Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “phân tích nhân vật Thúy Kiều, con người của hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch ” chuẩn nhất 12/2024.
Đề bài: Thúy Kiều, con người của hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch
Dàn ý phân tích Nỗi đau của Thúy Kiều
I. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du (vị trí trong nền văn học), tác phẩm Truyện Kiều (giá trị đặc sắc), đoạn trích trao duyên (vị trí và nội dung đoạn trích).
– Khái quát về nỗi đau của Kiều trong đoạn trích Trao duyên: Đó là những bi kịch đầy đau đớn của một kiếp tài hoa bạc mệnh. Qua đó thể hiện tấm lòng đồng cảm, xót thương của tác giả.
II. Thân bài:
1. Nỗi đau phải chọn lựa giữa tình và hiếu.
– Kiều kể về mối tình mặn nồng cùng chàng Kim:
+ Thời gian: “Khi ngày…khi đêm’: Sự gắn bó mặn nồng của Kim và Kiều
+ Hành động: “ Quạt ước, chén thề”: Gợi những kỉ niệm đẹp, những lời hẹn ước của hai người
– “Sóng gió bất kì”: Kiều nhắc đến cơn sóng gió, tai biến của gia đình.
– Thúy Kiều phải đứng giữa hai lựa chọn: Tình và hiếu, cuối cùng Kiều đã chọn chữ Hiếu và hi sinh chữ tình.
→ Mối tình Kim – Kiều là mối tình nồng thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh. Phải hi sinh chữ tình Kiều vô cùng đau đớn, xót xa.
2. Nỗi đau phải trao đi duyên tình.
a. Lời lẽ và hành động trao duyên của Kiều
– Lời lẽ:
+ “Cậy”: trông mong tin tưởng, mang âm điệu nặng nề gợi sự đau đớn khó nói
+ “Chịu”: sắc điệu cầu khẩn van xin.
– Hành động: “Lạy, thưa” thể hiện sự thay đổi ngôi thức bậc, khẩn khoản vì đó là việc nhờ cậy cực kì quan trọng
→ Lời lẽ và hành động khẩn khoản, trang trọng vì Kiều biết hành động trao duyên của mình có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời Vân.
b. Lí lẽ trao duyên:
– Kiều nhắc đến tuổi trẻ của Vân, nhắc đến tình máu mủ, và cả cái chết
→ Những lí lẽ vô cùng sắc sảo đầy lí trí, thuyết phục em bằng cả lí lẽ và tình cảm khiến Vân không thể từ chối
→ Kiều đang cố gồng mình làm chủ cảm xúc dù đang vô cùng đau đớn.
c. Kiều trao kỉ vật cho em.
– Kỉ vật: Chiếc vành, bức tờ mây
→ Kỉ vật đơn sơ mà thiêng liêng, gợi quá khứ hạnh phúc.
→ Kiều đau đớn khi nhớ lại mối tình đẹp của mình
– Cách nói: “Duyên này thì giữ – vật này của chung”: Sự giằng xé, mâu thuẫn trong tâm trạng Kiều.
→ Kiều đau đớn, dằn vặt tột cùng khi trao đi kỉ vật tình yêu. Khi lí trí không thể là chủ, nàng đã quyết giữ lại tình yêu mà chỉ trao duyên số.
d. Kiều dặn dò em.
– Từ ngữ chỉ cái chết: lò hương, hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan,
→ Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng.
⇒ Còn gì đau đớn hơn khi Kiều phải đi trao duyên trong khi trong lòng còn yêu rất nhiều. Đó là bi kịch lớn trong tình yêu.
⇒ Người mà Kiều trao duyên lại chính là em gái của mình vì đó là người mà Kiều tin tưởng nhất, nhưng nó lại khiến nỗi đau của Kiều lớn hơn vì nàng lo lắng cho tương lai của Vân rồi đây sẽ ra sao.
3. Nỗi đau trước cuộc đời dang dở, đổ vỡ, lênh đênh, lỡ làng
– Sử dụng một loạt các thành ngữ.
+ “Trâm gẫy gương tan”: Chỉ sự đổ vỡ
+ “Tơ duyên ngắn ngủi”: Tình duyên mong manh, dễ vỡ, dễ đổ nát
+ “Phận bạc như vôi”: Số phận hẩm hiu, bạc bẽo
+ “Nước chảy hoa trôi lỡ làng”: Sự lênh đênh, trôi nổi, lỡ làng
→ Hình ảnh gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi.
– Nguyễn Du đã mở ra hai chiều thời gian hiện tại và quá khứ. Quá khứ thì “muôn vàn ái ân” đầy hạnh phúc trong khi ấy hiện tại thì đầy đau khổ, lỡ làng và bạc bẽo.
→ Sự đối lập nhấn mạnh, khắc sâu bi kịch, nỗi đau của Kiều, càng nuối tiếc quá khứ đẹp đẽ bao nhiêu thì thực tại càng bẽ bàng, hụt hẫng bấy nhiêu.
⇒ Thực tại cuộc đời đầy nhiệt ngã đầy đau đớn, tủi hờn của Thúy Kiều. Chính Kiều là người nhận thức được rõ nhất về cuộc đời mình, vì thế nỗi đau càng thêm xót xa.
III. Kết bài:
– Khái quát lại những nội đau của Kiều trong đoạn trích
– Thể hiện suy nghĩ của bản thân: Xót thương, đồng cảm, chia sẻ với những nỗi đau của Kiều.
Bài Mẫu Số 1: phân tích nhân vật Thúy Kiều, con người của hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch
“Người sao hiểu hết đủ đường
Kiếp sao rặt những đoạn đường thế thôi ?”
Hai câu thơ trên là những lời thương xót của sư bà Giác Duyên và tiếng nói đồng cảm từ trong tâm của đại thi hào Nguyễn về cuộc sống biến động dữ dội, thăng trầm, vinh nhục của Thuý Kiều. Câu chuyện cuộc đời trầm luân của nàng Kiều được Nguyễn Du miêu tả đã đi qua hàng mấy thế kỉ, nhưng vẫn gây thổn thức trong tim người đọc. Đó là câu chuyện về con người của hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch.
Thuý Kiều không chỉ hiện thân cho đỉnh cao của nhan sắc, tài hoa và phẩm hạnh, mà còn là hiện thân cho kiếp hồng nhan đa đoan, cuộc đời thay đổi liên tục ở nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Đang là một tiểu thư đài các sống trong cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che”, vậy mà qua một phen “gió cuốn mặt duyền” đã làm cho cuộc đời nàng trải qua bao nỗi truân chuyên, tủi phận. Những biến cố xảy ra liên tục trong cuộc đời của nàng thể hiện sự thăng trầm ở đời. Ví như, trong tiết thanh minh, khi ra về sau lễ hội “đạp thanh, tảo mộ” nàng gặp mộ Đạm Tiên, tưởng như là một điềm không may, nhưng rồi lại gặp được chàng Kim Trọng với “Phong tư tài mạo tót vời/ Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”, nghĩ nàng đã có được mối lương duyên tốt. Sau đó, tình cảm ngày thêm mặn nồng, thắm thiết, hai người đã kết lời thề ước trăm năm, ngỡ rằng với vẻ đẹp “tài sắc vẹn toàn”, nàng sẽ có một cuộc sống như trong mơ nhưng rồi biến cố gia đình xảy ra Thuý Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em thoát khỏi vòng lao lí. Lại tưởng rằng, nàng được gả bán cho một Mã Giám Sinh có học thức – sinh viên trường Quốc Tử Giám – để đổi lấy sự bình yên cho gia đình, nào ngờ, nàng đã rơi vào cái bẫy của một con buôn, kiếm tiền trên thể xác của người phụ nữ. Hắn đã bán nàng vào lầu xanh làm nghề kĩ nữ. Ở lầu xanh, Thuý Kiều được Sở Khanh cứu thoát tưởng rằng đã thoát khỏi “vũng bùn lầy nhơ bẩn” nhưng không, hoá ra đó lại là một âm mưu nham hiểm ép nàng phải tiếp khách của Tú Bà dựng ra. Thân cô thế cô ở chốn lầu xanh, nàng buộc phải nuốt nước mắt vào trong và chấp nhận tiếp khách làng chơi. Ở đây, nàng gặp được Thúc Sinh và được chàng lấy về làm vợ lẽ, được sống một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy, bù đắp cho những đau đớn đã trải qua. Ngờ đâu, nàng lại gặp phải Hoạn Thư, máu ghen đã có tiếng mà quỷ kế, cay nghiệt thì có thừa. Nàng lại sống trong cảnh “Bắt khoan bắt nhặt đến lời/ Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay” đành hát, hầu rượu cho vợ chồng Thúc Sinh. Sau đó, bọn “buôn phấn bán hương” Bạc Bà, Bạc Hạnh lại đẩy nàng vào chốn lầu xanh lần thứ hai, nhân phẩm của nàng lại bị dày vò, vấy bẩn lần nữa khiến cho nàng cũng phải cất tiếng đay nghiến trước thực trạng phũ phàng, cuộc sống bị cầm tù trong một vòng tròn luẩn quẩn không lối thoát :
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
Rồi nàng lại gặp được chàng Từ Hải, một trang anh hùng hảo hán, trượng nghĩa, tưởng là vinh hiển đã đến rồi nhưng thực chất ẩm ngầm bên trong đó là một tai hoạ chết người chờ đón. Nàng nghe theo lời Hồ Tôn Hiến, tưởng được rạng ngời mặt mày, tự hào mẹ cha nhưng kết quả là chồng nàng là “tướng chết giữa trận”, bản thân nàng bị cưỡng ép, phải gieo thân xuống giữa sông Tiền Đường. Rồi nàng lại được cứu, tưởng được đoàn viên hạnh phúc, kết lại duyên xưa với chàng Kim nhưng rồi hạnh phúc đành phải để dang dở…
Qua những diễn biến đó, cho thấy cuộc đời của Thuý Kiều mang một hiện thực khổ đau đầy xót xa, ai oán, số phận bi kịch đã vận vào người ngay từ bản đàn nàng đã từng sáng tác “Khúc nhà tay lựa nên chương/ Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Những nỗi đoạn trường cứ bám lấy cuộc đời Thuý Kiều như một định mệnh, không cho nàng được sống thanh thản, an yên, dù là một khắc ngắn ngủi. Nàng cứ thoát ra được chốn tăm tối được chút thì ngay sau đó lại bị vùi sâu hơn xuống bùn lầy nhơ nhuốc. Mỗi lần vinh hoa ghé đến, chìa tay ra cho nàng níu giữ nhưng ẩn sâu trong đó lại chứa đựng những mầm hoạ, đeo bám dai dẳng. Trong xã hội “vàng thau lẫn lỗn”, giá trị của đồng tiền được coi là thước đo của đạo đức, Thuý Kiều đã trở thành một miếng mồi ngon bị lừa lọc, vùi dập thê thảm, sống một kiếp đoạn trường đầy cay đắng với chuỗi bi kịch của một số phận “Chữ tài đi với chữ tai một vần”.
