bác bỏ, trả lời câu hỏi, bàn luận mở rộng,…).

– Thực hiện tự đánh giá và đánh giá về bài trình bày

3. Truyện ngắn không có cốt truyện li kì, hấp dẫn có thể là một truyện hay được không?

Có ý kiến cho rằng: “Xây dựng tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố góp phần đem lại sự thành công cho truyện ngắn, giúp nhà văn khắc họa rõ nét phẩm chất, tính cách, khả năng ứng xử của nhân vật đồng thời bộc lộ sâu sắc ý đồ tư tưởng của mình”. Bạn có đồng ý với ý kiến đó không? Bạn nghĩ sao về những “truyện không có cốt truyện”? Theo bạn, một câu chuyện “không có cốt truyện” liệu có còn hay và hấp dẫn bạn đọc? Ngày hôm nay, chúng ta sẽ cùng thảo luận về vấn đề này.

Trước hết, chúng ta cần biết rằng như thế nào là “cốt truyện”, “truyện không có cốt truyện”? Cốt truyện là hình thức tổ chức cơ bản nhất của truyện; nó bao gồm các giai đoạn phát triển chính, một hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của các tác phẩm văn học, nhất là đối với các sáng tác thuộc các loại tự sự và kịch. Cốt truyện thường gồm hai phương diện gắn bó hữu cơ : Vừa là phương tiện bộc lộ tính cách, vừa là phương tiện để nhà văn bộc lộ các xung đột xã hội. Cốt truyện được nhà văn xây dựng gồm các thành phần: trình bày, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút. Nhờ đó, câu chuyện thêm phần kịch tính, hấp dẫn bạn đọc. Vậy sẽ ra sao nếu “truyện không có cốt truyện”? Khái niệm “truyện không có cốt truyện” chỉ mang tính ước lệ và quy ước cao, nó đánh dấu một sự cách tân nghệ thuật của các nhà văn hiện đại trong lĩnh vực tự sự học. Truyện không có cốt truyện thường có sự đan xen phức tạp giữa tự sữ với trữ tình và những miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật. Hiểu một cách đơn giản, truyện không có cốt truyện là loại truyện không có những tình huống li kì lắt léo, không thể tóm tắt, khó có thể kể lại được do kĩ thuật tự sự “dòng ý thức” của nhà văn đem lại.

Nhắc đến “truyện không có cốt truyện”, những sáng tác của Thạch Lam được coi là thành công nhất. Truyện ngắn của ông được nhận xét là đậm chất trữ tình. Ông không đi sâu vào khai thác những mâu thuẫn của hiện thực, không tạo dựng những tình huống kịch tính mà tập trung khám phá tâm hồn con người. “Dưới bóng hoàng lan” là một truyện ngắn như vậy. Câu chuyện diễn ra yên bình, nhẹ nhàng như chính bức tranh thiên nhiên trong sáng được diễn tả trong tác phẩm. Không có sự kiện nổi bật, không có biến cố, các nhân vật xuất hiện một cách tự nhiên, một cuộc sống sinh hoạt đời thường hiện ra không có gì độc đáo. Thế nhưng, nó lại có sức hút đến lạ. Sức hút đến từ dòng cảm xúc của các nhân vật. Thanh – một chàng trai trở về quê sau 2 năm xa với niềm mong nhớ khôn nguôi. Quê hương như dòng nước thanh khiết gột rửa tâm hồn chàng tránh xa khỏi chốn phồn hoa đô thị. Và bà của Thanh mang bóng hình người phụ nữ Việt Nam – một con người tần tảo, hi sinh, chịu thương chịu khó. Nga – một cô bé hàng xóm xinh xắn, hồn nhiên, dễ thương mang trong mình mối tình sâu kín đầu đời với Thanh. Mạch truyện diễn ra chậm rãi, nhẹ nhàng cùng những cảm xúc của nhân vật khiến bạn đọc như được hoà mình trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy.

Truyện tâm tình, với nghệ thuật xoáy sâu vào tình cảm người đọc bằng giọng văn nhỏ nhẹ, thủ thỉ, điềm tĩnh và lắng sâu, nhiều dư vị, dư vang, bằng một hình tượng nghệ thuật có sức lay động và ám ảnh sâu sắc. Thạch Lam đã đem đến cho bạn đọc những cảm nhận về tình yêu quê hương, tình yêu gia đình và mối tình đôi lứa hồn nhiên, trong sáng. Câu chuyện khép lại nhưng mở ra trong lòng bạn đọc nhưng suy tư, trăn trở về con người, về cuộc đời. Đó chính là thành công của một tác phẩm “truyện không có cốt truyện”.

Trao đổi

Người nghe đưa ra các nhận xét, góp ý, câu hỏi về bài nói. Người nói tiếp nhận các ý kiến này và trao đổi thêm (tán đồng, bác bỏ, trả lời câu hỏi, bàn luận mở rộng,…).

