Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách ” phân tích thơ thiên nhiên trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” chuẩn nhất 12/2024.
Phân tích thơ thiên nhiên trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi- Mẫu 1
Lời giải chi tiết
Nói đến thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, trước hết chúng ta cần đặt trong mối quan hệ qui chiếu với cuộc đời của nhà thơ để giải mã rõ hơn cảm hứng cụ thể trong từng tác phẩm ở hai tập thơ. Đây là vấn đề đòi hỏi quá trình khảo cứu công phu và thuộc phạm vi nghiên cứu của một công trình lớn.
Người viết chỉ xin được so sánh mảng thơ thiên nhiên của Nguyễn Trãi ở thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm của ông ở những khía cạnh cơ bản nhất, trên cơ sở phân tích một số tác phẩm tiêu biểu và tương đối quen thuộc với chúng ta lâu nay. Theo một truyền thống thi ca trung đại “cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ” (Hồ Chí Minh), những bài thơ của Nguyễn Trãi dành một số lượng khá lớn viết về thiên nhiên.
Thiên nhiên gắn với cuộc đời thăng trầm đầy bi kịch của người anh hùng, như cũng soi chiếu tâm tư của chính nhà thơ trong những hoàn cảnh khác nhau.
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày
Có thuốc trường sinh càng khỏe thay
Hổ phách phục linh nhìn mấy biết
Dành, còn để trợ dân này
Những câu thơ Nguyễn Trãi viết về Tùng như sự khẳng định nhân cách của chính ông, một con người cả đời canh cánh nỗi lòng “ưu quốc ái dân”. Nguyễn Trãi tìm về thiên nhiên và để lại hàng trăm bài thơ chữ Hán và chữ Nôm, hầu như bài thơ nào cũng toát lên vẻ đẹp lồng lộng thanh cao và cứng cỏi như dáng tùng vững chãi giữa tuyết sương.
Trong buổi đầu của nền thi ca trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi đã tạo dựng nên một kiểu nhà nho – nghệ sĩ đích thực, khi tâm hồn ông hoà quyện với từng vẻ đẹp đất nước, rung động trước non nước mây trời, cỏ cây hoa lá để người đời sau hình dung đầy đủ diện mạo của con người có tấm lòng sáng tựa “sao Khuê buổi sớm” ấy. Lúc làm quan giữa triều, khi về ở ẩn sống đời thanh bần giữa núi rừng, dù ở đâu thiên nhiên vẫn chiếm một địa vị quan trọng, một người bạn tâm giao để Nguyễn Trãi kí thác nỗi lòng luôn quặn thắt những ưu tư thời thế:
Non cao non thấp mây thuộc
Cây cứng cây mềm gió hay
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
Bui một lòng người cực hiểm thay
Đề tài thiên nhiên trong thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi vô cùng phong phú như phản chiếu cuộc đời lắm thăng trầm của chính ông. Nếu như trong thơ chữ Hán, ta gặp nhiều địa danh gắn với quãng đời sôi nổi, với hoài bão “trí quân trạch dân”, với tầm nhìn bao quát lịch sử, chiêm nghiệm thời thế một cách cụ thể thì ở thơ chữ Nôm lại là những cảm xúc tinh lọc thăng hoa trong những đề tài tưởng như mòn cũ vì ước lệ « tùng, trúc, cúc, mai “, “phong, hoa tuyết nguyệt”. Nhưng dù cho đề tài cụ thể hay trừu tượng thì Nguyễn Trãi đều thể hiện con người đầy cá tính của ông một cách rõ nét trước thiên nhiên. Cảm hứng bao trùm trong những bài thơ chữ Hán viết về thiên nhiên phải chăng có thể khái quát trong hai câu thơ này của Nguyễn Trãi :
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc
Anh hùng hữu hạn diệp tiêu tiêu
Ngay cả những bài thơ chữ Hán thấm đẫm phong vị trữ tình cũng phảng phất nỗi niềm người anh hùng trước lẽ hưng phế, đọng lại những hoài niệm về các triều đại đã qua. Dù cho đó là cảnh đã bao nhiêu lần thưởng ngoạn thì vào thơ, Nguyễn Trãi vẫn tạo được những rung động khác thường. một Dục Thuý sơn qua cảm xúc của ông hiện rõ là nơi “tiên cảnh trụy trần gian “ với vẻ đẹp thật diễm lệ:
Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hoàn
Vẻ diễm kiều như một nàng thiếu nữ của núi Dục Thúy cũng không làm ông nguôi ngoai hoài niệm về bậc tài danh tiền bối Trương Hán Siêu, trong mối đồng cảm của người đề thơ núi Thuý. Đó không chỉ là gặp gỡ của hồn thơ yêu cảnh đẹp, mà còn là nhớ bậc tiền nhân đã cống hiến tài trí phò vua giúp nước : Hữu hoài Trương Thiếu bảo – Bi khắc tiển hoa ban. Nhiều bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi thường khắc hoạ những phong cảnh hùng vĩ của đất nước với bút lực cuồn cuộn, với hơi văn dào dạt như thuở Bình Ngô một Thần Phù hải khẩu :
Kình phun lãng hống thôi nam bắc
Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền
Hay một Vân Đồn “thiên khôi địa thiết phó kì quan”, một Bạch Đằng hải khẩu:
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
Cảnh ấy, tình ấy gắn với niềm tự hào dân tộc lớn lao, bởi những danh thắng cũng đồng thời gắn với những anh hùng mà bản thân nhà thơ ngưỡng vọng: Thần Phù là nơi anh hùng Hồ Quí Ly chống sự xâm lăng của vua Chiêm Chế Bồng Nga, Vân Đồn vang danh chiến công của Trần Khánh Dư và bao triều đại anh hùng vùi thây quân giặc cướp trên sóng Bạch Đằng. Nhưng đồng thời, Nguyễn Trãi còn nhận ra những mối tương quan trời đất và con người khi suy ngẫm trước cảnh trời đất vô cùng, để ngậm ngùi cho mối hận anh hùng, để suy ngẫm về gốc rễ vững bền của đất nước:
Phúc chu thủy tín dân do thuỷ
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỉ thiên niên
(Quan hải)
Có lẽ chưa ai nhìn thiên nhiên đất trời mà luận anh hùng sâu sắc như Nguyễn Trãi, anh hùng là phẩm chất cá nhân, nhưng muốn thành nghiệp lớn phải gắn với nhân dân như thuyền với nước.
Tiếp xúc với thiên nhiên trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi trong Ức Trai thi tập, chúng ta có thể nhận thấy ý kiến đánh giá của PSG.TS Lã Nhâm Thìn thật xác đáng: Đó là một thiên nhiên kỳ vĩ, hoành tráng nhưng cũng đồng thời mĩ lệ, thi vị; thiên nhiên gắn với những địa danh như một cuốn nhật kí gắn với cuộc đời phong phú từng trải của Nguyễn Trãi; qua đó ta nhận ra một tâm hồn cao rộng, khoáng đạt, phong tình và tinh tế.
Phần lớn những bài thơ của Nguyễn Trãi viết về thiên nhiên bằng chữ Hán đều tuân thủ nghiêm ngặt thể loại Đường luật nhưng không hề gò bó cảm xúc. Thơ thiên nhiên gắn với tâm hồn trí tuệ của một con người lừng danh “viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời” cũng mang theo cái mạnh mẽ phóng khoáng của một tấm lòng nặng niềm “ưu ái”, bao giờ cũng phảng phất bóng dáng con người hăm hở gánh vác giang sơn, trổ tài kinh bang tế thế để thực hiện hoài bão trí quân trạch dân. Bên cạnh đó là một thiên nhiên chất chứa ưu tư.
Cùng chung cảm hứng này, trong những bài thơ Nôm, Nguyễn Trãi lại có dịp bộc bạch nhiều ưu tư hơn. Ông tìm thấy trong thiên nhiên những bài học lớn, đặc biệt là thiên nhiên trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới ở Quốc âm thi tập.
Quãng đời lui về ẩn cư quê ngoại Côn Sơn giúp Nguyễn Trãi có dịp hoà nhập với thiên nhiên hết mình hơn, khi “công danh đã được hợp về nhàn”, những cảm xúc thiên nhiên trong chùm thơ Mạn thuật, Thuật hứng, những cảm nhận về hoa cỏ trong Hoa mộc môn…cũng bộc lộ con người ông thật bình dị gần gũi. Ta cũng nhận ra chân dung tâm hồn Nguyễn Trãi sinh động tự nhiên hơn trong những vần thơ dân dã nôm na.
Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi là cả một không gian bát ngát tình người, tràn căng sức sống “thế giới đông lên ngập một bầu”. Điểm khác biệt về cảm hứng giữa thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán xuất phát từ chính những nét đặc biệt trong hoàn cảnh của nhà thơ khi về ẩn cư:
Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then…
(Thuật hứng)
Vẫn là “phong nguyệt yên hà” nhưng có cái mềm mại lung linh trong cảm xúc của một hồn thơ nhạy cảm. Trong cuộc sống của vị hưu quan, vẫn còn ắp đầy những hoài bão hướng về cuộc đời trăn trở niềm “tiên ưu”. Cuộc sống thanh bình của dân gian cũng tạo nên niềm vui giúp ông vượt lên nỗi niềm riêng:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương
(Bảo kính cảnh giới, 43)
Thiên nhiên đến với nhà thơ trong tư cách “Núi láng giềng, chim bầu bạn, mây khách khức, nguyệt anh tam”, nên ông cũng thả lòng mình thật tự nhiên không rào đón. Nếu như đọc thơ chữ Hán, ta đã gặp một Nguyễn Trãi với Côn Sơn ca thật tiêu dao:
Côn Sơn hữu tuyền
Kỳ thanh linh linh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phô bích
Ngô dĩ vi đạm tịch
Nham trung hữu tùng
Vạn cái thuý đồng đồng
Ngô ư thị hồ yên tức kỳ trung…
Thì trong thơ chữ Nôm, ông còn thoải mái viết những câu vượt ra khỏi mọi ràng buộc câu thúc lễ nghi để thật sự hoà đồng cùng cây cỏ đất trời:
Già chơi dầu có của no dùng,
Chén rượu câu thơ ấy hứng nồng.
Ngỏ tênh hênh nằm cửa trúc,
Say lểu thểu đứng đường thông…
(Thuật hứng, 16)
Ta nhận ra một Nguyễn Trãi thật tự do phóng khoáng giữa đất trời, thật táo bạo với những từ ngữ thuần Việt đắt giá “tênh hênh”, “lểu thểu” mà vẫn không suồng sã, tưởng khó thành thơ mà vẫn lộ rõ cốt cách thanh cao nhưng giản dị của Nguyễn Trãi. Thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi thường nói về cảnh nhàn, cuộc sống nhàn rỗi bất đắc dĩ nhưng không vì thế làm mất đi vẻ thư thái tự tin của nhà thơ: “Quét trúc bước qua lòng suối – Thưởng mai về đạp bóng trăng”. Bên cạnh những bài thơ vịnh cảnh theo truyền thống với những biểu tượng thiên nhiên gắn với người quân tử như “tùng trúc cúc mai” còn là những loài hoa cỏ bình thường nhưng lại toả ra phẩm chất thi nhân của Nguyễn Trãi tinh tế nhất. Thưởng thức lại những vần thơ cô đọng mà thấm đượm vẻ tình tứ trong bài Cây chuối, ta mới thấy Nguyễn Trãi đã vượt trước thời đại mình biết bao nhiêu:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem
Hồn thơ ấy cũng không gò bó câu thúc trong khuôn khổ thơ luật Đường mà tìm cách thể hiện cá tính của mình trong những phá cách lục ngôn. Nghiêm cẩn trong thơ chữ Hán bao nhiêu thì ông lại phóng túng trong thơ chữ Nôm bấy nhiêu, đó cũng là dấu ấn đặc sắc của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập. Người đọc có thể hình dung một Nguyễn Trãi “Cơm ăn chẳng quản dưa muối – Áo mặc nài chi gấm thêu” giữa một thiên nhiên rất giàu cảm xúc và đậm nét đời thường:
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch ,
Kề nước cầm đưa tiếng Cửu Cao
Khách đến vườn còn hoa lạc,
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào
(Mạn thuật, 35)
Bản thân nhà thơ dẫu chán ngán cảnh quan trường, nhưng không hề run sợ khuất phục trước cường quyền, không phải lánh đời theo triết lý “độc thiện kỳ thân” mà chính thiên nhiên tiếp cho ông sức mạnh, tìm ra cách ứng xử với bọn quyền thần một cách đầy dũng khí. Thiên nhiên ấy hun đúc nên một Nguyễn Trãi đầy khí phách:
Mai chăng bẻ thương cành ngọc,
Trúc nhặt vun tiếc cháu rồng
Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.
(Ngôn chí, 50)
Qua những bài thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Trãi, ta có thể nhận ra đầy đủ về chân dung một con người hội tụ “khí phách của dân tộc, tinh hoa của thời đại”. Thiên nhiên mà ông tìm đến cũng là một thiên nhiên đầy sức sống, thanh cao như tâm hồn ông luôn cuồn cuộn hoài bão lo cho dân cho nước. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, những vần thơ của ông vẫn toát lên vẻ đẹp của con người chân chính và “tài năng làm hay làm đẹp cho nước xưa nay chưa từng thấy” đúng như những lời ca ngợi hậu thế dành cho ông.