Bi kịch lớn nhất của cuộc đời Kiều là bi kịch về tình yêu và bi kịch về nhân phẩm. Mối tình giữa nàng và Kim Trọng được coi là mối tình xứng đôi vừa lứa “Người quốc sắc kẻ thiên tài”. Tình cảm dành cho nhau là một sự trân trọng, yêu kính, thắm thiết, nồng nàn. Đó là hiện thân của một mối tình lí tưởng, tự do đầy hạnh phúc phá bỏ rào cản của một hệ tư tưởng Nho giáo với quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Thế nhưng, “giữa đường đứt gánh tương tư, trâm gãy bình tan, nước chảy hoa trôi lỡ làng”, nàng phải “trao duyên” lại cho Thuý Vân gánh vác trách nhiệm của người chị cả trong gia đình. Bổn phận của người làm con là sao cho chữ hiếu phải tròn, nàng đành phụ tấm chân tình của chàng Kim. Lúc lưu lạc ở phương trời xa xôi, nàng lại luôn nhớ về hình bóng của người cũ:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Hay bàng hoàng, chơi vơi, hụt hẫng khi gọi tên chàng Kim với những lời than đầy thương xót:
Ôi Kim Lang ! Hỡi Kim Lang !
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng.
Tình yêu trân quý ấy đã tan vỡ chẳng thể nào hàn gắn lại được. Sau này, khi được đoàn viên về với gia đình, hai người gặp lại nhau nhưng không thể đến được với nhau. Đó là bi kịch của một tình yêu không thể chạm bước tới lễ đường thành hôn, phận vợ chồng không dành cho cả hai.
Bi kịch về nhân phẩm của nàng có lẽ là sự lên án đanh thép nhất cái xã hội đầy hỗn loạn và biến động, tố cáo tội ác của những kẻ từ quan thượng thư triều đình đến phường con buôn gian xảo, quỷ quyệt. Tất cả cũng chỉ vì đồng tiền mà sẵn sàng bức tử phẩm hạnh của một người con gái phận “liễu yếu đào tơ”. Những câu thơ đau đớn nhất cho bi kịch này của nàng là :
“Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”
Không có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau khi con người trọng danh dự, luôn có ý thức về nhân phẩm mà cuối cùng phải nói những lời từ chối tiết hạnh. Đó là bi kịch của bi kịch, mất danh dự là mất hết.
Có thể nói, đến thời đại của Nguyễn Du, ông là nhà thơ, nhà văn, nhà nhân đạo đã đề cập đến vấn đề của con người một cách trực diện, cấp bách và thống thiết như vậy trong Truyện Kiều. Số phận của con người hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch đã được Nguyễn Du khắc hoạ rất đời, rất thực thể hiện sự hiểu biết và thông cảm sâu sắc của ông đối với con người trong đời sống. Thông qua hình tượng nhân vật Thuý Kiều nhà thơ đã ẩn dụ nói về, viết về tất cả những thân phận của hàng vạn, hàng nghìn nàng Thuý Kiều trong cuộc sống ngày nay. Đó là những con người đại diện cho cái đẹp, chân, thiện, mĩ nhưng lại chịu thân phận hẩm hiu, bất công. Dư âm của những con người như Thuý Kiều vẫn còn vang vọng đến tận ngày nay :
“Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho cho hại cho tàn cho cân
Đã đày vào kiếp phong trần
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi”
Bài Mẫu Số 2: phân tích nhân vật Thúy Kiều, con người của hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch
Truyện Kiều có lẽ là tác phẩm nổi tiếng nhất trên thi đàn Việt Nam từ trước tới nay. Tác phẩm ấy là những vần thơ kể xuyên suốt về cuộc đời của một cô gái bất hạnh, từ khi còn được sinh trưởng trong gia đình tới khi phải bước ra ngoài rơi vào con đường đầy truân chuyên rồi đến khi được trở lại đoàn tụ cùng gia đình. Mỗi câu thơ trong truyện Kiều đều được Nguyễn Du trau chuốt để viết lên một thiên chuyện bằng thơ đầy đau xót của một Thúy Kiều tài hoa mà bạc mệnh. Nàng là hiện thân của một con người vừa có hiện thực, thực tại đau khổ, vừa có một vận mệnh bi kịch, đau đớn.
Mỗi nhân vật trong thiên “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đều được dựng lên vô cùng sống động qua những vần thơ đầy tâm huyết. Chúng ta thấy được một Kim Trọng “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”, một Thúy Vân với “khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” và càng không thể nhắc tới Thúy Kiều “ hoa ghen đua sắc, liễu hờn kém xanh”. Thế nhưng, đối lập với vẻ ngoài “chim sa cá lặn” ấy, cuộc đời Kiều lại toàn là những truân chuyên đau khổ, những thương xót, ngậm ngùi. Cả tác phẩm khắc họa cuộc đời sóng gió của Kiều cùng những bước chân trên con đường đời đau khổ cho đến khi được trở lại đoàn tụ cùng gia đình mình. Thế mới nói, cuộc đời của Kiều là một chuỗi những hiện thực đau khổ ẩn chứa trong đó là một vận mệnh mang đầy tính bi kịch, đau thương.
Tại sao lại nói cuộc đời của Kiều là một chuỗi những hiện thực đau khổ? Nhắc tới điều này, chúng ta phải lật giở lại những câu thơ đầu tiên của tác phẩm truyện Kiều. Kiều sinh ra trong một gia đình trung lưu của xã hội và có hai người em. Thế nhưng, hiện thực nghiệt ngã đến với Kiều bắt đầu tự vụ kiện mà cha và em trai nàng vướng phải khiến hai người phải vào chốn ngục tù. Nếu không có những đồng tiền xoay xở, chắc hẳn, cha và em trai sẽ phải chịu tội trong chốn lao ngục. Thế nên, sau bao quyết định đau khổ, Kiều quyết định bán thân mình cứu lấy gia đình. Từ một quyết định đó đã đẩy cuộc đời Kiều vào những bi kịch nối tiếp bi kịch. Bán mình cứu cha, Kiều trở thành một món hàng không hơn, không kém trong mắt những kẻ như Sở Khanh, Tú Bà, … Kiều là một món hàng với những “cò kè”, những “ngã giá”, … trong mắt những kẻ vô học “ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, buôn thịt người để chúng tha hồ:
“Có kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”
Nếu như có ai hỏi nguyên nhân nào đã đẩy Kiều vào hoàn cảnh ấy, hoàn cảnh bị tước đoạt tất cả, gia đình, tình yêu, tương lai hạnh phúc, bị chà đạp về nhân phẩm, trở thành một món hàng để người ta trao tay, thì đó chính là cái xã hội đương thời mà Kiều đang sống. Chính nó là tác nhân gây nên tấn bi kịch, gây nên cái hiện thực phũ phàng của Kiều. Nó đã tước đoạt của người con gái ấy tất cả mọi thứ mà nàng có trong tay và dìm nàng xuống bể khổ cuộc đời. Từ một tiểu thư danh giá, nàng trở thành một thứ hàng hóa để người khác mặc sức “ngã giá”, trả tiền. Đó là nỗi nhục nhã, ê chề đầu tiên mà Kiều phải gánh chịu.
Thế nhưng, không chỉ tước đoạt của nàng hạnh phúc, nó còn biến nàng trở thành một người con gái giang hồ, thành một cô gái lầu xanh trong chốn ô nhục. Cuộc đời của một cô gái lầu xanh dường như đều có cái kết cục như của Đạm Tiên:
“Sống là vợ khắp người ta
Đến khi thác xuống làm ma không chồng”
Cuộc đời Kiều trở nên đầy đau khổ. Cô rơi vào vòng xoáy đen tối của cuộc đời, bị đẩy đưa từ người này qua người khác, là một món hàng để người ta trao đổi. Nhân phẩm của nàng bị chà đạp đến tận cùng như vậy. Đau khổ biết nhường nào!
Chẳng những thế, đến khi có được chút hạnh phúc bên cạnh Từ Hải, chỉ vì một chút nông nổi, tin người, nàng đã giết chết người anh hùng cứu vớt của đời mình, lại biến mình trở lại cuộc sống như trước kia. Chẳng phải số phận đã quá nghiệt ngã với người con gái ấy khi khiến nàng sống trong những chuỗi hiện thực đau khổ liên miên suốt mười lăm năm ròng rã sao? Đến khi được trở lại cùng gia đình, gặp lại tình yêu của đời mình, nhưng lại chẳng thể cùng chàng sống trọn bên nhau, đây chẳng phải là điều vô cùng đau lòng hay sao?
