Updated at: 20-03-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức ” chuẩn nhất 10/2024.

Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức – Mẫu 1

Bài viết tham khảo cảm nhận và phân tích bài thơ Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính) vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ. Cách cảm nhận và phân tích đó có những ưu thế gì nổi bật?

Phương pháp giải:

– Đọc kĩ bài viết tham khảo.

– Tìm hiểu nét đặc sắc trong cách cảm nhận bài thơ Mùa xuân xanh để nêu những ưu điểm nổi bật của cách cảm nhận này.

Lời giải chi tiết:

Ưu điểm của cách cảm nhận và phân tích thơ vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ:

– Cách cảm nhận và phân tích này chỉ ra được các hình ảnh nổi bật trong bài thơ từ đó đánh giá và nhận xét được suy nghĩ, quan niệm của tác giả một cách chính xác nhất.

– Cách cảm nhận và phân tích này thể hiện được rõ ràng mạch cảm xúc của bài thơ, phân tích bài thơ theo từng câu, từng khổ thơ một cách rõ ràng và mạch lạc để người đọc có thể dễ dàng hiểu được nội dung bài thơ từ đầu đên cuối.

– Với bài thơ Mùa xuân xanh, cách cảm nhận này không chỉ làm nổi bật được nội dung bài thơ, phân tích được tác dụng của các biện pháp nghệ thuật trong từng câu thơ, khổ thơ; mà còn nhấn mạnh được các chi tiết, hình ảnh quan trọng trong bài thơ.

=> Cách cảm nhận và phân tích vừa theo tuyến hình ảnh dọc bài thơ vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ giúp người đọc cảm nhận bài thơ một cách dễ hơn, rõ ràng hơn và không bị bỏ quên một chi tiết nào của bài thơ.

Câu 2

Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là gì?

Phương pháp giải:

– Đọc kĩ bài viết tham khảo.

– Từ việc tìm hiểu cách phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ để chỉ ra cái thực chất của việc phân tích chủ đề.

Lời giải chi tiết:

Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là việc phân tích, nêu cảm nhận của bản thân về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ đó. Phân tích chủ đề để làm nổi bật lên nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ đồng thời nhận xét và đánh giá quan niệm của tác giả qua bài thơ đó.

Câu 3

Người viết đã đánh giá bài thơ như thế nào? Nêu nhận xét khái quát về tính thuyết phục của đánh giá đó.

Phương pháp giải:

– Đọc kĩ bài viết tham khảo.

– Dựa vào những câu văn thể hiện thái độ, đánh giá của người viết với bài thơ để nêu nhận xét khái quát về tính thuyết phục của sự đánh giá đó.

Lời giải chi tiết:

– Người viết đã đánh giá bài thơ là bài thơ giản dị mà vẫn làm toát lên sức sống phơi phới của vạn vật lúc xuân về. Nó là bài thơ của niềm vui sống, của sự chan hòa giữa con người với tạo vật, là khúc dạo đầu của tình yêu lứa đôi.

– Về tính thuyết phục của đánh giá trên:

+ Người viết đã phân tích từng câu thơ, từng hình ảnh trong bài thơ để làm nổi bật giá trị nội dung của bài thơ.

+ Người viết cũng nêu và phân tích được các biện pháp nghệ thuật tu từ trong bài thơ và nhận xét được phong cách nghệ thuật của tác giả.

+ Ngoài ra, người viết cũng sử dụng một số câu thơ, bài thơ cùng chủ đề để so sánh và đánh giá.

=> Đánh giá của người viết với bài thơ đã có đủ sức thuyết phục người đọc, có những luận điểm, lí lẽ và bằng chứng xác đáng, làm nổi bật được giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

Câu 4

Viết bài văn phân tích và đánh giá bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) của Đỗ Phủ.

Phương pháp giải:

– Đọc lại bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu).

– Đọc lại kiến thức về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

– Dựa vào những kiến thức đã học để viết bài văn cảm nhận bài thơ.

Lời giải chi tiết:

Bài văn mẫu

Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc với những vần thơ phản ánh hiện thực và bày tỏ cảm xúc, thái độ, tâm trạng đau khổ trước hiện thực đời sống của nhân dân trong chiến tranh, trong nạn đói chan chứa tình yêu nước và tinh thần nhân đạo. Trong những bài thơ đặc sắc có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu dạt ở Quý Châu. Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li; lo cho tình hình đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.

Phiên âm chữ Hán:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Trong bài thơ, bốn câu đầu là “câu đề” với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng mang nỗi buồn hiu hắt ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,

Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đối cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Mọi thứ được miêu tả không những theo chiều sâu và còn theo tầm mắt của tác giả, nhìn về phía xa xăm. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ được thể hiện ngay từ câu thơ đầu khi tả cảnh rừng phong với sương còn phủ trên lá cây; nó tạo ra một cảnh tượng buồn, đặc biệt hình ảnh rừng phong lại càng nhấn mạnh thêm sự li biệt khi lá phong chuyển sang đỏ, khi mùa thu đến. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, cả rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương móc cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua chính cái nhìn đầy tâm trạng đau buồn của nhà thơ.

Câu thơ thứ hai có nhắc đến hình ảnh Vu sơn, Vu giáp, người đọc sẽ nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia – nơi toàn cảnh bị bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bài thơ, Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng bởi sự hiểm trở và hùng vĩ, được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút; vách núi thì dựng đứng vậy nên ánh mặt trời khó có thể lọt được xuống tới lòng sông. Chính vì vậy mà vào mùa thu, khung cảnh nơi đây luôn ảm đạm, lạnh lẽo và qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng u sầu của Đỗ Phủ nó lại hiện lên càng thêm tối tăm, ảm đạm.

Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau – tâm trạng trĩu nặng một nỗi buồn thương. Hai câu thơ tuy là đều là hình ảnh rừng núi nhưng lại chung một điểm, đó chính là nỗi buồn đang dần ngấm vào tác giả, nỗi buồn ấy chế ngự cả tâm trạng và cảm xúc của tác giả khi ông đặt bút ngâm thơ.