4. Để hiểu đúng nhân vật Huấn Cao, có nhất thiết phải biết tường tận về Cao Bá Quát

Chữ người tử tù là một truyện ngắn lãng mạn xuất sắc, tiêu biểu cho lý tưởng thẩm mĩ và phong cách nghệ thuật của ông.

Chữ người tử tù là một truyện ngắn gọn. Thế giới nhân vật ở đó cũng không nhiều. Thế nhưng nhân vật nào trong thiên truyện này cũng hiện lên thật sống động với số phận riêng, vẻ đẹp riêng. Vốn là người phóng túng, tài hoa, khinh bạc cái xã hội thối nát đương thời, Nguyễn Tuân đã say sưa, trân trọng khi xây dựng hình tượng người tử tù Huấn Cao.

Khi xây dựng hình tượng người tử tù Huấn Cao, Nguyễn Tuân dựa vào nhân vật lịch sử từng một thời vang bóng. Vậy ông đã tìm thấy những gì ở Cao Bá Quát – nguyên mẫu của hình tượng Huấn Cao? Cao Bá Quát nổi danh với văn hay chữ tốt, lại là người sống có lý tưởng, có bản lĩnh, bất chấp cường quyền. Trong lịch sử dân tộc ta, không thời đại nào vắng bóng anh hùng, nhưng kiểu anh hùng – nghệ sĩ như Cao Bá Quát không nhiều lắm. Cao Bá Quát vừa là một nhà nho uyên bác, vừa là một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa vừa là một cá tính tài hoa vừa là một nhân cách cứng cỏi. Vì thế, chúng ta hiểu vì sao trong sáng tác của Nguyễn Tuân cả trước và sau Cách mạng, Huấn Cao là một trong số không nhiều nhân vật mang vẻ đẹp rực rỡ, vẹn toàn nhất. Ở nguyên mẫu Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã tập trung tô đậm những nét cao quý phù hợp với lý tưởng của mình và Huấn Cao là hiện thân lồng lộng của cái đẹp trong hoàn cảnh đen tối, tù túng thời đó.

Huấn Cao trước hết là một con người tài hoa khác thường. Mở đầu truyện ngắn, thông qua cuộc đối thoại bàn luận giữa quản ngục và thơ lại mà nhà văn giới thiệu với người đọc vẻ đẹp này của Huấn Cao. Ấy là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp. Người xưa thường treo trong nhà, nơi trang trọng nhất những bức họa quý, những hàng chữ đẹp viết trên lụa óng hoặc khắc trên gỗ phủ sơn mài. Ấy là tài thư pháp, là thú chơi chữ – một nét đẹp của truyền thống dân tộc… Bởi cảm cái tài viết chữ của Huấn Cao nên viên quản ngục có sở nguyện thiết tha: có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Trong tâm niệm của quản ngục có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời. Cái sở nguyện thầm kín, thiết tha trôi đi, ngày Huấn Cao bị hành hình mỗi lúc một gần.

Chữ ông Huấn Cao phải đẹp lắm, quý lắm thì viên quản ngục mới kiên trì, mới đối xử nhún nhường đến thế để mong được ông cho chữ. Mà đâu phải kiên trì, nhún nhường (ngay cả khi bị lạnh lùng đuổi ra), còn phải dũng cảm nữa. Biệt đãi một tên tử tù như thế rõ ràng là hành vi rất nguy hiểm. Hành vi này ắt phải trả giá rất đắt nếu bị bại lộ.

Người nghệ sĩ tài hoa Huấn Cao cũng là một con người có tâm đẹp. Nguyễn Du đã từng viết Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Chính cái tâm này khiến người đời càng nể trọng Huấn Cao, khiến viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin chữ. Có tài nhưng Huấn Cao đâu dễ phung phí! Chữ của ông vàng ngọc không mua được, quyền thế không ép buộc được. Cái tâm của một kẻ có tài thể hiện ở lòng tự trọng, ở chỗ biết giữ lấy, biết tiếc cho cái tài của mình, biết dùng cái tài đúng lúc, đúng chỗ.

Lòng tự trọng của Huấn Cao thể hiện rõ nhất qua ý thức giữ trọn thiên lương dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khi viên quản ngục đánh bạo mở cửa buồng giam ông Huấn, ngỏ ý muốn biệt đãi ông miễn là ngài giữ kín cho, Huấn Cao chưa hiểu lòng tốt, thiên lương ở viên quản ngục khác thường này, cứ nghĩ y như trăm ngàn viên quản ngục tham lam, tàn nhẫn khác. Ông không muốn hưởng ơn huệ của người khác, nhất là lúc người ấy đang ở phía đối địch với mình. Cho đến khi cất lên những lời truyền dạy, khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục, Huấn Cao vẫn muốn người này giữ thiên lương cho lành vững, đừng để nhem nhuốc mất cái đời thiên lương đi.