Con người của Thúy Kiều là minh chứng cho một xã hội đầy rẫy sự bất công, lừa lọc. Xã hội ấy sẵn sàng vì tiền mà đẩy con người vào những cõi sâu tăm tối nhất. Chính xã hội ấy đã tước đoạt của Kiều tất cả, biến nàng trở thành một thứ rẻ mạt nhất, chà đạp lên nhân phẩm con người nàng. Chuỗi hiện thực đau khổ trong đời Kiều nguyên do đều là bắt nguồn từ cái xã hội thối nát về nhân cách người ấy.
Cuộc đời của Kiều đau khổ là vậy, thế nhưng dường như cái vận mệnh nàng mang đã đầy bi kịch như thế. Và chuỗi sau chỉ là tiếp nối của cái vận mệnh ấy. Một người con gái tài sắc vẹn toàn như Kiều “hoa ghen thua thắm, liều hờn kém xanh” dường như đã chạm tới trời xanh, tới người tạo nên vận mệnh của con người. Liệu có chăng chính ông trời là người đã ghen tức với sự tài hoa của Kiều mà tạo nên cho nàng một vận mệnh đau khổ như thế hay do cái xã hội phong kiến kia đã đẩy nàng vào vận mệnh bi kịch nhường ấy. Khi Nguyễn Du nhắc tới Kiều, ông đã dùng những từ ngữ đẹp nhất dành tặng cho nàng. Thế nhưng, dường như Nguyễn Du cũng đã cảm thấy được rằng sắc đẹp của Kiều sẽ khiến trời đất ghen ghét mà khiến nàng sẽ phải chịu kiếp “hồng nhan bạc phận”. Nguyễn Du đã viết về Kiều rằng:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liều hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”.
Với sắc đẹp và tài năng của mình, vận mệnh của Kiều đáng ra sẽ phải suôn sẻ, sáng tươi như bao người con gái khác. Nhưng không, vận mệnh của nàng lại đen tối, đau khổ hơn bất kì người nào khác trong “truyện Kiều”. Nàng phải bán mình cứu lấy cha, nỗi đau đớn trở thành một món hàng để người ta dò xét, đánh giá, “cò kè thêm một bớt hai”. Đó là một nỗi ê chề, khổ sở đầu tiên mà Kiều phải chịu đựng. Bị chà đạp về nhân phẩm, bị coi rẻ, bị xem thường là những nỗi đau mà chắc hẳn Kiều chẳng thể quên. Không chỉ vậy, nàng còn phải trao đi tình yêu của đời mình – một tình yêu mới chớm nở đẹp như hoa đào ấy phải trao lại cho người em trong niềm đau xót, tiếc thương:
“Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Hay: “Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Vận mệnh bi kịch ấy của nàng đã đưa đẩy nàng hết bất hạnh này sang bất hạnh khác. Bao lần Kiều những tưởng đã có cho mình hạnh phúc thì lại rơi vào chốn đau khổ lần nữa. Từ Kim Trọng rồi đến Thúc Sinh rồi đến Từ Hải, mỗi người trai ấy đến bên cạnh nàng, nàng lại tưởng có được hạnh phúc, thế nhưng không lần nào cô có được hạnh phúc trọn vẹn. Tình yêu với Kim Trọng phải trao lại cho em gái, tình yêu với Thúc Sinh lại chỉ như “rừng phong kia đã nhuốm màu quan san”, mờ mịt. Còn tình yêu “tâm phúc tương tri” với Từ Hải tưởng rằng đã trọn vẹn thì chính tay nàng đã khiến Từ Hải phải chịu oan ức mà chết đứng giữa trời. Vận mệnh đau khổ đã kéo nàng đi hết những đau thương này tới khổ sở khác, thoát khỏi tay Tú Bà thì đến tay Bạc Bà, thoát khỏi Sở Khanh lại rơi vào tay Hồ Tôn Hiến. Đó đều là những kẻ chỉ biết tới đồng tiền, tư lợi, nào có để ý đến phẩm giá hay biết trân trọng con người.
Đến cuối cùng, sau mười lăm năm lưu lại, Kiều đã được đoàn tụ cùng gia đình. Nhưng liệu vận mệnh ấy có khiến nàng trở nên hạnh phúc hay vẫn chỉ là bi kịch. Nàng được gặp lại Kim Trọng – tình yêu đầu tiên của mình, thế nhưng mọi chuyện đã chẳng còn như lúc trước, chàng và nàng đã chẳng còn là người của nhau. Đến cuối cùng, nàng cũng chỉ như một Đạm Tiên bạc mệnh, ba mươi tuổi không chồng không con đầy đau xót.
Có thể nói, cuộc đời Kiều là một chuỗi những điều đau khổ của một vận mệnh đầy bi kịch. Vận mệnh ấy đã khiến nàng trở thành con người đáng thương nhất của “truyền Kiều”. Có lẽ vận mệnh ấy ngay từ đầu đã sắp đặt theo đuổi nàng bởi tài hoa và nhan sắc của nàng quá xuất chúng. Như Nguyễn Du đến cuối cùng cũng phải thốt lên một câu đau đớn rằng:
“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”
Với truyện Kiều, Nguyễn Du đã cực kì thành công khi xây dựng một nhân vật mà cả số phận và hiện thực cảu nàng đều toát lên sự đau khổ, cùng cực. Nỗi đau khổ ấy nguồn cơn đều do xã hội phong kiến đương thơi thối nát, quá coi trọng những vật chất tầm thường. Chính nó là nguyên do khiến cho mỗi người phải chịu những vận mệnh đầy bi kịch mà đặc biệt là Thúy Kiều.
https://thuthuat.taimienphi.vn/thuy-kieu-con-nguoi-cua-hien-thuc-kho-dau-con-nguoi-cua-van-menh-bi-kich-42031n.aspx
Bằng tài năng và tình yêu thương con người của mình, Nguyễn Du đã viết lên “truyện Kiều” với đầy lòng bao dung, yêu mến. Ông đã viết lên những mảnh đời đầy tài hoa nhưng bất hạnh bị xã hội chà đạp, bị tước đoạt tất cả. Những điều đó được ông trân trọng đặt hết vào nhân vật Thúy Kiều bởi cuộc đời nàng là một tấn những hiện thực đau khổ qua vận mệnh bi kịch đau xót. Qua đó, ông cũng lên án, tố cáo xã hội phong kiến đã đẩy con người ta vào bước đường cùng đau khổ. “Truyện Kiều”’ xứng danh là tác phẩm tuyệt vời nhất nền văn học Việt Nam.
Bài Mẫu Số 3: phân tích nhân vật Thúy Kiều, con người của hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch
Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thúy Kiều: “Khi lại lắng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi rừng tía cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ càng tê lưỡi…” Thúy Kiều đã trải qua hầu hết những đau khổ của người phu nữ dưới chế độ phong kiến; gia đình li tán, tình yêu tan vỡ, làm gái thanh lâu, làm nô tì, làm vợ lẽ, tu hành bất đắc chí, và rồi cuộc đời hầu hết không chồng, không con giữa 30 tuổi xuân.
Nhân vật Nguyễn Du là một con người luôn luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, nhưng đồng thời, luôn luôn hướng tới ánh sáng của hạnh phúc, Thúy Kiều chỉ từ bỏ thiên hướng này khi cuộc sống phủ định nguyện vọng của nàng.
Vận mệnh và tính cách có màu sắc bi kịch này quán xuyến nội dung tác phẩm: khắp Truyện Kiều phảng phất không khí buồn; quán xuyết kết cấu tác phẩm: trong hệ thống “Hội ngộ – Tai biến – Đoàn tụ” Nguyễn Du dành phần lớn tác phẩm để viết về quãng đời “Tai biến” của Kiều và trong toàn bộ tác phẩm, kể cả những giây phút đính ước, tình tự của phần “Hội ngộ”, hay trở về với người yêu trong phần “Đoàn tụ”, hạnh phúc của nàng không bao giờ trọn vẹn; quán xuyến hình tượng nhân vật: Thúy Kiều luôn luôn sống trong tâm trạng bi kịch.
Nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, tài đàn tuyệt diệu và tài thơ mẫn tiệp của nàng rút cục cũng chỉ để “đem bán vào thuyền lái buôn”. Sự chà đạp lên tài hoa, nhan sắc con người là một tội ác của chế độ phong kiến, nhưng nếu quan niệm mâu thuẫn chủ yếu trong Truyện Kiều là mâu thuẫn giữa trí đức và tài năng với chế độ như ý kiến sau đây: “Mâu thuẫn giữa chế độ xã hội bất công với tài năng của con người là một mâu thuẫn tuyệt đối… Nguyễn Du đã diễn tả mâu thuẫn đó một cách hệ thống từ mở đầu Truyện Kiều cho đến cuối”.
“bao giờ còn chế độ xã hội bất công, nhất là ở giai đoạn suy vong của chế độ này, tài hoa chỉ là một mối hận hết sức thê thảm. Đó là cảm hứng chủ đạo nhất, sâu sắc nhất, bi thiết nhất của Nguyễn Du”… có lẽ cũng có phần cần bàn bạc.
Bởi vì nổi bật trên tất cả kiến đoạn trường và nỗi đoạn trường là sự chà đạp lên hạnh phúc tình yêu và ước mơ công lí của người phụ nữ nhan sắc, tài hoa, đa sầu, đa cảm và hết sức vị tha này. Nói một cách khác, Nguyễn Du đặc biệt chú trọng trình bày, miêu tả mâu thuẫn sâu sắc giữa khát vọng hạnh phúc của con người bị áp bức với những thế lực xấu xa, tàn bạo của chế độ phong kiến.