Phân tích thơ thiên nhiên trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi- Mẫu 2
Khái quát về tác giả, tác phẩm Ức Trai thi tập: 1.1. Tác giả: 1.1.1. Cuộc đời: Lên sáu tuổi mất mẹ, lên mười tuổi ông ngoại qua đời, Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha. Năm 1400, Nguyễn Trãi đậu thái học sĩ, sau đó được nhà Hồ giữ chức Ngự sử đài chính chưởng. Năm 1428, bị nghi oan và bắt giam, sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442. Nỗi oan tầy trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải toả và ca ngợi ông
Khái quát về tác phẩm Ức Trai thi tập :Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: Nghệ thuật của tác phẩm Ức Trai thi tập: Khái quát về tác giả, tác phẩm Ức Trai thi tập Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập Nghệ thuật của tác phẩm Ức Trai thi tập1.Khái quát về tác phẩm Ức Trai thi tập:1.1. Tác giả:1. Khái quát về tác giả, tác phẩm Ức Trai thi tập:1.1. Tác giả:1.1.1. Cuộc đời: Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380, quê gốc ở làng Chi Ngại, tỉnh Hải Dương. Thân phụ là Nguyễn Ứng Long , vốn là học trò nghèo thi đỗ thái học. Thân mẫu là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Hàn, dòng dõi quý tộc.1. Khái quát về tác giả, tác phẩm Ức Trai thi tập:1.1. Tác giả:1.1.1. Cuộc đời: Lên sáu tuổi mất mẹ, lên mười tuổi ông ngoại qua đời, Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha. Năm 1400, Nguyễn Trãi đậu thái học sĩ, sau đó được nhà Hồ giữ chức Ngự sử đài chính chưởng. Năm 1428, bị nghi oan và bắt giam, sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442. Nỗi oan tầy trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải toả và ca ngợi ông.1.Khái quát về tác phẩm Ức Trai thi tập:1.1. Tác giả:1.1.2. Sự nghiệp: – Về quân sự và chính trị có “Quân trung từ mệnh tập” gồm những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh.- Về lịch sử , địa lý có “ lam sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa lam sơn và “ dư địa chí” viết về địa lý nước ta lúc bấy giờ.- Về văn học, Nguyễn Trãi có “ Ức trai thi tập”là tập thơ chữ Hán và “Quốc Âm thi tập” là tập thơ chữ Nôm. Quốc âm thi tập đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca Tiếng Việt.1.Khái quát về tác giả, tác phẩm Ức Trai thi tập:1.1. Tác giả:1.1.2. Sự nghiệp: Về quân sự và chính trị có “Quân trung từ mệnh tập” gồm những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Về lịch sử , địa lý có “ Lam sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa lam sơn và “ Dư địa chí” viết về địa lý nước ta lúc bấy giờ. Về văn học, Nguyễn Trãi có “ Ức trai thi tập”là tập thơ chữ Hán và “Quốc Âm thi tập” là tập thơ chữ Nôm. Quốc âm thi tập đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca Tiếng Việt.1.Khái quát về tác phẩm Ức Trai thi tập:1.2. Tác phẩm:- Sau khi minh oan cho Nguyễn Trãi, năm 1480 vua Lê Thánh Tông đã sai Trần Quốc Khiêm sưu tầm lại các bài thơ đã thất lạc của ông sau đó đặt tên là Ức Trai thi tập.- Sau này phần lớn bài thơ trong Ức Trai thi tập đã bị thất lạc và chỉ còn giữ được một phần do Dương Bá Cung sưu tầm, gồm 105 bài, trong đó có 17 bài tồn nghi.- Ức Trai thi tập là một tập thơ được viết bằng chữ Hán.- Đa số các bài trong tập này là thơ thất ngôn bát cú; thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn, chỉ có 2 bài theo thể trường thiên là “Côn Sơn ca” và “Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên”.