Là người từng lãnh đạo nông dân tỉnh Sơn khởi nghĩa chống lại triều đình để rồi lãnh án tử hình, là kẻ cầm đầu bọn phản nghịch, Huấn Cao còn nêu cao vẻ đẹp của khí phách cứng cỏi, của tinh thần dũng cảm, thái độ coi thường cái chết. Ngay từ những giờ phút đầu tiên xuất hiện ở trại giam tỉnh Sơn, Huấn Cao đã tỏ rõ khí phách của mình bằng hành động rỗ gông. Bất chấp lời dọa đùa của tên lính áp giải, người đứng đầu cái gông bằng thang gỗ lim nặng dễ đến bảy, tám tạ ấy đã lạnh lùng khom mình thúc mạnh đầu gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái khiến một trận mưa rệp rơi xuống. Cũng người ấy ngồi đợi ngày chết chém mà không hề tỏ ra nao núng, vẫn ung dung đường hoàng… Cũng người ấy cố ý làm ra khinh bạc đến điều đối với viên quản ngục… Lại đến khi nhận được tin sáng sớm ngày mai sẽ bị giải về kinh để lĩnh án tử, người ấy chỉ lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười. Huấn Cao quên việc cái chết đang đến gần mà chỉ lo làm sao đền đáp tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục.

Từ bước ngoặt trong cốt truyện để đi đến cảnh cho chữ trong nhà giam cuối truyện ngắn, ta thấy hiện lên vẻ đẹp của một tấm lòng trọng nghĩa, của một người ứng xử cao thượng, đầy tinh thần văn hóa. Những bậc anh hùng – nghĩa sĩ thời xưa bao giờ cũng coi trọng đạo nghĩa. Vì chữ nghĩa, vì ân trả oán đền mà họ sẵn sàng hi sinh thậm chí cả tính mạng của mình. Khi chưa nhận ra lòng tốt của viên quản ngục, Huấn Cao không thèm chấp, lạnh lùng, cứng rắn. Song lúc chợt hiểu được đây là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ thì ông tìm mọi cách để báo đáp. Cao Bá Quát đã từng viết: Nhất sinh đê thủ bái lĩnh mai (Suốt đời chỉ biết cúi lạy trước hoa mai). Huấn Cao – con người suốt đời ngẩng cao đầu trước cường quyền, bạo lực ấy đã biết cúi đầu trước vẻ đẹp của một tấm lòng biệt nhỡn liên tài, một nhân cách. Con người không hề sợ gông cùm, tiền bạc ấy đã biết sợ phụ một tấm lòng trong thiên hạ: Ta cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Chính Huấn Cao đã chủ động vạch ra kê hoạch cho chữ.

Ngòi bút của Nguyễn Tuân thật giàu tính tạo hình và đầy chất thơ khi dựng lên một cảnh tượng xưa nay chưa từng có ở cuối truyện ngắn. Bút pháp nghệ thuật đối lập được nhà văn vận dụng triệt để trong cảnh này. Trong cảnh cho chữ hiện lên sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa hành động và hoàn cảnh, giữa sức mạnh tinh thần, bản lĩnh con người và vóc dáng ngoại hình, giữa cái đẹp, cái cao thượng và cái xấu, cái ác. Hoàn cảnh, địa điểm cho chữ xưa nay chưa từng có: bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy màng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu khiến khói tỏa như đám cháy nhà; tư thế của người cho chữ, nhận chữ xưa nay chưa từng có: Huấn Cao cho chữ trong đêm cuối cùng của cuộc đời, vẫn một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, viên quản ngục thì cẩn trọng, khúm núm, thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng chậu mực. Giờ đây, Huân Cao trở lại cương vị người cho chữ, người truyền giáo; viên quản ngục ở vị trí người nhận chữ, được đáp ứng sở nguyện thiết tha của mình bấy lâu nay. Không có kẻ phạm tội, không có cai ngục, thơ lại. Chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước những đôi mắt sùng kính, ngưỡng mộ của những kẻ liên tài.

Tất cả đều sống động trong ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, của thiên lương và khí phách. Sự gặp gỡ kì lạ giữa ba tấm lòng ấy khiến cho nơi buồng giam nhơ bẩn, giữa chốn ngục tù tàn bạo ngời sáng lên một sức mạnh của nhân cách cao cả, của tài hoa, của cái đẹp. Với cảnh cho chữ, kẻ tử tù Huấn Cao đã đi vào bất tử.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách ” Soạn bài Nói và nghe Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau SGK Ngữ Văn 10 tập 2 Kết nối tri thức ” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!