“Giữa đường đứt gánh tương tư” – vì hạnh phúc gia đình, vì vận mệnh cha và em, Kiều hi sinh hạnh phúc cá nhân. Đó là lí tưởng đạo đức và cũng là một phương diện hạnh phúc của đời nàng (Cõi xuân tuổi hạc càng cao – Một vai gánh vác biết bao nhiêu cành… Thà ràng liều một thân con – Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây) nhưng vì đây chỉ là một phương diện của hạnh phúc nên Kiều tiếp tục đi vào một bi kịch khác. Thúy Kiều, con người của một thời lại đã có ý thức sâu sắc hơn, phong phú hơn về đau khổ cũng như về khát vọng của mình, không thể đơn giản chấp nhận chỉ một phương diện nào của hạnh phúc. Ngoài hạnh phúc gia đình, nàng còn sống với khát khao tình yêu tuổi trẻ. Ngoài tình thương cha mẹ, hai em, còn tình yêu với chàng Kim. Vì giữa cái tuổi mười sáu, với một nhan sắc khuynh thành, một tài hoa rực rỡ, một trái tim nồng nàn, nàng đã gặp Kim Trọng – chàng trai “phong tư tài mạo tuyệt vời”… Nói một cách khác, Thúy Kiều đã đối diện hạnh phúc. “Kể từ khi gặp chàng Kim” nàng đã sống trong hương vị ngây ngất ngọt ngào của giờ phút “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê” ban đầu, của những sớm chiều tình tự “Đủ điều trung khúc ân cần – Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng”, và nhất là buổi hôm kì diệu:
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê…
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần,
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng…
Buổi hôm kì diệu với tình yêu đắm đuối nồng nàn:
Hoa hương càng tỏ thức hồng,
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu…
Làm sao có thể chôn vùi trong tim đang độ sôi nổi mối tình đầu nên thơ sâu sắc ấy! Tai biến ập đến, Thúy Kiều đã đi theo con đường quen thuộc cửa những thiếu nữ gặp ngang trái trong tình duyên xưa kia:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Giống như Nhụy Châu đã nhờ cô thị nữ tin yêu thay mình trả nghĩa Song Tinh khi nàng bị gian thần hãm hại đem đi cống Phiên:
Mai sau chàng có về đây,
Duyên xưa tác hợp cậy mày thể tao.
(Truyện Song Tinh)
Và chữ “nghĩa” theo quan niệm phong kiến kia tưởng đâu sẽ là một bài thuốc hiệu nghiệm:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Nhưng không, Kiều thấu hiểu rằng không ai có thể thay thế nàng trong trái tim yêu đương của chàng Kim, cho dù người đó là em gái mình đi chăng nữa.. Nàng tiếp tục rơi vào một bi kịch khác:
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Nàng vẫn là con người của bi kịch. Là bởi vì như nhiều người bình luận Truyện Kiều đã viết, trong mối quan hệ với chàng Kim, bao giờ Nguyễn Du cũng đành cho chị chữ “Tình” và cô em chữ “Duyên”:
Duyên em dù nối chỉ hồng,
May ra khi đã tay bồng tay mang.
Tình duyên ấy, hợp tan này,
Bi hoan mấy nỗi đêm chảy trăng cao.
Khi ăn ở, lúc ra vào,
Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa.
Cũng như các bè bạn cùng thế hệ, Thúy Kiều những mong đem chữ ‘‘Nghĩa” đền đáp người yêu, nhưng tự chiều sâu của đáy lòng, nàng hiểu rằng không bao giờ mối nhân duyên ấy có thể là hạnh phúc trọn vẹn của chàng Kim (Nỗi nàng nhớ đến bao giờ – Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng; nghe tường ngành ngọn tiêu hao – Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ…). Và Kiều nữa, cho dù “Chân trời góc bể bơ vơ – Tấm son gột rửa bao giờ cho phai’’, chữ “Nghĩa” không hồn không thể giúp nàng “ngậm cười chín suối” như Kiều đã nói với Vân.
Tình gia dinh, nghĩa nàng Vân không thể tiêu diệt hoàn toàn đau khổ. Tan vỡ đột ngột, tàn khốc đối lập với tình yêu sâu xa, mãnh liệt, và khát vọng hạnh phúc lứa đôi, là cái nền mâu thuẫn chủ yếu của nội tâm nhân vật trong phần mở đầu “Tai biến”. Một cô Kiều, vì hoàn cảnh phải vĩnh viễn chia lìa với người yêu nhưng không từ bỏ, không phủ định khát khao hạnh phúc yêu đương. Và Kiều gắng gượng giải quyết bi kịch trong tâm hồn để rồi rút cục, bất lực không giải quyết nổi.
Mai sau, trong hạnh phúc Kim Trọng, nàng không hiện diện. Nàng ước nguyện.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Nàng sẽ để lại những kỉ vật thân thiết của một quá vãng tươi đẹp. “Ngày xưa” đối với Kim Trọng mai sau mà cũng là “ngày xưa” đối với Kiều hiện tại: hạnh phúc rực rỡ đột ngột tan tành thảm khốc, những giây phút tươi đẹp mới mẻ đã trở thành một ảo ảnh vô cùng xa xôi. Thời gian siêu hiện thực biểu hiện tâm trạng tiếc hận đớn đau ghê gớm trong lòng Thúy Kiều. Trong Truyện Kiều cho dù đó là mấy ngày, hay mười lăm năm trường trôi qua, tất cả đều chỉ là quá vãng xa xăm:
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Nợ chàng Kim đó là người ngày xưa.
Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ.
Nhưng kỉ vật đâu phải là con người. Kỉ vật không thể giải quyết niềm thương nỗi nhớ. Và Kiều khao khát trở về gặp mặt người yêu, cho dù ước vọng ấy cũng hết sức mong manh:
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Trong toàn bộ Truyện Kiều, ngày trở về của người yêu, ngày tái hợp của đôi lứa thanh niên bao giờ cũng chỉ là những tháng năm mong manh vô định biểu hiện dưới dạng thái những từ ngữ phiếm chỉ:
Trùng phùng dẫu họa có khi,
Mai sau dù có bao giờ,
Biết bao giờ lại nối lời nước non.
Ước mơ bao hàm tuyệt vọng. Và sự hiển hiện ấy, nếu có, cũng chỉ là một ảo ảnh, một hạnh phúc siêu hình. Một cuộc trở về mà không có gặp gỡ. Thêm vào dó, một ràng buộc não nùng day dứt:
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Một lời thề chưa được giải đáp! Cái hạnh phúc “nguyện ước ba sinh” nhà Phật đưa ra để an ủi xoa dịu con người chính cũng vò xé lòng người trong bi kịch nặng nề, vì đằng sau lời thề của Kim Trọng – Thúy Kiều, thực chất là tình yêu sâu nặng, là khát vọng hạnh phúc mãnh liệt. Con đường Thúy Kiều đi không hoàn toàn là con đường của chàng trai trong bài vè cổ về câu chuyện Trương Chi:
Anh Trương Chi khi trờ ra về,
Cắm sào cho chặt hát thề một câu:
“Kiếp này đã dở dang nhau,
Thì xin kiếp khác duyên sau lai thành”.
Kiều chờ đợi một kiếp sau sum họp nhưng làm sao nàng có thế hình dung, có thể khẳng định hạnh phúc kiểu siêu hình ấy một khi nàng đã là người của cõi chết, cách biệt tuyệt đối với người yêu thuở trước:
Dạ đài cách mặt khuất lời…
Đến đây, Kim Trọng sẽ phải làm như Mị Nương, rõ một giọt lệ cảm thông trên bóng hình đau khổ của Trương Chi, hay như chàng trai trong Tình sử tuôn châu xuống trái tim uất kết của người yêu đã khuất.
Rảy xin giọt nước cho người thác oan.
Tình sử và câu chuyện Trương Chi chấm dứt ở đây. Oan hồn Trương Chi hiển hiện trên chén ngọc hay trái tim không tan của người vợ trong Tình dù đã do đồng cảm của người tình mà tiêu tan. Nhưng với Nguyễn Du, với Thúy Kiều, mâu thuẫn không hề được giải quyết. Nàng làm sao thể nghiệm được sự đồng cảm ấy, khi nó chỉ là ảo giác của mai sau… Làm sao Kiều có thể tự ru ngủ trong một giấc mộng mơ hồ, ảo giác như vậy! Và “sức cảm thông lạ lùng của nhà đại thi hào dân tộc” (Hoài Thanh) đối với con người thời đại đã đưa Thúy Kiều quay trở về với hiện tại phũ phàng:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Ở đây là mâu thuẫn giữa mối tình vô hạn sâu sắc và khát vọng hạnh phúc vô hạn mãnh liệt “muôn vàn ái ân”, với một sự đổ vỡ không gì có thể cứu vãn nổi (trâm gãy gương tan, tơ duyên ngắn ngủi, phận bạc như vôi, nước chảy hoa trôi thiếp đã phụ chàng).
Mâu thuẫn không được giải quyết. Bản chất hạnh phúc không tồn tại nơi chữ “Hiếu”, chữ “Nghĩa” theo quan niệm phong kiến! Và những quan niệm hạnh phúc siêu hình (kỉ vật, kiếp sau sum họp, giọt lệ cảm thông) hoàn toàn không thể xoa dịu khổ đau của người thiếu nữ có trái tim nồng nàn sôi nổi như Thúy Kiều.
Có thể nói, tâm trạng Kiều đứng trước mọi đổ vỡ của hạnh phúc, thể hiện sự đấu tranh giữa những quan niệm về hạnh phúc – những quan niệm hạnh phúc của Nho gia. Của Phật giáo và những quan niệm hạnh phúc có màu sắc nhân đạo chủ nghĩa. Thúy Kiều chỉ tìm đến những quan niệm hạnh phúc siêu hình khi hoàn cảnh ràng buộc:
Nàng từ lánh gót vườn hoa,
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng
Nhân duyên đâu lại còn mong,
Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi.
Và tìm đến nhưng để rồi phủ định, từ bỏ như ở đoạn “Trao duyên”. Cũng như sau này, tâm trạng “sự đời đã tắt lửa lòng”, cách xử lí “đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” chẳng qua cũng đều do biến động của hoàn cảnh. Nàng không thể là một sư nữ “chân tu”. Sẽ không bao giờ Thúy Kiều “đắc đạo”.