- Về nội dung, có thể chia ra 3 chủ đề lớn: Thơ tả thiên nhiên, danh lam thắng cảnh; Thơ sáng tác sau khi quân Minh xâm lược Đại Ngu (trong đó có bài “Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên” làm khi ở Đông Quan); Thơ sáng tác sau khi chiến thắng quân Minh, giống thơ “ngôn chí” trong Quốc âm thi tập.1. Khái quát về tác giả, tác phẩm Ức Trai thi tập:1.2. Tác phẩm: Sau khi minh oan cho Nguyễn Trãi, năm 1480 vua Lê Thánh Tông đã sai Trần Quốc Khiêm sưu tầm lại các bài thơ đã thất lạc của ông sau đó đặt tên là Ức Trai thi tập. Sau này phần lớn bài thơ trong Ức Trai thi tập đã bị thất lạc và chỉ còn giữ được một phần do Dương Bá Cung sưu tầm, gồm 105 bài, trong đó có 17 bài tồn nghi. Ức Trai thi tập là một tập thơ được viết bằng chữ Hán. Đa số các bài trong tập này là thơ thất ngôn bát cú; thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn, chỉ có 2 bài theo thể trường thiên là “Côn Sơn ca” và “Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên”. Về nội dung, có thể chia ra 3 chủ đề lớn: Thơ tả thiên nhiên, danh lam thắng cảnh. Thơ sáng tác sau khi quân Minh xâm lược Đại Ngu (trong đó có bài “Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên” làm khi ở Đông Quan). Thơ sáng tác sau khi chiến thắng quân Minh, giống thơ “ngôn chí” trong Quốc âm thi tập.2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.1. Thơ tả thiên nhiên, danh lam thắng cảnh: Những bài thơ thấm đẫm phong vị trữ tình cũng phảng phất nỗi niềm người anh hùng trước lẽ hưng phế, đọng lại những hoài niệm về các triều đại đã qua. Dù cho đó là cảnh đã bao nhiêu lần thưởng ngoạn thì vào thơ, Nguyễn Trãi vẫn tạo được những rung động khác thường. một Dục Thuý sơn qua cảm xúc của ông hiện rõ là nơi « tiên cảnh trụy trần gian » với vẻ đẹp thật diễm lệ : Tháp ảnh trâm thanh ngọc Ba quang kính thúy hoàn Nhiều bài thơ thường khắc hoạ những phong cảnh hùng vĩ của đất nước với bút lực cuồn cuộn, với hơi văn dào dạt như thuở Bình Ngô : một Thần Phù hải khẩu : Kình phun lãng hống thôi nam bắcSóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.1. Thơ tả thiên nhiên, danh lam thắng cảnh: Hay một Vân Đồn « thiên khôi địa thiết phó kì quan », một Bạch Đằng hải khẩu : Sóc phong xuy hải khí lăng lăng Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng=> Cảnh ấy, tình ấy gắn với niềm tự hào dân tộc lớn lao, bởi những danh thắng cũng đồng thời gắn với những anh hùng mà bản thân nhà thơ ngưỡng vọng : Thần Phù là nơi anh hùng Hồ Quí Ly chống sự xâm lăng của vua Chiêm Chế Bồng Nga, Vân Đồn vang danh chiến công của Trần Khánh Dư và bao triều đại anh hùng vùi thây quân giặc cướp trên sông Bạch Đằng.2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.1. Thơ tả thiên nhiên, danh lam thắng cảnh:- Nhưng đồng thời, Nguyễn Trãi còn nhận ra những mối tương quan trời đất và con người khi suy ngẫm trước cảnh trời đất vô cùng, để ngậm ngùi cho mối hận anh hùng, để suy ngẫm về gốc rễ vững bền của đất nước : Phúc chu thủy tín dân do thuỷ Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật Anh hùng di hận kỉ thiên niên (Quan hải)=> Có lẽ chưa ai nhìn thiên nhiên đất trời mà luận anh hùng sâu sắc như Nguyễn Trãi, anh hùng là phẩm chất cá nhân, nhưng muốn thành nghiệp lớn phải gắn với nhân dân như thuyền với nước.2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.1. Thơ tả thiên nhiên, danh lam thắng cảnh: Nhưng đồng thời, Nguyễn Trãi còn nhận ra những mối tương quan trời đất và con người khi suy ngẫm trước cảnh trời đất vô cùng, để ngậm ngùi cho mối hận anh hùng, để suy ngẫm về gốc rễ vững bền của đất nước : Phúc chu thủy tín dân do thuỷ Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhậtAnh hùng di hận kỉ thiên niên (Quan hải)=> Có lẽ chưa ai nhìn thiên nhiên đất trời mà luận anh hùng sâu sắc như Nguyễn Trãi, anh hùng là phẩm chất cá nhân, nhưng muốn thành nghiệp lớn phải gắn với nhân dân như thuyền với nước.2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.1. Thơ tả thiên nhiên, danh lam thắng cảnh:- Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi không có những cảnh buồn tê tái và trễ biếng như trong thơ Chu Văn An, mặc dù Nguyễn Trãi từng gặp những điều “bất như ý” như Chu Văn An. Đối với Nguyễn Trãi thiên nhiên bao giờ cũng làm dịu lại tâm hồn ông, đem đến cho ông sự bình tĩnh và thanh thản. Cho nên cuộc đời Nguyễn Trãi dù có nhiều đau buồn, nhiều bài thơ của ông “chất nặng tâm tư”, nhưng những vần thơ nói về thiên nhiên của Nguyễn Trãi không buồn. Thảng hoặc có đôi cảnh buồn thì cũng không đến nỗi làm cho người đọc hoàn toàn chán nản, thất vọng.=> Đó là tình yêu đằm thắm đối với cảnh sắc thiên nhiên của Tổ quốc mà mỗi tấc đất, dòng sông, ngọn núi… đều gắn liền với những trang lịch sử anh hùng của dân tộc, vận mệnh của đất nước và công sức khai phá giữ gìn của người dân bao thế hệ.2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.1. Thơ tả thiên nhiên, danh lam thắng cảnh: Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi không có những cảnh buồn tê tái và trễ biếng như trong thơ Chu Văn An, mặc dù Nguyễn Trãi từng gặp những điều “bất như ý” như Chu Văn An. Đối với Nguyễn Trãi thiên nhiên bao giờ cũng làm dịu lại tâm hồn ông, đem đến cho ông sự bình tĩnh và thanh thản. Cho nên cuộc đời Nguyễn Trãi dù có nhiều đau buồn, nhiều bài thơ của ông “chất nặng tâm tư”, nhưng những vần thơ nói về thiên nhiên của Nguyễn Trãi không buồn. Thảng hoặc có đôi cảnh buồn thì cũng không đến nỗi làm cho người đọc hoàn toàn chán nản, thất vọng.=> Đó là tình yêu đằm thắm đối với cảnh sắc thiên nhiên của Tổ quốc mà mỗi tấc đất, dòng sông, ngọn núi… đều gắn liền với những trang lịch sử anh hùng của dân tộc, vận mệnh của đất nước và công sức khai phá giữ gìn của người dân bao thế hệ.2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.2. Thơ sáng tác sau khi quân Minh xâm lược Đại Ngu :- Nguyễn Trãi trực tiếp ca ngợi vị vua anh hùng Lê Lợi và cũng là ca ngợi cuộc kháng chiến của dân tộc. ở đây ông đã tóm tắt một cách tài tình mục đích, đường lối của cuộc khởi nghĩa. Với bài Hạ quy Lam Sơn, Ðề kiếm. – Việc đánh tan giặc phương Bắc hùng mạnh từng bao lần rắp tâm xâm chiếm nước ta đã là nỗi tự hào cao độ tràn ngập trong giọng thơ của Nguyễn Trãi.2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.2. Thơ sáng tác sau khi quân Minh xâm lược Đại Ngu : Nguyễn Trãi trực tiếp ca ngợi vị vua anh hùng Lê Lợi và cũng là ca ngợi cuộc kháng chiến của dân tộc. ở đây ông đã tóm tắt một cách tài tình mục đích, đường lối của cuộc khởi nghĩa. Với bài Hạ quy Lam Sơn, Ðề kiếm. “… Sóc tẩm dĩ thanh kình lãng túcNam châu vạn cổ cựu giang san” (Hạ quy Lam Sơn – I) Việc đánh tan giặc phương Bắc hùng mạnh từng bao lần rắp tâm xâm chiếm nước ta đã là nỗi tự hào cao độ tràn ngập trong giọng thơ của Nguyễn Trãi.2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.3. Thơ sáng tác sau khi chiến thắng quân Minh:- Nguyễn Trãi luôn đề cao việc lấy “văn trị” và “ nhân nghĩa” để sửa sang việc “ an dân trị nước”. “ Thánh tâm lục dữ dân hưu tức, Văn trị chung tư trí thái bình” (Quan duyệt thủy trận)Dịch thơ: “ Lòng vua rất muốn dân an, Thái bình rốt lại lấy văn sửa đời”- Yêu thương dân, suốt đời lo nghĩ thực hiện một phương sách để nước trị dân