Cũng với tâm trạng như vậy, Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tiếp theo mang nét tả thực đầy ám ảnh, như có ma lực cuốn hút hồn người:

Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Nếu như ở hai câu mở đầu là hình ảnh của rừng phong, là sự quan sát từ trên cao xuống thì hai câu tiếp theo lại miêu tả cảnh sắc vừa hoành tráng lại dữ dội. Hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi) thì đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ. Chúng vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Bốn câu thơ tuy tả cùng một cảnh nhưng ở mỗi câu là một nét chấm phá riêng, là sự nhìn nhận toàn cảnh chứ không tập trung vào một điểm cụ thể nào. Cảnh sắc trời mây non nước, rừng núi hiện ra vừa cụ thể lại vừa đặc trưng cho mùa thu. Nhưng chính hình ảnh này, lại khiến tác giả nhớ quê hương tới nao lòng.

Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.

Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, tưởng như không có gì mới nhưng điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa, nhà thơ lại rơi lệ. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào. Hình ảnh chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một hình ảnh ẩn dụ đầy ý nghĩa, không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.

Đến hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đã đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy vẫn không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang, mong ngóng, chờ đợi ngày được trở về quê của tác giả.

Bốn câu cuối tập trung vào miêu tả cảm xúc cũng là những vần thơ chứa đựng nhiều tình cảm, đó là lòng mong ngóng quê nhà, nỗi khát khao được trở về quê hương, tình yêu và sự buồn bã khi phải sống tha phương. Bốn câu thơ diễn tả nỗi buồn của người xa quê, ngậm ngùi, mong ngóng ngày trở về quê hương.

Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là có kết cấu hết sức chặt chẽ, câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là các câu đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thành công thâu tóm được tất cả thần thái của mùa thu trong bài thơ.

     Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Qua bài thơ ta thấy được một tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm lại rung động mãnh liệt với cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, cái tư tưởng “yêu nước thương đời” lại càng thể hiện rõ. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Những vần thơ của ông có sức lay động mãnh liệt, đặc biệt những vần thơ như bật lên khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ… Ông xứng đáng được người đời tôn vinh là bậc “Thi thánh” của thời Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.

Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức – Mẫu 2

Đọc ngữ liệu tham khảo

Video hướng dẫn giải

Câu 1 (trang 74, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Ngữ liệu trên có phải một bài viết hoàn chỉnh không? Căn cứ vào đâu để nhận định như vậy?

Phương pháp giải:

– Đọc kĩ toàn bộ ngữ liệu tham khảo.

– Hiểu đúng thế nào là một bài viết hoàn chỉnh.

Lời giải chi tiết:

– Theo em, ngữ liệu trên chưa phải là một bài viết hoàn chỉnh.

– Trong bài viết ở ngữ liệu chỉ có phần phân tích, chưa có phần mở bài giới thiệu vấn đề sẽ nói trong bài và kết luận về những giá trị của bài thơ.

Câu 2 (trang 74, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Nội dung phân tích, đánh giá được trình bày theo cách tách riêng chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật hay kết hợp hai nội dung? Cách trình bày như vậy có ưu điểm gì?

Phương pháp giải:

– Đọc kĩ toàn bộ văn bản.

– Chú ý những chi tiết nói về phần nội dung, những chi tiết nói về nghệ thuật.

Lời giải chi tiết:

– Nội dung phân tích, đánh giá được trình bày theo lối kết hợp cả chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật.

– Cách trình bày như vậy giúp người đọc, người nghe có những hiểu biết đầy đủ về tất cả những vấn đề có liên quan đến luận điểm chính, tạo sự hài hòa cho bài viết khi có sự xen kẽ.

Câu 3 (trang 74, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Xác định các ý chính được trình bày trong ngữ liệu.

Phương pháp giải:

Đọc kĩ toàn bộ văn bản.

Lời giải chi tiết:

Các ý chính được trình bày trong ngữ liệu:

– Không gian trong và lạnh của ao thu.

– Sự tĩnh lặng của không gian.

– Sự cao rộng của không gian.

Câu 4 (trang 74, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Để làm sáng tỏ sức gợi tả của hình ảnh trong bài thơ Thu điếu, tác giả đã dùng những dẫn chứng, lí lẽ nào?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ ngữ liệu tham khảo.

Lời giải chi tiết:

Những dẫn chứng, lí lẽ được tác giả sử dụng để gợi tả hình ảnh trong bài thơ Thu điếu:

– Không gian trong và lạnh: lạnh lẽo, trong veo.

– Phong cảnh ao thu tươi tắn, yên tĩnh: sóng biếc, lá gàng, gợn tí, khẽ đưa.

– Trời trong xanh, yên tĩnh, cao vút: trời xanh ngắt, vắng teo, lơ lửng.

Câu 5 (trang 74, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Việc đánh giá chủ đề và hình thức nghệ thuật có xuất phát từ đặc trưng thể loại của tác phẩm không?

Phương pháp giải:

Nêu suy nghĩ của bản thân.

Lời giải chi tiết:

Việc đánh giá chủ đề và hình thức nghệ thuật xuất phát từ đặc trưng thể loại của tác phẩm. Mỗi thể loại sẽ có những đặc điểm nhận dạng khác nhau như các bài thơ trữ tình sẽ thiên về hình ảnh với cảm xúc lãng mạn,… Việc đánh giá như vậy sẽ giúp người đọc, người nghe hình dung rõ ràng nhất về thể loại mà bài viết muốn nói đến.

Thực hành viết theo quy trình

Video hướng dẫn giải

Hãy viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ (thơ lục bát, thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt).

Phương pháp giải:

– Đọc kĩ yêu cầu của một bài viết phân tích, đánh giá thơ.

– Lập dàn ý chi tiết.

– Tham khảo ngữ liệu.

Lời giải chi tiết:

Dàn ý

1. Mở bài

Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và nội dung chính của bài viết: Thiên nhiên và con người trong Cảnh khuya (Hồ Chí Minh).

2. Thân bài

Giới thiệu và trích dẫn lần lượt các câu thơ để phân tích, đánh giá.

– Hai câu thơ đầu tiên: miêu tả bức tranh thiên nhiên tươi đẹp.

+ Hình ảnh “tiếng suối”.

+ Biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa

→ Hình ảnh ánh trăng làm bừng sáng thiên nhiên nơi chiến khi Việt Bắc.

– Câu thơ thứ 3: Khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình.

+ Biện pháp tu từ so sánh à làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật trữ tình.

– Câu thơ thứ 4: Bài thơ kết thúc bằng một lời giải thích ngắn gọn, thẳng thắn nhưng lại rất đáng quý và trân trọng.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của chủ đề.

Bài làm

Thiên nhiên và con người trong Cảnh khuya (Hồ Chí Minh)

Hồ Chí Minh một vị lãnh tụ tài hoa của dân tộc Việt Nam, bên cạnh đó với tài năng của mình người đã sáng tác nên những áng thơ văn vô cùng nổi bật. Trong đó bài thơ “Cảnh Khuya” là một tác phẩm thơ văn được viết trong thời kì kháng chiến tiêu biểu. Bài thơ là sự miêu tả bức tranh thiên nhiên vào đêm trăng đẹp, qua đó cho ta thấy tâm tư, tình cảm của một chiến sĩ cộng sản luôn hết mình vì nhân dân, vì đất nước.

Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên thật đẹp:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”

Với giọng thơ bình dị, vẻ đẹp của cảnh vật hiện lên trong thơ Hồ Chí Minh vừa có ánh sáng vừa có âm thanh. Thiên nhiên, cảnh núi rừng Việt Bắc vắng vẻ nhưng vô cùng huyền ảo và thơ mộng. Với việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của “tiếng suối trong”. Vào ban đêm, chỉ với ánh trăng mà nhà thơ cũng có thể thấy được sự trong veo của nước suối. Ánh trăng đêm quả thật rất đẹp, rất sáng. Ánh trăng còn nổi bật hơn ở hình ảnh “trăng lồng cổ thụ” ánh trăng sáng bao quát cả một cây đại thụ lớn kết hợp với tiếng tiếng suối thanh trong như điệu nhạc êm, hát mãi không ngừng.

Chỉ với hai câu thơ mở đầu mà bức tranh phong cảnh hiện lên vô cùng sinh động, với thật nhiều màu sắc.

Sau hai câu thơ tả cảnh, tiếp đến câu thơ thứ ba là sự khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình vô cùng tự nhiên.

“Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,”

Cảnh đêm trăng tuyệt đẹp như bức họa thế kia thì làm sao mà ngủ được. Phải chăng Người đang thao thức về một đêm trăng sáng với âm thanh vang vọng trong trẻo của núi rừng.

“Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

Câu thơ cuối càng làm nổi rõ hơn nguyên nhân không ngủ được của Bác đó là “lo nỗi nước nhà”. Câu thơ cuối nêu lên cái thực tế của nhân vật trữ tình và mở sâu và hiện thực tâm trạng của nhà thơ. Sự độc đáo của thơ Hồ Chí Minh là bài thơ kết thúc với một lời giải thích, vô cùng thẳng thắn và ngắn gọn nhưng cũng rất đáng quý trọng. Nghệ thuật ấy vô cùng chân thực, giản dị, đi thẳng vào lòng người nên cũng là nghệ thuật cao quí, tinh vi nhất.

Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Bài thơ Cảnh Khuya của Hồ Chí Minh miêu tả bức tranh đêm khuya thật đẹp, thật thơ mộng. Nhưng sâu hơn nữa là thể hiện tâm tư, tình cảm của một người chiến sĩ cách mạng luôn hết lòng vì nhân dân, lo cho dân, cho nước.

Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức – Mẫu 3

Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ 

Bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ không phải là một bài phát biểu cảm nhận đơn thuần. Kiểu bài viết này đòi hỏi sự chặt chẽ trong lập luận, sự sáng rõ, sắc nét của luận điểm và sự mạch lạc trong tổ chức bài viết. Bởi vậy, người viết cần nắm chắc các tri thức về đặc trưng thi ca đã được giới thiệu trong bài học và được làm rõ qua các tiết đọc văn bản để có những phân tích, đánh giá thuyết phục. Mặt khác, kiểu bài này cũng vẫn khuyến khích người viết thể hiện những rung cảm và tưởng tượng của mình khi chiếm lĩnh bài thơ.

* Yêu cầu:

– Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ được chọn (tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, khuynh hướng, trào lưu văn học gắn với bài thơ, lý do lựa chọn bài thơ để phân tích, đánh giá).

– Chỉ ra và phân tích những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ (từ ngữ, hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, nhạc điệu, cách liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh, …)

QUẢNG CÁO

– Đánh giá giá trị của bài thơ về phương diện nghệ thuật cũng như ý nghĩa nhân sinh.

* Phân tích bài viết tham khảo:

Những điệu xanh của mùa xuân (Đọc Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính)

– Nhan đề bài viết cho biết tên bài thơ, tên tác giả và hướng phân tích của người viết.

– Đoạn văn 1: Giới thiệu và cung cấp thông tin khái quát về tác giả và tác phẩm.

– Đoạn văn 2: Nêu ấn tượng trước sự gợi mở của nhan đề và câu mở đầu của bài thơ.

– Đoạn văn 3: Phân tích mạch triển khai hệ thống hình ảnh trong bài thơ.

– Đoạn văn 4: Phân tích phép đối, phép điệp và hiệu quả thẩm mỹ mà các phép tu từ này gợi ra.

– Đoạn văn 5: Liên hệ, so sánh với thơ truyền thống để làm rõ những nét mới mẻ của bài thơ.

– Đoạn văn 6: Khẳng định giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân bản của bài thơ.

Trả lời:

Ưu điểm của cách cảm nhận và phân tích thơ vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ:

– Cách cảm nhận và phân tích này chỉ ra được các hình ảnh nổi bật trong bài thơ từ đó đánh giá và nhận xét được suy nghĩ, quan niệm của tác giả một cách chính xác nhất.

– Cách cảm nhận và phân tích này thể hiện được rõ ràng mạch cảm xúc của bài thơ.

– Nhấn mạnh được các chi tiết, hình ảnh quan trọng trong bài thơ.

→ Giúp người đọc cảm nhận bài thơ một cách dễ hơn, rõ ràng hơn.