Nói một cách khác, Thúy Kiều đã được giải phóng khỏi những quan niệm siêu hình, tôn giáo về hạnh phúc. Nhân vật của Nguyễn Du là con người được thức tỉnh, dù chỉ để khổ đau. Thúy Kiều là con người của bi kịch. Hạn chế và giá trị của tính cách nhân vật cũng đều bao hàm trong yếu tố đó.
Bài Mẫu Số 4: phân tích nhân vật Thúy Kiều, con người của hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch
Truyện Kiều là bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại của Nguyễn Du. Tác giả đã làm nổi bật sự đối lập giữa quyền sống của con người, nhất là người phụ nữ Việt Nam, với sự áp bức của chế độ phong kiến suy tàn. Có thể nói, chủ nghĩa nhân đạo là nền tảng vững chắc cho tác phẩm này. Chủ nghĩa nhân đạo thấm nhuần trong mọi tình tiết của tác phẩm, thấm nhuần trong mọi bức tranh về con người cũng như thiên nhiên tạo vật. Nhưng tất cả bút pháp tập trung nhất ở Thúy Kiều, nhân vật trung tâm mà vận mệnh và tính cách có màu sắc bi kịch, quán xuyến toàn bộ nội dung tác phẩm. Có thể nói, màn đoàn viên là một bi kịch đau đớn nhất trong đời Kiều.
Sau 15 năm lưu lạc, chịu nhiều khổ cực và lựa chọn nhảy sông Tiền Đường để mong giải thoát khỏi kiếp khổ đau của đời người, của trần thế, thế nhưng cái chết không dành cho Kiều. Và rồi, Kiều được Kim Trọng và cả nhà tìm về từ thảo đường của Giác Duyên, sau quãng thời gian 15 năm lưu lạc. Cả nhà mừng vui mở tiệc đoàn viên. Giờ phút được trở lại cố hương chung sống với cha mẹ và hai em là một sự bất ngờ và hạnh phúc khôn xiết của Thúy Kiều. Nhưng đây cũng chính là một màn tái hợp thể hiện nghịch lý của cuộc đời, tâm trạng bi kịch và tình huống bi kịch mới lại tiếp tục xuất hiện với nàng Kiều. Từ hai sự kiện “tiệc đoàn viên’ và “đêm tái hợp” bi kịch của Kiều lại càng thêm đau đớn, với tình huống đầy kịch tính, “mối quan hệ tay ba” hết sức đặc biệt và chua xót giữa ba con người: Thúy Kiều – Kim Trọng – Thúy Vân. Với “Tiệc đoàn viên”, bên cạnh hạnh phúc đoàn tụ với gia đình, tưởng như Thúy Kiều còn có thể tìm lại hạnh phúc tình yêu. Thế nhưng, qua “Đêm tái hợp”, hạnh phúc lứa đôi đã vĩnh viễn trôi đi.
Trong mối quan hệ tay ba ấy, hình ảnh Thúy Vân xuất hiện, sự xuất hiện ấy rất đúng lúc để tạo ra một bối cảnh thích hợp cho tình huống phức tạp đang được đặt ra đối với cả gia đình, đặc biệt là đối với Thúy Kiều và Kim Trọng.
Tàng tàng chén cúc giở say
Đứng lên Vân mới giãi bày một hai
Trong tiệc hoa vui vầy, Thúy Vân đã lựa chọn thời điểm giữa chừng tiệc rượu, khi mà mọi người đã chia sẻ nỗi xúc động ban đầu và niềm vui đoàn tụ để đề cập tới chuyện tình duyên năm xưa. Với cử chỉ “Đứng lên Vân mới giãi bày một hai”, nàng rất từ tốn khoan thai để đặt vấn đề với Thúy Kiều, một sự việc rất khó nói: thành hôn với Kim Trọng. Vì đây là câu chuyện khó nói nên Thúy Vân đã nói dài đến 14 câu thơ với nhiều liên từ và điệp ngữ:
Vậy đem duyên chị buộc vào cho em
Cũng là phận cải duyên kim
Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?
Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Bây giờ gương vỡ lại lành
Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi
Còn duyên may lại còn người
Còn vầng trăng cũ còn lời nguyền xưa
Những lời nói của Thúy Vân rõ ràng, mạch lạc và với Vân thì quan hệ tình cảm Thúy Kiều- Kim Trọng là một mối quan hệ thiêng liêng được tác hợp bởi Trời và thề nguyền bởi con người :
Rằng : Trong tác hợp cơ trời
Đôi bên gặp gỡ một lời kết giao
Còn mối quan hệ giữa Thúy Vân và Kim Trọng xuất phát từ biến động của cảnh ngộ gia đình, của hoàn cảnh khách quan: “Gặp cơn binh địa ba đào”. Đặc biệt, Thúy Vân nói đến tình chị em giữa Thúy Vân và Thúy Kiều như là cơ sở sâu xa của việc nàng chấp nhận lấy Kim Trọng: “Vậy đem duyên chị buộc vào cho em”. Tình cảm chị em ruột thịt chân thành tha thiết giữa hai người. Và tiếp đó như để giãi bày cùng chị và thêm thuyết phục chị để nói tình cảm của Kim Trọng lâu nay vẫn dành cho người thương năm xưa:
Nhũng là mày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Biết chồng “vẫn mải mê đi tìm người yêu cũ”, nhưng Thúy Vân không chỉ cảm thông mà còn đồng cảm với tình yêu sâu sắc, say đắm của Kim Trọng dành cho Thúy Kiều. Câu thơ “Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình” càng khẳng định tình yêu bất diệt trước mọi thử thách của thời gian. Thúy Vân biết rằng, chị mình khó lòng chấp nhận việc tái hợp với người tình xưa. Vì vậy, Vân đã rất khéo léo nói đến mối ràng buộc thiêng liêng giữa Kim – Kiều: khuôn trời uy nghi đã tạo dựng nên mối nhân duyên này và hai người đã có lời ước nguyện thiêng liêng. Đó là những điều không thể và khó để dứt bỏ. Thế rồi, ngoài tình yêu tha thiết và những ràng buộc thiêng liêng, người em gái này còn đưa ra lý lẽ về tuổi xuân không phôi pha của người chị gái đã xa nhà từ mấy năm trước:
Quả mai ba bảy đường vừa
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì
Còn đối với Kiều, khi được trở về từ nơi tu hành, Kiều cứ ngỡ là yên ổn, là an toàn. Nhưng thật không ngờ cuộc đời lại đầy bi kịch, cuộc đời đau khổ lại vẫn tiếp diễn. Thúy Vân đã khơi vào vết thương, nỗi đau tưởng như đã lành của Kiều. Trong tâm trí Kiều, mối tình đẹp đẽ năm xưa đã được chôn vùi vào quá khứ dĩ vãng:
Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ
Một lời tuy có ước xưa
Xót mình dãi gió dầm mưa đã nhiều
Nói càng hổ thẹn trăm chiều
Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi
Trong lúc này đây, Kiều nhớ lại 15 năm lưu lạc. Hiện lên trên tất cả là một con người – với cảm xúc về một hoàn cảnh trong quá khứ:
Thiếp từ ngộ biến đến giờ
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa
Bấy giờ gió táp mưa sa
Một quá khứ đau khổ, phũ phàng như đang hiện diện. Mười lăm năm qua là những năm tháng ô nhục, đớn đau. Bấy giờ, Kiều đã thoát khỏi cảnh “dãi gió dầm mưa”, “ong qua bướm lại” nhưng quá khứ đó đã để lại biết bao dư vị đắng cay trong tâm hồn nàng. Và rồi nỗi ê chề, tủi nhục vẫn cứ tuôn trào, để rồi chính hoàn cảnh bi kịch trong quá khứ đã đem đến tâm trạng bi kịch trong hiện tại: “Nghĩ mình chẳng hổ mình sao…Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru”.
Tiềm ẩn phía sau tấm thảm ngôn từ trực tiếp miêu tả “vườn xuân muôn đời” của “màn tái hợp” trong Truyện Kiều là một giải kết bi kịch. Nguyễn Du đã dựng lên màn “tái thế tương phùng” để đẩy nhân vật vào sự đày đọa đau đớn nhất: 15 năm quằn quại đấu tranh và tìm kiếm để dẫn đến đoạn đời tái hợp còn đứt ruột hơn cả những nỗi đau trước đó. Hai con người với một tình yêu đẹp, giờ đây cùng sống dưới một mái nhà nhưng không được hưởng hạnh phúc lứa đôi. Còn có nỗi đày đọa nào hơn đối với trái tim những con người yêu nhau mà không được sống với nhau. Có lẽ, thà để cho Thúy Kiều chết đi còn đỡ đau đớn hơn là ban cho nàng sự tồn tại như là một án tù chung thân mãn kiếp. Nhưng đó mới là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du khi phản ánh bi kịch của con người: khắc sâu bi kịch tinh thần của kiếp người hơn là cực tả nỗi đau vật chất.
Trong màn đoàn viên, Thúy Kiều đã thực hiện hai sự từ bỏ. Đó là từ bỏ mối tình cầm sắt với Kim Trọng và từ bỏ khúc đàn định mệnh bên trong của nàng: “Một phen tri kỷ cùng nhau/ Cuốn dây từ đây về sau xin chừa”… Có lẽ, đó là một ảo tưởng bằng an, đắp đổi sau mười lăm năm tan nát. Có lẽ, nhạc khúc cuối cùng của hồ cầm là nhạc cuối cùng của đời Kiều. Về với đoạn kết trong màn đoàn viên là tìm về với một nỗi trái ngang không dứt… Hình như, có một sự bế tắc không vượt qua ở đây? Đại thi hào băn khoăn đi tìm cách giải đáp cho câu hỏi đớn đau của con người- người phụ nữ tài sắc. Nhà thơ đã đi vào con đường mới mẻ của nghệ thuật trên cơ sở một cảm xúc đúng đắn về cuộc sống. Tình yêu và hạnh phúc của Kim – Kiều đã bị tan vỡ trong 15 năm tai biến và ngay cả trong buổi đoàn tụ, rốt cuộc là họ không thể và không bao giờ “tái hợp” như những đôi trai gái khác. Bi kịch tình yêu, hạnh phúc vẫn là một “nỗi đoạn trường” không thể nào giải quyết.