yên là một nét lớn trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi. 2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.3. Thơ sáng tác sau khi chiến thắng quân Minh: Nguyễn Trãi luôn đề cao việc lấy “văn trị” và “ nhân nghĩa” để sửa sang việc “ an dân trị nước”. “ Thánh tâm lục dữ dân hưu tức, Văn trị chung tư trí thái bình” (Quan duyệt thủy trận)Dịch thơ: “ Lòng vua rất muốn dân an, Thái bình rốt lại lấy văn sửa đời” Yêu thương dân, suốt đời lo nghĩ thực hiện một phương sách để nước trị dân yên là một nét lớn trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi. 2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.3. Thơ sáng tác sau khi chiến thắng quân Minh:- Thơ của ông đậm đà phong cách của nhà nho vơi hai lối xuất và xử. Khi làm quan, ông tận tụy với việc vua, vua nước. Và sau khi xong nhiệm vụ thì muốn quay về để sống cuộc sống an nhàn, giản dị, nơi non nước hữu tình.- Ngoài ra một vài bài thơ mang đậm dấu ấn đạo Phật như “ Du Nam Hoa tự”, “ Đề Nam Hoa thiền phòng”, cùng với các bài như “ Tầm Câu”, “ Thiều Châu”, “ Ngô Châu”, “ Quá Lãnh”, “ Giang Tây”, “ Bình nam dạ bạc”, … đề cập đến các thắng tích bên Trung Hoa mà chưa có sử liệu nào xác định việc Nguyễn Trãi từng qua bên ấy.2. Nội dung của tác phẩm Ức Trai thi tập: 2.3. Thơ sáng tác sau khi chiến thắng quân Minh: Thơ của ông đậm đà phong cách của nhà nho với hai lối xuất và xử. Khi làm quan, ông tận tụy với việc vua, vua nước. Và sau khi xong nhiệm vụ thì muốn quay về để sống cuộc sống an nhàn, giản dị, nơi non nước hữu tình. Ngoài ra một vài bài thơ mang đậm dấu ấn đạo Phật như “ Du Nam Hoa tự”, “ Đề Nam Hoa thiền phòng”, cùng với các bài như “ Tầm Câu”, “ Thiều Châu”, “ Ngô Châu”, “ Quá Lãnh”, “ Giang Tây”, “ Bình nam dạ bạc”, … đề cập đến các thắng tích bên Trung Hoa mà chưa có sử liệu nào xác định việc Nguyễn Trãi từng qua bên ấy.3. Nghệ thuật của tác phẩm Ức Trai thi tập:3.1. Thể thơ: – Nguyễn Trãi đã vận dụng một cách thuần thục thể thơ Đường luật, trong đó thể thơ thất ngôn báy cú Đường luật được sử dụng không ít. Ông đã vận dụng một thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật một cách thành thạo và tuân thủ chặt chẽ quy luật nghiêm ngặt của thơ Đường. Không những thế, ông đã bộc lộ những cung bậc cảm xúc, nỗi niềm sâu kín cùng những dòng thơ. – Nguyễn trãi cũng đã tuân thủ chặt chẽ luật thơ đường bằng việc gieo vần ở chữ cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8. Đồng thời các quy luật về đối thanh, đối vần vẫn được ứng dụng chặt chẽ trong câu 3, 4, 5, 6 của bài thơ. – Bên cạnh đó còn có thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cũng được ông sử dụng.3. Nghệ thuật của tác phẩm Ức Trai thi tập:3.1. Thể thơ: Nguyễn Trãi đã vận dụng một cách thuần thục thể thơ Đường luật, trong đó thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật được sử dụng không ít. Ông đã vận dụng một thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật một cách thành thạo và tuân thủ chặt chẽ quy luật nghiêm ngặt của thơ Đường. Không những thế, ông đã bộc lộ những cung bậc cảm xúc, nỗi niềm sâu kín cùng những dòng thơ. Nguyễn trãi cũng đã tuân thủ chặt chẽ luật thơ đường bằng việc gieo vần ở chữ cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8. Đồng thời các quy luật về đối thanh, đối vần vẫn được ứng dụng chặt chẽ trong câu 3, 4, 5, 6 của bài thơ. Bên cạnh đó còn có thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cũng được ông sử dụng.3. Nghệ thuật của tác phẩm Ức Trai thi tập:3.2. Ngôn ngữ: – Ngôn ngữ mà Nguyễn Trãi sử dụng thật trong sáng, giản dị, tinh tế, dễ hiểu, kín đáo mà trầm lắng, đậm chất suy tư, trăn trở, phù hợp với những ưu tư của ông về nước. Các bài thơ của ông có một điều đặc biệt là dùng chữ rất cô đọng, chữ ít nghĩa nhiều. Có những bài thơ đạt đến đỉnh cao. Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.” Vòm biếc đêm thanh trời tựa nước, Giữa chằm hạc rít lạnh làm sao.” “Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ (Đề Bá Nha cổ cầm đồ)3. Nghệ thuật của tác phẩm Ức Trai thi tập:3.2. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ mà Nguyễn Trãi sử dụng thật trong sáng, giản dị, tinh tế, dễ hiểu, kín đáo mà trầm lắng, đậm chất suy tư, trăn trở, phù hợp với những ưu tư của ông về nước. Các bài thơ của ông có một điều đặc biệt là dùng chữ rất cô đọng, chữ ít nghĩa nhiều. Có những bài thơ đạt đến đỉnh cao. “Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn, Vòm biếc đêm thanh trời tựa nước. Giữa chằm hạc rít lạnh làm sao, Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ.” (Đề Bá Nha cổ cầm đồ)3. Nghệ thuật của tác phẩm Ức Trai thi tập:3.3. Hình ảnh thơ: – Hình ảnh thân thuộc bình dị trong sáng: Cuộc sống muôn màu, muôn vẻ đã được Nguyễn Trãi tái hiện sinh động, cụ thể trong những tập thơ của mình. – Hình ảnh thiên nhiên nên thơ: Giữa tâm hồn nhà thơ và hình ảnh trong thiên nhiên có một dấu bằng rất rõ và rất dịu dàng. Không chỉ đơn thuần là những hình ảnh đẹp, bình dị mà đặc sắc hơn là “ cũng ngụ tình”. Ví dụ như hình ảnh thiên nhiên trong bài Côn Sơn ca.3. Nghệ thuật của tác phẩm Ức Trai thi tập:3.3. Hình ảnh thơ: Hình ảnh thân thuộc bình dị trong sáng: Cuộc sống muôn màu, muôn vẻ đã được Nguyễn Trãi tái hiện sinh động, cụ thể trong những tập thơ của mình. Mười năm xa cách chốn non nhà Tùng cúc quay về nửa xác xơ Đã hẹn cùng khe đầu hẹn ước Cúi đầu đất bụi chỉ thương ta (Loạn hậu đáo Côn Sơn) Hình ảnh thiên nhiên nên thơ: Giữa tâm hồn nhà thơ và hình ảnh trong thiên nhiên có một dấu bằng rất rõ và rất dịu dàng. Không chỉ đơn thuần là những hình ảnh đẹp, bình dị mà đặc sắc hơn là “ngụ tình”. Ví dụ như hình ảnh thiên nhiên trong bài Côn Sơn ca. “Coân Sôn suoái chaûy rì raàm Ta nghe nhö tieáng ñaøn caàm beân tai. Coân Sôn coù ñaù reâu phôi, Ta ngoài treân ñaù nhö ngoài ñeäm eâm. Trong gheành thoâng moïc nhö neâm, Tìm nôi boùng maùt ta leân ta naèm. Trong röøng coù boùng truùc raâm, Döôùi maøu xanh maùt ta ngaâm thô nhaøn.”3. Nghệ thuật của tác phẩm Ức Trai thi tập:3.4. Giọng điệu: • Giọng điệu mang tình yêu thương quê hương tha thiết và lắng đọng. • Giọng điệu quyết chiến, đấu tranh vì dân vì nước. • Giọng thơ đôi khi lắng đọng một nỗi niềm u uất, chán nản, bi quan, thậm chí còn thấm thía giọng điệu mỉa mai cho sự nghiệp anh hùng dở dang của mình. • Giọng thơ hài hòa với thiên nhiên, chân thành tha thiết trong tình bạn, hóm hỉnh nhưng tế nhị, sâu sắc trong tình người.3. Nghệ thuật của tác phẩm Ức Trai thi tập:3.4. Giọng điệu: • Giọng điệu mang tình yêu thương quê hương tha thiết và lắng đọng. • Giọng điệu quyết chiến, đấu tranh vì dân vì nước. • Giọng thơ đôi khi lắng đọng một nỗi niềm u uất, chán nản, bi quan, thậm chí còn thấm thía giọng điệu mỉa mai cho sự nghiệp anh hùng dở dang của mình. • Giọng thơ hài hòa với thiên nhiên, chân thành tha thiết trong tình bạn, hóm hỉnh nhưng tế nhị, sâu sắc trong tình người.
Kết luận
Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Phân tích thơ thiên nhiên trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.
Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 12/2024!