Trả lời:

– Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là việc phân tích, nêu cảm nhận của bản thân về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ đó. Phân tích chủ đề để làm nổi bật lên nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ đồng thời nhận xét và đánh giá quan niệm của tác giả qua bài thơ đó.

Trả lời:

– Người viết đã đánh giá bài thơ là bài thơ giản dị mà vẫn làm toát lên sức sống phơi phới của vạn vật lúc xuân về. Nó là bài thơ của niềm vui sống, của sự chan hòa giữa con người với tạo vật, là khúc dạo đầu của tình yêu lứa đôi.

– Về tính thuyết phục của đánh giá trên:

+ Người viết đã nêu và phân tích được các biện pháp nghệ thuật tu từ trong bài thơ và nhận xét được phong cách nghệ thuật của tác giả.

+ Người viết cũng sử dụng một số câu thơ, bài thơ cùng chủ đề để so sánh và đánh giá nhằm đem đến cái nhìn khách quan nhất cho người đọc.

+ Người viết đã phân tích từng câu thơ, từng hình ảnh trong bài thơ để làm nổi bật giá trị nội dung của bài thơ.

→ Có đủ sức thuyết phục người đọc, có những luận điểm, lí lẽ và bằng chứng xác đáng, làm nổi bật được giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

* Thực hành viết

  1. Chuẩn bị viết

– Lựa chọn bài thơ sẽ được phân tích, đánh giá. Cân nhắc để chọn đúng bài thơ đã thật sự làm bạn rung cảm và tin vào giá trị nghệ thuật của nó: bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử

→ Giá trị nghệ thuật của bài thơ: Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là có kết cấu hết sức chặt chẽ, câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là các câu đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thành công thâu tóm được tất cả thần thái của mùa thu trong bài thơ.

– Tìm đọc tham khảo những bài viết, ý kiến liên quan đến bài thơ.

  1. Tìm ý, lập dàn ý
  2. Tìm ý:

– Chú ý những cách diễn đạt lạ và những hình ảnh gây ấn tượng.

* Dấu hiệu báo xuân sang:

+ Làn nắng ửng.

+ Làn khói mơ.

+ Mái nhà tranh bên giàn thiên lý.

 → Thanh tĩnh, bình dị, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương.

– Cảnh vật thôn quê đẫm hơi xuân:

+ Làn mưa xuân tưới thêm sức sống.

+ Cỏ cây xanh tươi” gợn tới trời”.

+ Niềm vui của con người khi xuân đến.

– Niềm hạnh phúc của lứa đôi.

– Tiếng thơ ngây sao khiến lòng người bâng khuâng, xao xuyến.

– Chú ý về mạch liên kết về âm điệu, nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh của bài thơ.

– Tìm hiểu thêm về thông tin về tác giả và hoàn cảnh sáng tác, chú ý bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học của bài thơ – có thể giúp hiểu sâu hơn về ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc và tư tưởng bài thơ.

+ Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho đời nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái quê, Thơ điên hay Chơi giữa mùa trăng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.

– Chú ý vận dụng các thao tác so sánh và liên tưởng một cách thích hợp.

– Cần tập trung vào những phương diện hình thức nghệ thuật và nội dung của bài thơ mà người đọc xem là độc đáo, mới mẻ, thú vị.

– Khi đánh giá bài thơ, cần chú ý đầy đủ các giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân văn của nó.

  1. Lập dàn ý:

– Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ (tác giả, thời điểm ra đời, nơi xuất bản, đánh giá chung của dư luận,…) và nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.

– Thân bài:

+ Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình (nhân vật trữ tình muốn biểu đạt điều gì, thông qua hình tượng nào, với cái nhìn và thái độ ra sao,…).

+ Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính (qua các khổ, đoạn trong bài) và tính độc đáo của những phương tiện ngôn từ đã được sử dụng (từ ngữ, cách gieo vần, ngắt nhịp, các biện pháp tu từ,…).

+ Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại (của chính nhà thơ hoặc của những tác giả khác).

– Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết bài nghị luận.

*Chỉnh sửa, hoàn thiện

– Đọc lại và kiểm tra bài viết, đồng thời đối chiếu với các yêu cầu của đề bài, mục đích mà người viết đặt ra.

– Thử tóm tắt lại bài viết (khoảng 120 chữ) để tự đánh giá về mức độ chặt chẽ và sự sáng rõ của các luận điểm.

– Chỉnh sửa các lỗi về chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

Dàn ý tham khảo phân tích bài thơ Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử)

* Mở bài

– Giới thiệu tác giả Hàn Mặc Tử: là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.

– Giới thiệu khái quát bài thơ: Mùa xuân chín là được xếp ở phần Hương thơm trong tập thơ Đau thương. Cùng với Đây thôn Vĩ DạTình quê,… đây là những thi phẩm đầy thơ mộng viết về cảnh quê, tình quê của Hàn Mặc Tử.

 * Thân bài:

– Dấu hiệu báo xuân sang:

+ Làn nắng ửng.

+ Làn khói mơ.

+ Mái nhà tranh bên giàn thiên lý.

 → Thanh tĩnh, bình dị, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương.

– Cảnh vật thôn quê đẫm hơi xuân:

+ Làn mưa xuân tưới thêm sức sống.

+ Cỏ cây xanh tươi” gợn tới trời”.

+ Niềm vui của con người khi xuân đến.

– Niềm hạnh phúc của lứa đôi.

– Tiếng thơ ngây sao khiến lòng người bâng khuâng, xao xuyến.

→  Xuân mang vị “chín” của lòng người, của đời người.

* Kết bài: Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

* Viết

Viết bài theo dàn ý đã lập.

 Bài viết tham khảo

Hàn Mặc Tử: là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Thật vậy, trong làng Thơ mới, Hàn Mặc Tử là thi sĩ có diện mạo thơ vô cùng phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn. Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực là một giọng thơ trữ tình, đằm thắm, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ ấy.