Kết thúc Truyện Kiều, phải chăng đó là một khúc đoạn trường trong cung đàn bạc mệnh, một kết thúc đầy bi kịch? Như thế, sau 15 năm lưu lạc, Kiều trở về đoàn tụ cùng gia đình. Nhưng sự đời lần nữa lại trêu đùa Thúy Kiều, nàng phải sống “lưu đày” ngay giữa nhà mình, bên cạnh người yêu mình. Tất cả được thể hiện bằng bút pháp nhân đạo sâu sắc của nhà thơ đối với nhân vật, “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thăm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột” (Mộng Liên Đường chủ nhân).
Bài Mẫu Số 5: phân tích nhân vật Thúy Kiều, con người của hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch
Nguyễn Du là nhà thơ kiệt xuất của văn học Việt Nam. Tên tuổi của ông còn được liệt vào hàng các nhà thơ lớn của thế giới, của nhân loại. Là người tài cao học rộng, ông để lại nhiều tác phẩm văn chương bằng chữ Hán và chữ Nôm. Đọc văn chương của Nguyễn Du, dù là chữ Hán hay chữ Nôm ta đều thấy ông “có con mắt trông thấu sáu cõi, có tấm lòng nghĩ tới muôn đời”. Tác phẩm của ôag là bức tranh hiện thực mang sức mạnh tố cáo chế độ phong kiến. Ở đó ông dựng lên những kiếp người đau khổ, những nhân phẩm bị đày đọa. Cũng từ đó, tác phẩm của ông toát lên một tấm lòng nhân ái bao la, hiện thân của một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ông thông cảm với nỗi đau oan nghiệt của mọi kiếp người, đặc biệt của những con người tài hoa, đức độ những con người bị xã hội phong kiến giày xéo.
Truyện Kiều là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, và cũng là kiệt tác số một của văn học nước nhà. Thuý Kiều – nhân vật trung tâm của truyện được sáng tạo từ cảm hứng nhân đạo sâu sắc, đẹp đẽ, đẹp cả về hình thức, đẹp cả về tinh thần. Nhưng Kiều cũng là nạn nhân, là hiện thân nỗi đau của những con người tài hoa, đức hạnh, có phẩm giá bị xã hội phong kiến chà đạp một cách thô bạo.
Trao duyên cũng là một trong những nỗi đau đó của Kiều. Đây cũng là nỗi đau đặc biệt vì trong nỗi đau này Kiều phải tự mình dứt bỏ giấc mơ hạnh phúc riêng tư. Bởi vì cảnh trao duyên diễn ra sau khi Kiều đã quyết định “bán mình chuộc cha”: Kiều không còn là người tự do nữa, Kiều đã thuộc về người khác, bị cột chặt vào người khác bởi “vàng ngoài bốn trăm”. Trong hoàn cảnh đó Kiều không thể ôm theo mối tình Kim Trọng, càng không thể bán nó cho ai, Kiều đành trao duyên trong đớn đau để “lời thề” được toàn vẹn thuỷ chung.
Cuộc trao duyên diễn ra trong khoảng dừng ngắn ngủi giữa hai lần khóc. Lần đầu:
Một mình nàng, ngọn đèn khuya
Áo đầm giọt tủi, tóc se mái sầu
Một mình – một ngọn đèn leo lét làm cho đêm khuya lại càng khuya hơn, làm cho đêm đen lại càng sâu thẳm hơn. Nỗi buồn càng buồn hơn. Nỗi đau càng đau hơn và sự tủi phận cũng lớn hơn. Nhưng Kiều không dám khóc to vì sợ gia đình chưa bình tâm sau tai hoạ và vì chưa nói được, chưa trao lại được mối tình sâu nặng vẫn giấu kín bấy lâu nay.
Lần khóc thứ hai:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Lần này thì Kiều khóc to, khóc cho sự oan uổng, oan nghiệt, bởi vì từ đây Kiều đã mất tất cả.
Khóc là một trạng thái biểu cảm của con người. Có thể người ta khóc khi vui đó là những giọt nước mắt sung sướng. Nhưng nói chung phần lớn người ta khóc vì buồn, vì tủi, vì đau đớn, xót xa hay vì một sự hoà cảm nào đó. Trước khi trao duyên, Kiều cũng đã có ba lần khóc. Lần đầu tiên vào tiết thanh minh, trong khung cành “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Ở đó Kiều đã “đầm đầm châu sa”, khóc thương cho một Đạm Tiên tài hoa mà mệnh bạc. Đây là tiếng khóc bật ra một sự đồng cảm, của một sự tri kỷ tri âm nào đó. Đồng thời nó cũng là thái độ đánh giá của Kiều đối với Đạm Tiên: một sự cảm thông sâu sắc. Nó không phải là giả dối, không phải là nước mắt cá sấu. Ở đây Kiều khóc cho con người, khóc cho đồng loại, khóc cho một nửa thế giới nhân quần. Do đó lời than tiếp đó mang ý nghĩa khái quát rất cao: “Đau đớn thay phận đàn bà”. Xét về mật âm thanh các từ “đau đớn thay”, là nhịp vận động đi lên, rồi từ “phận” với thanh nặng tạo ra cảm giác rơi tõm xuống, tạo ra cảm giác chìm lấp, mất hút một khoảng không vắng lặng, để rồi hai thanh huyền ở từ đàn bà tạo ra cảm giác về sự cộng hưởng, sự lan tỏa của âm thanh. Từ đó giá trị của thời than được nhân lên trùng trùng lớp lớp.
Tiếp đó, lần khóc thứ hai là tiếng khóc của Kiều hốt hoảng trong đêm:
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan
Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì.
Tiếng khóc ở đây bật lên thành lời như là một tiếng vang báo động, báo trước sự bình yên của gia đình sắp bị phá vỡ, tai họa sắp đổ ập xuống gia đình và bản thân Kiều: Cứ trong mộng triệu mà suy Thân con thôi có ra gì mai sau.
Sự cảm nhận bằng trực giác về số phận bi thảm của cuộc đời Kiều được Nguyễn Đu tái hiện bằng thủ pháp giấc mơ, một yếu tố kì ảo đóng vai trò yếu tố nghệ thuật tiên tri dự báo và vận động của cốt truyện. Sự cảm nhận đó sẽ được nhận thức để biến thành hành động. Tiếng khóc ở đây là Kiều khóc cho chính mình.
Khi tai họa đã ập xuống gia đình, Kiều đã phải “bán mình chuộc cha” thì tiếng khóc cũng xuất hiện. Tiếng khóc ở đây không thành tiếng, thành lời mà nước mắt thì không thể nào ngăn được và nỗi đau là vô cùng lớn lao:
Nổi mình thêm tức nổi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.
Sự so sánh ở đây thật là tài tình: “thềm” thì bất động mà “lệ” thì tuôn trào cứ “một bước” thì lại “mấy hàng” lệ rơi. Tiếng khóc ở đây là tiếng khóc cho đời, bởi đời đen bạc quá. Cái đen bạc đã đặt Kiều vào một bài toán phải cân nhắc giữa nghĩa và tình, mà vốn liếng để giải quyết chỉ có duy nhất là sắc và tài. Giá trị nhân phẩm con người trở thành hàng hóa. Trong xã hội phong kiến được mệnh danh là “Bốn phương phang lặng hai kinh vững vàng” đó có những oan trái tày trời, mà để cứu người cha, Kiều đã phải bán giá trị nhân phẩm, phải tự thù tiêu mình đi. Tiếng khóc cho đời mang sức mạnh tố cáo lớn lao.
Công cha nghĩa mẹ đã được đáp đền, có mối tình với chàng Kim thì sao? Mối tình đó cũng đẹp lắm chứ. Nó trong trắng, cao cả và thiêng liêng. Nó là sự giao hòa của cái đẹp “trai tài gái sắc”, cái đẹp vũ trụ đồng điệu. Kiều rất hiểu và càng đau khổ hơn khi cảm nhận rằng Kiều là người có lỗi: “Vì ta khăng khít cho người dở dang”. Trong đau đớn mất mát của gia đình, của bản thân, Kiều vẫn thương xót cho người khác hơn là thương mình. Quên mình và thương người, đó là phẩm giá đặc biệt của Kiều và cũng là phẩm giá của con người Việt Nam nói chung. Nỗi đau được nhàn lên trở thành nỗi đau đặc biệt, nỗi đau kèm mặc cảm có lỗi. Và cũng chỉ nghĩ đến người khác, nên Kiều đã tìm cách trao duyên – giải pháp đền bù – để an ủi cho người tình chung của mình.
“Một mình nàng ngọn đèn khuya”, càng ngồi càng nghĩ, càng buồn càng tê tái. Đến khi Thuý Vân tỉnh giấc và với lời an ủi rất nhân hậu:
Cơ trời dâu bể đa đoan
Cả nhà để chị riêng oan một mình.
Giải pháp đền bù mới được hé ra. Kiều mới nghĩ đến việc trao duyên, trao lại mối tình đầu thơ mộng đẹp đẽ cho em mình. Kiều ngùng khóc và giãi bày với ý nguyện:
Rằng: lòng đương thổn thức đây
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong
Kiều thừa nhận mình đã khóc, nhưng không phải khóc vì “bán mình chuộc cha” cứu thoát cho cả nhà mà vì còn “vướng” mối “tơ duyên”, “vướng” thôi. Một mức độ nhẹ nhàng vừa phải. Khi bị vướng người ta có thể phá bỏ, dứt bỏ, bởi vì chưa có sự ràng buộc gì về pháp lí. Nhưng ở Kiều chữ “tín” là trọng, lời thề là thiêng liêng. Kiều không dứt bỏ mà tìm cách “gỡ ra” cho nguyên vẹn. Hơn nữa cái gỡ là “tơ duyên”, vô hình mà hữu hình và đòi hỏi phải nguyên vẹn. Cách nghĩ và hành động như vậy hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tâm lí nhân ái của Kiều. “Vướng” cũng là đầu mối duy nhất còn lại, giữ Kiều với gia đình, với hạnh phúc, với quá khứ êm đềm đẹp đẽ. Gỡ nó đi thì Kiều mất tất cả mọi quan hệ tốt đẹp đó. Đây là nỗi đau tiềm ẩn ở Kiều.
Hở môi ra cũng thẹn thùng
Để lòng thì lại phụ lòng với ai.
Một nỗi lòng được giải bày. Nó vừa là sự thổ lộ nỗi niềm riêng tư kín đáo, vừa là rào đón. Thổ lộ mà lại “thẹn thùng” là vì trong xã hội phong kiến quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” ngự trị thời đại. Đó cũng là hiện thực của thời đại. Thổ lộ còn có ý nghĩa là giãi bày, vì đây là trách nhiệm của Kiều. Kiều không thể mang mối tình đó đi được, Kiều không có quyền mang theo một cái riêng tư, vướng bận vì Kiều đã bị bán. Kiều đã mất quyền làm chủ bản thân. Không nói ra, song Kiều băn khoăn như là người có lỗi và Kiều cũng tự nhận lỗi, muốn làm điều gì để khỏi “phụ lòng với ai”. Nét đẹp cao cả của Kiều là chỗ đó.
Song liệu Thuý Vân có nhận lời không? Con người ta cũng có lòng tự trọng. Vì thế Kiều phải rào đón. Sự rào đón này tạo ra sự chú ý quan tâm của Vân, lôi cuốn Vân vào cuộc, để từ đó kích thích tấm lòng nhân hậu của Vân, tạo ra sự cảm thông sâu sắc của hai chị em trong hoàn cảnh đặc biệt này.
Cách đặt vấn đề của Kiều cũng khéo léo, sự khéo léo thật bình tĩnh:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Nghĩa là chuyện thì còn dài, nếu Vân chịu nghe thì Kiều xin được lạy đã rồi mới “thưa” chuyện. “Thưa” là chuyện nghiêm túc. Trước sự hi sinh cao cả của Kiều, trước tấm lòng nhân hậu của Kiều, Thuý Vân cũng hiểu được chuyện đang vướng là “tơ duyên”, là chuyện tình, nhưng để nghe chuyện tình đó thì phải nhận “lạy” đã. “Lạy” là một hành vi mang tính chất tôn giáo đã góp phần làm thiêng liêng hóa vấn đề.
Lời đề nghị của Kiều bao hàm tính điều kiện, tính ràng buộc trong đó. Câu chuyện tình Kim – Kiều không bó hẹp nữa mà nó trở thành tình nghĩa. Kiều lấy nghĩa để đáp lại tình Kim và hi vọng Vân sẽ lấy nghĩa để đáp đền tình chị: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.
Tiếp đó Kiều kể lại vắn tắt:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Ba từ “khi” chỉ ba trạng thái nhưng đều là các hành động diễn ra liên tiếp, không đứt quãng. “Ngày” và “đêm” nối tiếp làm cho thời gian liền mạch. Tất cả quy tụ lại vào hai chữ “ước” và “thề”. Nhưng bài toán “Sự đâu sóng gió bất kỳ” chỉ có một đáp số: “Hiếu tình khôn lẽ hai bê vẹn han.
Lời bàn như thế là thấu đáo, hoàn cảnh của Kiều không cho phép Kiều thực hiện cả hiếu cả tình. Kiều rất ý thức về điều đó. Một câu hỏi lớn được đặt ra để nâng cao nhận thức cho Thuý Vân, để Kiều bàn bạc với Thuý Vân.
Ngày xuân em hãy còn dài
Đối lập với “dài” là “ngắn”. Xuân em thì “dài” mà xuân chị thì “ngắn”, thậm chí ngắn tới mức không còn nữa để mà so sánh. Trong thâm tâm, Kiều cũng xác định mình không còn tuổi xuân nữa, mùa xuân cuộc đời Kiều đã chấm dứt từ khi nàng quyết bán mình chuộc cha. Cuộc đời Kiều, về tinh thần đã chấm dứt. Chiều sâu của nỗi đau hiện lên. Kiều van lạy, kêu gọi Vân hãy vì sự mất mát đó của Kiều vì đó cũng là máu chảy ruột mềm, để mà: “Xót tình máu mủ thay lời nước non”. Xót có nghĩa là phải chịu một nỗi đau đồng cảm, người ngoài cuộc không có được nỗi đau mất mát này. Xót chỉ được tạo ra bởi tình máu mủ thì nỗi đau mới thấm thìa và tính trách nhiệm của Vân mới cao. Vân phải chia sẻ nỗi đau đó.
Nói được cái cần nói, đặt được lời trao duyên rồi, Kiều đề cập ngay đến cái chết:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Bởi vì lời thế trước vong linh người chết bao giờ cũng thiêng liêng cao cả, đầy danh dự và trách nhiệm. Giữ lời hứa với người đã khuất cũng vậy. Nhận lời trao duyên của Kiều, Vân phải thực hiện trách nhiệm của người sống để đền đáp nghĩa đối với “người chết”.
Trong tình yêu, ngoài lời nói còn kỉ vật. Cuộc gặp gỡ thề thốt giữa Kim – Kiều, Vân đâu có biết. Vì vậy phải có kỉ vật để làm bằng: “Chiếc thoa với bức tờ mây”, Kiều đã trao lại và dặn em:
Duyên này thì giữ vật này của chung
“Tờ mây” cam kết cho duyên lành và giữ cho duyên khỏi tan vỡ, còn “chiếc thoa” thì là “của chung”, bởi lẽ mỗi khi nhớ chàng Kim, Kiều cũng đã từng phải giở nó ra. Trao kỉ vật xong, Kiều lại nói đến cái chết:
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Nỗi đau được đẩy lên bằng chính sự tự ý thức của Kiều, Kiều tự ví mình là “người mệnh bạc”, để rồi sau này khi Vân đau xót vì “người mệnh bạc”, Vân sẽ giữ gìn “duyên” tốt hơn. Kiều cũng đã ngầm lo cho hạnh phúc của chàng Kim nữa.
Các kỉ vật như “chiếc thoa”, “bức tờ mây” là kỉ vật mang tính pháp lí, mang tính ràng buộc, nhưng chưa phải là kỉ vật của tình cảm. Kiều phải nghĩ tới lúc Kim Trọng thấy lại “chiếc thoa” và “bức tờ mây” mà vẫn không chịu lấy Thúy Vân thì sao? Kiều đã đưa cho em các kỉ vật của tình cảm – các kỉ vật gắn liền với cảm giác tâm linh – để giải quyết vấn đề đó:
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Đây là các kỉ vật của sự gắn kết, của sự thiêng liêng hoá các mức độ của tình cảm: “phím đàn” đã tạo ra sự hoà quyện âm thanh giữa đất và trời giữa nam và nữ, là tiếng lòng giãi bày, là tâm tư được nói hộ, còn “mảnh hương” gắn với sự thề nguyền từ hai con tim đồng điệu. Ở đó “thiên nhân hợp nhất”. Cái đau lại hiện lên khi kỉ niệm lại hiện về. Và cái chết lại xuất hiện bằng một viễn cảnh mà Kiều tự vẽ cho mình:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghi trúc mai.
Cái đau thể hiện khát vọng hướng về cái đẹp, cái hạnh phúc, hướng tới khát vọng về sự bình an trong cuộc sống gia đình, ý thức được điều đó bao nhiêu, nỗi đau của Kiều càng lớn bấy nhiêu:
Dạ đài khuất mặt cách lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Vì “sóng gió bất kì” nên Kiều phải “thịt nát xuơng mòn” phải trở thành “người mệnh bạc” nhưng Kiều dứt khoát khẳng định mình là “người thác oan”. Đó là nỗi oan mà “Oan này có một kêu trời nhưng xa”. Nỗi đau được nhận thức và được nhân lên gấp bội. Và thời gian không còn ủng hộ Kiều nữa, thời gian lúc này đã gấp gáp lắm rồi:
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Từ “bây giờ” có một sức mạnh đặc biệt. Nó đặt dấu chấm hết cho mọi quan hệ, liên hệ của Kiều vói quá khứ, trả lại Kiều trong hiện tại phũ phàng. Tất cả đều đã “gãy” và “tan”, đều không cứu vãn được nữa. “Gãy” và “tan” tăng thêm sức mạnh cho sự phũ phàng, cho sự oan nghiệt trút lên đời Kiều. Ba lần trao: một lần trao lời, hai lần trao kỉ vật đều được kèm theo liền ba hình ảnh của cái chết, của bóng tối, của cái ác. Kiều đau cả thể xác, Kiều đau cả tinh thần.
Nước mắt lại rào ra cùng với những lời thổn thức, xót xa, bởi đấy cũng là lời vĩnh biệt:
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
“Tơ duyên ngắn ngủi”, Kiều không muốn dứt bỏ, cắt xé nó, nhưng Kiều cũng đã không làm thế nào để giữ được. Sức mạnh tố cáo lại bật ra. Và không nén được, nỗi đau lại bùng lên với tiếng khóc xé ruốt:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Tiếng khóc như là tiếng thét căm hờn kết án một xã hội phong kiến tàn ác. Nó bật ra từ một nỗi đau thê thảm của một con người tài hoa nhưng bị vùi dập.