Hàn Mặc Tử, với cuộc đời ngắn ngủi, tâm hổn đa cảm, mong manh đã để lại cho đời những bài thơ rất đặc sắc. “Mùa xuân chín” là một trong số đó. Trong không gian của buổi giao mùạ, một góc tâm tình của tác giả: Nhớ làng, nhớ quê… và một cái gì đó rất mơ hồ, gợi trong lòng ta biết bao suy nghĩ. “Mùa xuân chín” một khoảng trời riêng của cảm xúc đang “chín” trong lòng nhà thơ, trong lòng người đọc.

Đọc tựa bài, ta hầu như đã cảm nhận được cái “ngon lành”, cái đỉnh cao tận cùng của “Mùa xuân chín”. Nếu có “xuân chín” thì hẳn cũng có “xuân xanh” ; “xuân già”. Nằm giữa ranh giới của cái “non trẻ”, cái “già nua”, “Mùa xuân chín” trở nên giá trị nhưng cũng ngắn ngủi, mong manh vô cùng. Để lòng say đắm trong giây phút hoàn hảo nhất của vũ trụ ấy thì còn gì bằng!

Trong tan nắng ửng: khói mơ tan,

Đôi mái nhà tranh lẫm tấm vàng.

“Nắng ửng”. Từ “ửng” mang một ý nghĩa đặc biệt. Ta có thể liên tưởng đến ngay cái “chín ửng” của quả đào, quả hồng, cái “ưng ửng” hây hây của đôi má các cô gái trong tiết lạnh đầu xuân. Cũng như vậy, xuân đang “chín” lên trong cái “ửng” của nắng. Dấu hai chấm sau đó nhắc nhở ta cái gì sẽ hiện nhiên xẩy ra như quả chín thì chuyển từ xanh sang hồng. Những làn khói sương tan trong nắng, lượn lờ, bồng bềnh nâng tâm hồn thi sĩ lên khỏi mặt đất, khỏi thực tại, bước vào cõi “mơ”. “Đôi mùi nhả tranh lẫm tấm vàng”. Những “lấm tấm vàng” đó là hạt nắng hay chính là những ảo ảnh trong đôi mắt của người đang say Không phải cái say “quên trời, quên đất”, cái say của nhà thơ là những phút giây đắm chìm, mê mải, chăm chú, cả âm thanh, cả hình ảnh, màu sắc cũng hòa làm một: khói tan, mái nhà lấm tấm vàng, gió sột soạt tà áo, giàn thiên lí. Đó là “bóng xuân”. Chỉ là “bóng”, rất mơ hồ, huyền ảo, mùa xuân cô gái đẹp, đẹp như trong mơ, đẹp như quả chín, đẹp hoàn hảo lướt qua trong tâm hồn nhà thơ.

“Bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Tiếng hát của những cô gái đánh thức Hàn Mặc Tử, đưa nhà thơ trở lại với thực tại. Toàn khổ thơ là tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi :

“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bò cuộc chơi…”

Nhà thơ nghĩ đến ngày mai đây, cảnh vật, con người sẽ đỗi khác, những cô gái sẽ không còn những giây phút hồn nhiên, vô tư ca hát với mùa xuân, cũng như xuân rồi cũng sẻ qua, “xuân chín” rồi thì xuân sẽ tàn. Tâm hồn đa cảm ấy, không thể không rung lên xúc động. “Đám xuân xanh ấy” Mùa xuân tươi đẹp của đời người, cũng là mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên mà thi sĩ vẽ ra trước mắt người đọc làm ta không khỏi suy tư. Thế thì ta hãy tận hưởng cho hết những giờ khắc tuyệt vời ấy.

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi ,

Hổn hển như lời của nước máy…

Thầm thi với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây…

Trí tưởng tượng của tác giả đã lên đến tột độ, tiếng hát thánh thót như đang “vắt vẻo lưng chừng núi”, đang “hổn hển như lời của nước máy”. Những âm thanh không bay cao, bay xa mà vẫn “thầm thì với ai ngồi dưới trúc”. Từ “ai” rối rắm nghịch lý ấy cho ta thấy những cảm xúc vô cùng tinh tế trong tâm hồn thi sĩ. Tiếng hát bay khắp không gian, thi sĩ “thu”lại chỉ riêng cho “ai”. Chính là mình rồi tự thốt lên: “Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Có mấy ai cảm nhận hết cả đất trời như vậy! Nghĩ đến đất trời, về những cuộc đổi thay, về mùa xuân, tác giả lại nghĩ về mình Khác xa gặp lúc mùa xuân chín

Thì ra mình chỉ là một người tha phương, lẻ loi, cô độc gặp “Mùa xuân chín” mới có được giây phút ấm lòng. Hàn Mặc Tử nhớ về làng xưa trí bâng khuâng sực nhớ làng”.

Cái “sực nhớ” bất ngờ, dồn dập, tên tác giả, cái têu mà cha mẹ anh em vẫn gọi đối với Hàn Mặc Tử thân thương biết mấy, gần gũi biết mấy. Ngẫu nhiên, đó cũng là một từ rất phú hợp với nỗi nhớ của tác giả. Nhớ về quê xưa, hình ảnh đầu tiên đến với cái “sực nhớ” của tác giả là hình ảnh của người con gái. “Chị ấy” là chị ruột, chị họ hàng hay chí là một người quen hay là…? Ta không thể biết được. Nhưng ta hiểu được rằng tác giả đã dành sẵn một tình cảm rất trân trọng, rất tha thiết cho người con gái ấy. Tại sao hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhớ không phải là cha mẹ, anh em, mái nhà xưa? Bởi vì đây là cái “sực nhớ”, điều mà ý thức không kiêm soát được mà là của con tim đang dồn dập, nóng bỏng vì nỗi nhớ điều khiển. Những từ, tiếng vần liền “trắng, nắng”, “chang chang” tạo cho người đọc cảm giác rõ rệt về một bờ sông cát trắng, nắng chói rất thật rất rõ ràng tạo thành hình ảnh con người thật đẹp.

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang

Mùa xuân luôn là cảm hứng của bao nhiêu thi sĩ. Thế nhưng trong “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử vẫn rất đặc sắc vẫn rất sâu đậm, không những chỉ có “Mùa xuân chín” mà còn “chín” cả lòng người thi sỉ, “chín” cả nỗi nhớ làng, nhớ người xưa trong thơ Hàn Mặc Tử.

Bài thơ dạt dào cảm xúc khiến lòng người bâng khuâng. Với tâm hồn lãng mạn cùng những lời thơ trữ tình đặc sắc, Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời một bức tranh xuân, một hình ảnh xuân một nét xuân đầm thắm dịu dàng. Người thì đã đi xa nhưng tình người còn vương vấn mãi. Bài thơ ấy cùng với cái tôi Hàn Mặc Tử vẫn tồn tại muôn đời.

Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức – Mẫu 4

*Tri thức về kiểu bài

Kiểu bài:

Phân tích, đánh giá một bài thơ: chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật là kiểu bài nghị luận văn học dùng lí lẽ và bằng chứng để làm rõ giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ ấy.

Yêu cầu đối với kiểu bài

– Về nội dung:

• Xác định được chủ đề và phân tích, đánh giá ý nghĩa, giá trị của chủ đề bài thơ.

• Phân tích, đánh giá được một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật như dạng thức xuất hiện của chủ thể trữ tình, kết cấu, từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, biện pháp tu từ,…

– Về kĩ năng:

• Lập luận chặt chẽ, thể hiện được những suy nghĩ, cảm nhận của người viết về bài thơ.

• Có bằng chứng tin cậy từ bài thơ.

• Diễn đạt mạch lạc, sử dụng được các câu chuyển tiếp, các từ ngữ liên kết giúp người đọc nhận ra mạch lập luận.

• Bố cục bài viết gồm 3 phần:

Mở bài: giới thiệu bài thơ và tác giả; nêu nhận xét khái quát về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.

Thân bài: lần lượt phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ.

Kết bài: khẳng định lại giá trị chủ đề và những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ; tác động của bài thơ đối với bản thân hoặc cảm nghĩ về tác phẩm.

*Đọc ngữ liệu tham khảo: Sức gợi tả của hình ảnh trong bài thơ Thu Điếu (Nguyễn Khuyến)

Câu 1 (trang 74 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Ngữ liệu trên có phải một bài viết hoàn chỉnh không? Căn cứ vào đâu để nhận định như vậy?

Trả lời:

– Theo em, ngữ liệu trên chưa phải là một bài viết hoàn chỉnh.

– Căn cứ vào những yếu tố sau:

+ Trong bài viết ở ngữ liệu chưa đảm bảo hình thức cấu trúc một bài viết vì chỉ có phần phân tích, chưa có phần mở bài giới thiệu vấn đề sẽ nói trong bài và kết luận về những giá trị của bài thơ.

Câu 2 (trang 74 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Nội dung phân tích, đánh giá được trình bày theo cách tách riêng chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật hay kết hợp hai nội dung? Cách trình bày như vậy có ưu điểm gì?

Trả lời:

– Nội dung phân tích, đánh giá được trình bày theo lối kết hợp cả chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật.

– Cách trình bày như vậy giúp người đọc, người nghe có những hiểu biết chi tiết về tất cả những vấn đề có liên quan đến luận điểm chính, tạo sự hài hòa cho bài viết khi có sự xen kẽ.

Câu 3 (trang 74 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Xác định các ý chính được trình bày trong ngữ liệu.

Trả lời:

– Các ý chính được trình bày trong ngữ liệu:

+ Không gian trong và lạnh của ao thu.

+ Sự tĩnh lặng của không gian.

+ Sự cao rộng của không gian.

Câu 4 (trang 74 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

 Để làm sáng tỏ sức gợi tả của hình ảnh trong bài thơ Thu điếu, tác giả đã dùng những dẫn chứng, lí lẽ nào?

Trả lời:

– Những dẫn chứng, lí lẽ được tác giả sử dụng để gợi tả hình ảnh trong bài thơ Thu điếu:

+ Không gian trong và lạnh: lạnh lẽo, trong veo.

+ Phong cảnh ao thu tươi tắn, yên tĩnh: sóng biếc, lá gàng, gợn tí, khẽ đưa.

+ Trời trong xanh, yên tĩnh, cao vút: trời xanh ngắt, vắng teo, lơ lửng.

Câu 5 (trang 74 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Việc đánh giá chủ đề và hình thức nghệ thuật có xuất phát từ đặc trưng thể loại của tác phẩm không?

Trả lời:

Việc đánh giá chủ đề và hình thức nghệ thuật xuất phát từ đặc trưng thể loại của tác phẩm. Mỗi thể loại sẽ có những đặc điểm nhận dạng khác nhau như các bài thơ trữ tình sẽ thiên về hình ảnh với cảm xúc lãng mạn,… Việc đánh giá như vậy sẽ giúp người đọc, người nghe hình dung rõ ràng nhất về thể loại mà bài viết muốn nói đến.
*Thực hành viết theo quy trình

Đề bài (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Hãy viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ (thơ lục bát, thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt).

Bước 1: Chuẩn bị viết

Xác định đề tài, mục đích viết, người đọc

Nên chọn phân tích, đánh giá bài thơ đáp ứng những tiêu chí như:

• Được bản thân và nhiều bạn khác yêu thích.

• Có chủ đề và những điểm đặc sắc về hình thức nghệ thuật dễ nhận thấy.

• Có độ dài phù hợp.

Trả lời các câu hỏi sau để xác định mục đích viết, người đọc: Việc viết văn bản này nhằm mục đích gì? Ai sẽ là người đọc căn bản?

Thu thập tư liệu

Phạm vi lựa chọn của bạn khá rộng. Đó có thể là:

• Một bài ca dao.

• Một bài thơ bát cú, một bài thơ tứ tuyệt (hay thơ bốn câu).

Bạn cần quyết định chọn một bài thơ, đoạn thơ trong các trường hợp trên làm đối tượng phân tích đánh giá, đồng thời tìm đọc một số bài viết liên quan.

Khi đọc tư liệu, bạn cần:

• Ghi chép, đánh dấu những ý kiến nhận xét, đánh giá liên quan đến văn bản mình sẽ phân tích.

• Xem xét các ý kiến đã đề cập đến những phương diện nào, chưa đề cập phương diện nào của văn bản thơ mà bạn sẽ phân tích? Bản thân mình đồng tình với ý kiến nào hoặc có ý kiến khác không?