Cảnh trao duyên diễn ra trọn vẹn giữa hai lần khóc, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, khoảnh khắc chuyển đổi cuộc đời của Kiều, của Vân, của Kim Trọng trong “cuộc bể dâu”. Cuộc trao duyên như một lời trăng trối của người sắp chết nói lại với người đang sống là lời tố cáo đanh thép vạch trần xã hội phong kiến xấu xa tàn ác. Thực hiện việc trao duyên, Kiều đã nuôi hi vọng đền đáp nghĩa tình cho Kim Trọng. Ở đây, ngoài nỗi đau của Kiều còn có nỗi đau mất mát, tổn thất không bù đắp được của Kim Trọng, mặc dù chàng Kim vắng mặt ở đây. Nỗi đau của chàng Kim hòa quyện trong nỗi đau của Kiều và Kiều là người hiểu hơn ai hết nỗi đau mất mát đó. Thuý Vân cũng có nỗi đau riêng, nỗi đau đồng cảm đó rất đáng quý trọng vì nó là chất keo gắn kết mối quan hệ gia đình, xã hội. Ba nỗi đau quyện lại thành một nỗi đau chung của con người trong cuộc đời “dâu bể”. Đó cũng chính là sự thể hiện tài hoa nghệ thuật Nguyễn Du. Vì ở đây, bên cạnh cái đẹp của Kiều, cũng nổi bật lên cái đẹp của Vân, chấp nhận thay chị để kết duyên với người yêu của chị, là một hành động đạo đức đẹp đẽ, cái đẹp toát lên từ sự cưu mang nhân hậu, từ sự quên tình vì nghĩa cả lớn lao, hào hiệp. Vừa tái hiện nỗi đau của Kiều, Nguyễn Du vừa thể hiện cách ứng xử hợp lí hợp tinh của Kiều qua một hệ thống từ ngữ cô đọng, giàu sức gợi cảm. Hình ảnh của Kiều trở nên lộng lẫy hơn, đẹp hơn phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật. Từ “bán mình” đến “trao duyên”, các yếu tố nghệ thuật thể hiện qua sức biểu cảm của ngôn ngữ nghệ thuật đã tạo ra sức thuyết phục về một Thuý Kiều “mười phân vẹn mười”.
Nỗi đau của Kiều trong Trao duyên cũng là nỗi đau của nhân phẩm bị chà đạp, của giá trị con người bị giày xéo. Tiếng khóc ở đây là tiếng khóc cho mình, cho người, khóc cho cuộc đời, cho nỗi đau nhân thế. Nhà thơ Tố Hữu đã viết một lời thơ rất xúc động: “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”. Dòng lệ đó đòi công bằng và chính nghĩa phải lên tiếng, đòi công lí và tự do phải hành động. Tất cả đều nhằm khẳng định phẩm giá con người.
Bài Mẫu Số6 : phân tích nhân vật Thúy Kiều, con người của hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch
Mở đầu Truyện Kiều Nguyễn Du đã viết: “Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” và cả cuộc đời phía sau của nhân vật chính Thúy Kiều chính là những truân chuyên, gập ghềnh nàng gặp trên đường đời. Thúy Kiều đã phải trải qua rất nhiều nỗi đau nhưng có lẽ nỗi đau lớn nhất, khắc dấu đậm nét nhất trong nàng chính là nỗi đau phải trao duyên. Toàn bộ cung bậc cảm xúc và nỗi đau ấy của nàng đã được khắc họa đầy đủ trong đoạn trích: “Trao duyên”.
Gia đình Kiều bị vu vạ, cha và em trai bị bắt, bị đánh đập dã man, nếu không cứu e rằng sẽ nguy hiểm đến tình mạng. Gia đình gặp phải họa lớn, Kiều quyết bán mình chuộc cha. Mã Giám Sinh mua nàng với giá “vàng ngoài bốn trăm” – rẻ mạt so với một quốc sắc thiên hương như nàng. Quê Mã Giám Sinh ở rất xa, khi đi sẽ mất hẳn liên lạc với gia đình. Đêm trước ngày lên đường, Kiều khóc thương sụt sùi, tủi cho phận bạc. Tình thương cho gia đình đã được giải tỏa nhưng lại lỗi hẹn với chàng Kim. Trong lúc khóc than “Thúy Vân ghé đến hỏi han” nàng mới bày tỏ nỗi lòng muốn trao duyên cho em. Hai chữ trao duyên nghe sao mà đau đớn, quặn thắt nhưng Kiều phải dằn lòng mình để có thể nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng.
Kiều hiểu trao duyên là một việc không hề dễ dàng để em nhận lời, bởi vậy ngay từ câu đầu Thúy Kiều đã dùng những từ ngữ hết sức khéo léo để mong thuyết phục em: “Cậy em em có chịu lời/ Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Nàng đặt em vào tình thế không thể từ chối, ngôn ngữ được sử dụng hết sức tinh tế và cẩn trọng, nàng cậy nhờ em gửi gắm vào đó cả sự tin tưởng cả sự hi vọng vô cùng tha thiết. Nhưng liệu nàng Vân có chấp thuận lời đề nghị quá đường đột ấy hay không? Thúy Kiều rất hiểu cho tình thế của em, bởi vậy nàng đã dùng những lí lẽ hết sức sắc sảo để thuyết phục.
Nàng kể chuyện tình của mình hết sức ngắn ngủi: “Kể từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề” đó là những ngày, những kỉ niệm đẹp đẽ, trong sáng nhất với Kiều. Chuyện tình yêu của hai người Vân là người hiểu rất rõ, bởi vậy nàng không nói quá dài dòng. Và rồi đến cảnh gia biến của gia đình: “Sự đâu sóng gió bất kì/ Hiếu bề khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Chỉ với bốn câu thơ ngắn ngủi Kiều đã tóm tắt được tình yêu, những giây phút nồng nàn của đôi uyên ương trẻ, đồng thời cũng cho thấy được những biến cố trong gia đình nàng. Nàng quyết “Thà rằng liều một thân con/ Hòa dù giã cánh, lá con xanh cây”, lựa chọn cứu cha và em cùng lúc đó nàng rơi vào bi kịch phụ bạc người mình yêu. “Giữa đường đứt gánh tương tư” tình yêu dang dở, đứt gánh, nàng rơi vào đau khổ tột cùng, và cách giải quyết của nàng: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Kim Trọng mối tình đầu thơ dại, đầy ắp những kỉ niệm mà nàng trân trọng lại phải trao cho người khác, nỗi đau đớn ấy nào ai có thể thấu hết. Nỗi đau ấy không chỉ ở phía nàng, mà còn ở cả nàng Vân, bởi Vân vốn không có tình cảm với Kim Trọng, hiểu được điều đó Kiều tiếp tục thuyết phục em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Em còn trẻ và có cơ hội hạnh phúc, đồng thời ràng buộc em bằng tình “máu mủ” để Vân không thể trối từ. Nếu Vân nhận lời thì dù nàng có phải thịt nát xương mòn vẫn “ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Kiều luôn có dự cảm những điều không lành sẽ xảy đến với mình, nhưng chỉ cần em nhận lời thì nỗi đau kia cũng phần nào được xoa dịu.
Lời trao duyên đã khó nói thì giây phút trao kỉ vật lại càng làm cho Thúy Kiều thắt lòng hơn nữa. Những món kỉ vật ấy vốn chàng Kim trao cho nàng, là kỉ vật riêng tư mà nàng không muốn trao cho bất cứ ai: chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. Mỗi kỉ vật lại gợi nhắc đến một kỉ niệm đẹp đẽ của ngày xưa, lại càng làm cho hiện tại thêm nhói buốt. Trao kỉ vật cũng đồng nghĩa với việc nàng trao duyên cho em, nhưng việc ấy không hề dễ dàng, lí trí bảo nàng hãy trao hết cho em, nhưng tình cảm lại không cho phép làm việc ấy. Hai chữ “của chung” đã diễn tả đầy đủ nhất nỗi đau tột cùng của nàng. Nàng có thể nén nỗi đau mà trao vật kỉ niệm, nhưng thật khó khăn để trao cả duyên tình của mình với Kim Trọng cho em. Dù là ích kỉ, dù là hẹp hòi nhưng lời nói ấy, hành động ấy đã cho thấy tình cảm sâu nặng Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.
Nàng quay trở lại với thực tại, bi kịch, đau đớn cùng lúc đổ ập xuống nàng: “Bây giờ trâm gãy gương tan/ Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân/ Trăm nghìn gửi lạy tình quân/ Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi/ Phận sao phận bạc như vôi/ Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Hiện thực chỉ toàn những tan vỡ, đổ nát, tình yêu tan vỡ, số phận bấp bênh như cánh hoa trôi,… tất cả đều cho thấy cuộc đời đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều. Hai câu thơ kết bài như tiếng khóc nấc nghẹn của Thúy Kiều trước thực tại, trước tình yêu:
Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Câu thơ ngắt nhịp 3/3 cùng với các từ cảm thán ôi, hỡi đã cho thấy nỗi đau đớn lên đến đỉnh điểm của nàng, nỗi đau đớn bật thành tiếng khóc nấc nghẹn, để rồi sau đó nỗi đau đã khiến nàng ngất đi: “Cạn lời hồn ngất máu say/ Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng”.
Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật đặc sắc, ngôn từ hàm súc cô đọng Nguyễn Du đã khắc họa thành công nỗi đau đớn, xót xa đến tột cùng khi Kiều phải trao duyên cho em. Đồng thời cũng cho thấy sự cảm thương của nhà văn cho số phận bất hạnh của Thúy Kiều – kiếp hồng nhan bạc mệnh trong xã hội phong kiến.
Kết luận
Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “phân tích nhân vật Thúy Kiều, con người của hiện thực khổ đau, con người của vận mệnh bi kịch ” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com
Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 12/2024!