Bước 2: Tìm ý, lập dàn ý

Tìm ý

• Trả lời các câu hỏi:

– Bài thơ đề cập đến vấn đề gì? Tác giả đề cập đến vấn đề đó với thái độ, tình cảm như thế nào?

– Đưa ra một số dẫn chúng quan trọng (trích dẫn từ bài thơ) có thể minh hoạ cho các ý tưởng.

• Khi tìm ý cho việc phân tích, đánh giá chủ đề của một bài thơ, bạn cần đặt và trả lời các câu hỏi: Chủ đề của bài thơ này là gì? Chủ đề đó có gì sâu sắc, mới mẻ? Chủ đề đó bao gồm các khía cạnh nào?,…

• Khi tìm ý cho việc phân tích, đánh giá nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của một bài thơ, bạn cần đặt và trả lời các câu hỏi phù hợp với đặc trưng thể loại của bài thơ ấy. Các câu hỏi có thể là: Bài thơ được sáng tác theo thể thơ nào, thể thơ ấu có những điểm gì đáng lưu ý? Các yếu tố hình thức như cần, nhịp, từ ngữ, hình ảnh, kết cấu bài thơ có gì đặc sắc và đã góp phần thể hiện chủ đề như thế nào?

Lập dàn ý

Xây dựng hệ thống luận điểm bằng cách chọn lọc, sắp xếp các ý đã tìm, lần lượt chi tiết hoá từng luận điểm.

Chẳng hạn, nếu chọn phân tích bài thơ Cảnh khuya (Hồ Chí Minh), thân bài có thể triển khai:

1. Nét đặc sắc về chủ đề của bài thơ Cảnh khuya: Kết hợp hài hoà tình yêu thiên nhiên với trách nhiệm của vị lãnh tụ kháng chiến. (Lí lẽ và bằng chứng)

2. Những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của bài thơ Cảnh khuya: Bố cục chặt chẽ, ngôn ngữ hàm súc, bút pháp gợi tả, so sánh độc đáo. (Lí lẽ và bằng chứng)

Một ví dụ khác: Trong ngữ liệu tham khảo, khi phân tích, đánh giá Sức gợi tả của hình ảnh trong bài “Thu điếu”, luận điểm (lí lẽ và bằng chứng) được tác giả sắp xếp như sau:

1. Ấn tượng về không gian “trong” và “lạnh” từ các hình ảnh: ao thu, mặt nước, thuyền câu (ở hai câu đề).

2. Ấn tượng về không gian tĩnh lặng từ các hình ảnh: “sóng biếc”, “lá vàng”.

3. Ấn tượng về không gian cao rộng, thanh vắng từ các hình ảnh “tầng mây”, “ngõ trúc”, các tính từ “lơ lửng … xanh ngắt”, “vắng teo”,…

Bước 3:Viết bài

• Cách thức tiến hành viết bài như đã thực hiện khi viết bài nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một truyện kể (Bài 1).

• Tập trung phân tích, đánh giá sức biểu cảm của các yếu tố hình thức nghệ thuật trong bài thơ.

• Nêu rõ ý kiến nhận xét, đánh giá của người viết về những nét đặc sắc của tác phẩm.

• Làm sáng tỏ các ý kiến nhận xét, đánh giá về chủ đề và nghệ thuật bằng việc trích dẫn các hình ảnh, chi tiết, biện pháp nghệ thuật tiêu biểu trong tác phẩm.

Bước 4: Xem lại và chỉnh sửa

Đọc lại bài viết và tự đánh giá theo bảng kiểm

 Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ - Ngắn nhất Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

Bài viết tham khảo

Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới, đồng thời Bác cũng là một tác gia tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam. Về cuộc đời cách mạng, cả đời Bác chỉ có một mục tiêu duy nhất đó là dành lại độc lập cho đất nước, đó là làm sao để dân hết khổ, cụ già có áo mặc và em thơ có sữa, về sự nghiệp sáng tác Bác là một nhà thơ tài năng với nhiều tác phẩm có giá trị để lại cho đời. Một trong những tác phẩm ấy phải kể đến bài thơ Rằm Tháng Giêng được viết tại chiến khu Việt Bắc năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp lần 2.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với ngôn ngữ trong sáng, giản dị nhưng vô cùng hay,đặc sắc tinh tế.

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;

Trăng là nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân, như Lí Bạch trong Tĩnh Dạ Tứ “ngẩng đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ cố hương” hay vẻ đẹp  “khuôn trăng đầy đặn” của nàng Thúy Vân trong truyện Kiều. Trăng không còn xa lạ với thi nhân và cả bạn đọc nhưng có lẽ ánh trăng trong bài thơ Rằm tháng giêng lại cho ta cái nhìn và cảm nhận khác với vẻ đẹp, ẩn chứa nhiều suy tư sâu sắc. Có lẽ đây là thời gian vào mùa thu, đêm trăng tròn đẹp nhất, ánh trăng sáng tỏ như gương, lan tỏa khắp núi rừng việt bắc. Chính sự giao hòa giữa cảnh vật và con người đã khiến cho Bác nhiều cảm hứng để sáng tác bài thơ này.

Đã có rất nhiều nhà thơ sáng tác bài thơ về trăng, ánh trăng như “ Làn ao lóng lánh bóng trăng loe” trong Thu ẩm của Nguyễn Khuyến. Hay Ánh Trăng của Nguyễn Duy: “Hồi chiến tranh ở rừng/ Vầng trăng thành tri kỉ”. Nhưng bàn về ánh trăng của Bác trong bài thơ Rằm Tháng giêng ta mới thấy được cái đẹp của Trăng tròn đầy sức sống.

Tháng giêng là tháng đầu tiên của mùa xuân, đánh dấu sự khởi đầu của năm mới. tiết trời xuân mát mẻ, không gian xuân tươi xanh đẹp đẽ nhất trong năm với nắng ấm, thời tiết dịu nhẹ, cây cối đâm chồi nảy lộc, nhiều sức sống. Có lẽ vậy mà ánh trăng và ngày rằm cũng rất khác so với những mùa trong năm.  Bác sử dụng hình ảnh “rằm xuân lồng lộng trăng sói” cho thấy ánh trăng rất tỏ, rất sáng, sáng vằng vặc. Ánh trăng sáng đến nỗi bao trùm cả không gian kết hợp với không gian mùa xuân lồng lộng, tươi mới rạng rỡ.

Đặc biệt, tác giả sử dụng từ xuân nhiều đến nỗi câu thơ cảm giác như chỉ thấy mùa xuân, thấy sức sống của mùa xuân. Cả vầng trăng, cả dòng sông, cả bầu trời đều ngập tràn hương vị mùa xuân, hương vị của sự sống, của tình yêu và khát vọng. Đọc hai câu thơ chúng ta hình dung ra một mùa xuân đẹp thế nào. Có lẽ đây là mùa xuân hi vọng với những chiến công sắp tới, có lẽ tâm trạng của Bác lúc này đang rất vui và nhiều niềm tin vào tương lai.

Câu thơ là sự kết hợp hài hòa của yếu tố cổ điển và hiện đại. Trong thơ ca cổ, giang, thủy, nguyệt, thiên vốn rất quen thuộc. Nhưng khi vào thơ Bác thì lại vô cùng hiện đại, sáng tạo, rực rỡ và đầy sức sống.

Phân tích bài thơ rằm tháng giêng – Có mùa xuân nào lại ngập tràn sức sống như mùa xuân, như ánh trăng mùa xuân trong Rằm Tháng Giêng của Bác?. Ta biết, Xuân Diệu từng có mùa xuân trong vội vàng, với xuân hồng mơn mởn muốn cắn vào để ngập tràn trong mùa xuân, trong sự sống. Ta cũng biết có mùa xuân trong Thanh Hải, một mùa xuân nho nhỏ mà tác giả muốn hứng từng giọt để có thể tận hưởng hết vẻ đẹp, sức sống mùa xuân.  Nhưng có lẽ, mùa xuân trong thơ Bác vẫn có sự tươi mới, sáng tạo, dù sử dụng nhiều từ xuân nhưng không nhàm chán, người đọc lại chỉ cảm thấy sự sống và niềm hạnh phúc, khát vọng trong đó. Cách sử dụng từ rất hay, rất khéo, rất hài hòa trong khung cảnh ánh trăng đêm rằm mùa xuân.

Bức tranh thiên nhiên mùa xuân sẽ thật khiếm khuyết nếu thiếu đi hình ảnh con người. Con người chính là sự sống, sự vận động của vũ trụ. Vì vậy, sang hai câu thơ cuối, bức tranh về con người hiện ra thật đẹp, nhiều sức sống.

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Con người trong bức tranh khiến cho bức tranh thiên nhiên càng thêm đẹp và hài hòa hơn. Đêm trăng vằng vặc êm lặng như một bức tranh thủy mặc, bỗng trở nên sống động bởi sự góp mặt của Bác và các đồng chí cách mạng – những con người chèo lái con thuyền cách mạng đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ơ đó, họ cùng nhau bàn bạc việc quân, việc nước, những công việc quan trọng. Lẽ ra, trong khi bàn việc lớn ai cũng phải  đăm chiêu, suy nghĩ, căng thẳng và mệt mỏi. Nhưng không, Bác vẫn rất bình tĩnh,ung dung, lạc quan, thưởng thức trăng. Ánh trăng đêm rằm đẹp như thế, sao có thể bỏ lỡ? Với cách sử dụng nghệ thuật lấy sáng tả đêm, ánh trăng càng sáng chứng tỏ đêm đã về khuya, tĩnh lặng. Bác cùng các đồng chí dường như quên thời gian khi làm việc, quên đi lợi ích riêng và vì lợi ích chung của cả dân tộc.

Khuya đã về, ánh trăng càng sáng hơn. Con thuyền chở đầy trăng là một hình ảnh đẹp, một hình ảnh liên tưởng và lãng mạn. Con thuyền như chở đầy ánh trăng hay hiểu đúng hơn đó là con thuyền cách mạng, đang chở chiến thắng, chở hi vọng, chở niềm tin và tương lai rực rỡ huy  hoàng.

Ánh trăng không chỉ là ánh trăng mà đó là bạn, là kỉ niệm, là tri kỉ, là nhân chứng lịch sử. Ánh trăng đã chứng kiến biết bao nhiêu tình cảm đồng chí đồng đội cùng nhau sát cánh, vượt qua mọi gian khó để có thể vững tay chèo lái con thuyền cách mạng và chiến thắng kẻ thù. Trong bài thơ Đồng Chí – Chính Hữu, ánh trăng cũng biểu hiện cho hòa bình, cho khát vọng với câu thơ “Trăng treo đầu súng”. Hay như trong bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy lại là ánh trăng của tình cảm, của những kỉ niệm, ánh trăng nhắc nhở chúng ta về một thời chiến đấu bên nhau:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình.”     

Có lẽ, bài thơ Rằm Tháng Giêng với ánh trăng tròn đẹp, soi sáng cả bầu trời cũng là ánh trăng của tri kỉ, của những kỉ niệm, của nhân chứng lịch sử. Qua đây ta cũng thấy được phong thái ung dung của Bác trước thời cuộc, trước cuộc chiến. Bác vẫn giữ cho mình một tâm thái nhẹ nhàng, kiên định mà không phải người thường nào cũng làm được trong hoàn cảnh ấy.

Bài thơ khép lại cho ta nhiều cảm xúc và những suy tư trăn trở của bác về đất nước và nhân dân. Vẫn là Bác với tình yêu thiên nhiên tha thiết, đồng thời cũng bộc lộ tình yêu nước sâu sắc. Vẫn là Bác với phong thái ung dung, tự tại trước mọi hoàn cảnh. Bài thơ ngắn gọn, cô đọng nhưng chắt lọc mọi tinh tế, mang đến cho bạn đọc nhiều cảm xúc khác nhau. Không chỉ vậy, nó còn là tâm hồn của chiến sĩ, luôn ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp cứu nước và lạc quan trước cuộc kháng chiến đầy gian khổ.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức ” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 10/2024!