Updated at: 20-03-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Soạn bài Nói và nghe Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức ” chuẩn nhất 03/2024.

Soạn bài Nói và nghe Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức – Mẫu số 1

Giới thiệu bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử.

Chuẩn bị nói

* Đề tài: Giới thiệu bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử.

* Tìm ý và sắp xếp:

– Bài thơ là một bức tranh mùa xuân nơi thôn dã, tất cả đều đậm vẻ xuân, xuân trong cảnh vật và xuân trong lòng người.

– Dấu hiệu báo xuân sang: Làn nắng ửng; Khói mơ; Mái nhà tranh bên giàn thiên lý. -> Thanh tĩnh, bình dị, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương.

– Cảnh vật thôn quê đẫm hơi xuân: Làn mưa xuân tưới thêm sức sống; Cỏ cây xanh tươi” gợn tới trời”; Niềm vui của con người khi xuân đến.

– Ngôn ngữ kết tinh với tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một ” mùa xuân chín” vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.

Chuẩn bị nghe

Một số lưu ý khi nghe người khác nói:

– Chú ý lắng nghe, ghi chép;

– Đưa ra những câu hỏi cần giải đáp.

Thực hành nói và nghe

Học sinh tự thực hành.

Bài nói mẫu

Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là “mùa xuân nho nhỏ”, lúc là “mùa xuân xanh”… và đây Mùa xuân chín nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mặc Tử.

Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:

Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

 Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang

Mở đầu bài thơ cái cái nắng mùa xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, cũng chẳng phải giọt nắng mà là “làn nắng”. Chữ “làn” như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại “ửng” lên trong “khói mơ tan”, cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái “ửng” của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang “tan” ấy. Trong câu thơ này, ngòi bút thi sĩ đã hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, miêu tả cái nắng xuân vừa như có hồn, vừa như có tình chan chứa.

Khung cảnh ấy rất giản dị, chỉ có “đôi mái nhà tranh” hiện lên trong “làn nắng ửng” nhưng nó vẫn gợi lên một sức sống dân dã bình yên hết sức thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên “đôi mái nhà tranh” chút sắc xuân và hương xuân: “Sột soạt gió trêu tà áo biếc”. Cái âm thanh của gió “trêu” tà áo và cái gam màu “biếc” của lá, chính là cái tình xuân. Một chữ “trêu” đáng yêu quá, thân thương quá, như có gì đó mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta. Gió cũng biết kén chọn, không phải áo nào cũng “trêu”, mà phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp.

Tác giả miêu tả từ cái cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới đến cái khái quát: “Trên giàn thiên lý / Bóng xuân sang”. Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, lại mang nỗi vấn vương khi đón “bóng xuân sang”. Cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước đi như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta. Mùa xuân hiện ra trong mắt Hàn Mặc Tử nó nhẹ nhàng, dịu dàng như thế đấy!

Sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà thơ thì ở những câu sau, mùa xuân lại ào đến:

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,

 Bao cô thôn nữ hát trên đồi.

– Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,

 Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi

Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” và ba chữ “gợn tới trời” đã gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la ấy. Gam màu “xanh tươi” đầy sức sống yên bình trong thơ Hàn Mặc Tử cứ “gợn tới trời”, nó trải dài mãi như không dứt, trải mãi, trải mãi và rồi ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, cây cỏ cứ xanh mãi nhưng thứ tình cảm con người đã đến độ chín rồi. “Đám xuân xanh ấy” là hình ảnh ẩn dụ chỉ các cô thôn nữ đang hát, đang “thầm thì với ai ngồi dưới trúc” kia, sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Những cô thôn nữ dần lớn, dần “chín” và đến độ tuổi lấy chồng, theo chồng. Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín…

Mùa xuân chỉ thực sự “chín” khi có con người và có dư âm tiếng hát:

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,

Nghe ra ý vị và thơ ngây

Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu thương quá. Tiếng hát “vắt vẻo” và “thơ ngây” của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ chính là một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này. Câu thơ gợi lên cái “chín” trong tâm hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo”, trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Hai câu thơ vừa tả cảnh vừa tả người, trong cái mùa xuân khi mà vạn vật nở hoa, xanh tươi thì con người đã đến tuổi chín rồi.

Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, “vắt vẻo” hòa nhịp với âm trầm “hổn hển” thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy. Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa “lưng chừng núi”. Dư âm tiếng hát dường như rung lên “vắt vẻo” gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát “hổn hển” được so sánh “với lời của nước mây”, lời của thiên nhiên. Hai tiếng “hổn hển” như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao mà đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả không gian, góp phần làm nên một “mùa xuân chín”. “Vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thì” là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: “Nghe ra ý vị và thơ ngây…”.

Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:

Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

– Chị ấy, năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê; mỗi một nỗi nhớ đều rất bâng khuâng, xao xuyến. Nhà thơ nhớ từng chi tiết, nhớ một công việc cụ thể: “gánh thóc” trong một không gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Những chỉ có “chị ấy” là người đọc không thể biết đó là ai, chỉ có tác giả mới biết để mà “sực nhớ”, mà thầm hỏi, mà man mác sợ “mùa xuân chín” ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là nét thơ của Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử luôn khao khát giao cảm với đời, luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế.

      Mùa xuân chín là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử với cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa kết hợp với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp với con người trẻ trung, hồn nhiên, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.

Trao đổi

Học sinh tự thực hành, trao đổi bài

Soạn bài Nói và nghe Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức – Mẫu số 2

Chuẩn bị nói

Đề tài: Đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Phương pháp giải:

Bài nói sẽ xoay quanh những giá trị của văn bản trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật, có sự mở rộng và tương tác với người nghe.

Có thể sử dụng các từ ngữ then chốt như “Đây là lý do tác phẩm được yêu thích…”, “Có thể nói sức phản kháng mãnh liệt của người dân miền núi phía Bắc được thể hiện…”

Lời giải chi tiết:

Dàn ý chi tiết:

  1. Giới thiệu về tác phẩm:

– Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc và tiêu biểu của Tô Hoài viết về đời sống của người dân miền núi phía Bắc

– Giá trị của truyện không chỉ ở nội dung thể hiện được cảnh sống khốn cùng của người dân miền núi bị áp bức, vùng lên phản kháng mãnh liệt mà còn ở những yếu tố nghệ thuật được sử dụng

  1. Giá trị của truyện
  2. a) Giá trị nội dung

* Giá trị hiện thực:

– Phản ánh chân thực số phận của người dân nghèo miền Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến tàn bạo.

– Thấy rõ sự tàn bạo, độc ác của kẻ thù mà tiêu biểu là cha con nhà thống lí Pá Tra. Chúng đã bóc lột, hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần người dân lao động nghèo, miền núi.

– Thông qua cuộc đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã diễn tả thật sinh động quá trình thức tỉnh vươn lên tìm ánh sáng cách mạng của người dân nghèo Tây Bắc.

* Giá trị nhân đạo:

– Cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ cả về tinh thần và thể xác của những người lao động nghèo khổ như Mị, A Phủ.

– Phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp đáng quý ở Mị, A Phủ. Đó là vẻ đẹp khỏe khoắn, cần cù, yêu tự do và đặc biệt là sức sống tiềm tàng, mãnh liệt ở họ.

– Tố cáo ách thống trị phong kiến miền núi bạo tàn, lạc hậu đã chà đạp và bóc lột con người đến xương tủy.

– Hướng người lao động nghèo khổ đến con đường tươi sáng là tự giải phóng mình, tìm đến cách mạng và cầm súng chiến đấu chống lại kẻ thù.

  1. b) Giá trị nghệ thuật

– Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề…)

– Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.

– Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. Truyện có kết cấu, bố cục chặt chẽ, hợp lý; dẫn dắt những tình tiết đan xen, kết hợp một cách khéo léo, tạo sức lôi cuốn.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất thành công. Mỗi nhân vật được sử dụng bút pháp khác nhau để khắc họa tính cách khác nhau trong khi họ có số phận giống nhau. Tác giả tả ngoại hình, tả tâm lý với dòng kí ức chập chờn, những suy nghĩ thầm lặng để khắc họa nỗi đau khổ và sức sống của Mị, còn A Phủ thì tả ngoại hình, hành động và những mẩu đối thoại ngắn để thấy tính cách giản đơn.

– Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi. Giọng điệu trần thuật có sự pha trộn giữa giọng người kể với giọng nhân vật nên tạo ra chất trữ tình.

  1. Kết luận

Có thể thấy Vợ chồng A Phủ đã trở thành tác phẩm tiêu biểu viết về người dân miền núi phía Bắc trong thời kỳ cách mạng của nhà văn Tô Hoài. Truyện đã thể hiện được cuộc sống khổ cực, bị đẩy đến đường cùng của người dân và cho thấy sức phản kháng mãnh liệt của họ bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật thành công, ngôn ngữ sinh động mang đậm màu sắc miền núi, hình ảnh giàu chất thơ.

Bài nói chi tiết:

Chào cô và các bạn, mình là Minh Trang, hôm nay mình sẽ thuyết trình bài nói về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, mọi người lắng nghe cùng mình nhé!

  Vợ chồng A Phủ được đánh giá là truyện ngắn đặc sắc và tiêu biểu nhất của Tô Hoài viết về đời sống của người dân miền núi phía Bắc. Giá trị của truyện không chỉ ở nội dung thể hiện được cảnh sống khốn cùng của người dân miền núi bị áp bức, vùng lên phản kháng mãnh liệt mà còn ở những yếu tố nghệ thuật được sử dụng một cách khéo léo trong văn bản.

Về nội dung, tác phẩm có hai khía cạnh chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Ở giá trị hiện thực, tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực số phận của người dân nghèo miền Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến tàn bạo. Sự vạch trần của Tô Hoài giúp người đọc thấy rõ sự tàn bạo, độc ác của bọn chúa đất áp bức mà tiêu biểu là cha con nhà thống lí Pá Tra. Chúng đã bóc lột, hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần người dân lao động nghèo, miền núi. Bên cạnh đó, thông qua cuộc đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã diễn tả thật sinh động quá trình thức tỉnh vươn lên tìm ánh sáng cách mạng của người dân nghèo Tây Bắc.

Tác phẩm còn cho thấy giá trị nhân đạo và tấm lòng của nhà văn Tô Hoài qua cái nhìn cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ cả về tinh thần lẫn thể xác của những người lao động nghèo khổ như Mị, A Phủ. Nhà văn phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp đáng quý ở Mị, A Phủ. Đó là vẻ đẹp khỏe khoắn, cần cù, yêu tự do và đặc biệt là sức sống tiềm tàng, mãnh liệt ở họ. Tiếng nói tố cáo ách thống trị phong kiến miền núi bạo tàn, lạc hậu đã chà đạp và bóc lột con người đến xương tủy cũng được nêu cao, thể hiện mạnh mẽ trong văn bản. Nhà văn còn đưa ra lối thoát cho nhân vật bằng cách hướng những con người lao động nghèo khổ đang bị chà đạp, dồn nén đến con đường tươi sáng là tự giải phóng mình, tìm đến cách mạng và cầm súng chiến đấu chống lại kẻ thù.

Bên cạnh những giá trị hiện thực và nhân đạo ấy, nghệ thuật được sử dụng trong văn bản cũng là một yếu tố làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề…). Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ. Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. Truyện có kết cấu, bố cục chặt chẽ, hợp lý; dẫn dắt những tình tiết đan xen, kết hợp một cách khéo léo, tạo sức lôi cuốn. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất thành công, mỗi nhân vật được sử dụng một bút pháp riêng để khắc họa tính dù họ đều có chung số phận và hoàn cảnh sống. Cách miêu tả ngoại hình, tâm lý cũng được thể hiện một cách tinh tế, với dòng kí ức chập chờn, những suy nghĩ thầm lặng để khắc họa nỗi đau khổ và sức sống của Mị, còn A Phủ thì tả ngoại hình, hành động và những mẩu đối thoại ngắn để thấy tính cách giản đơn. Ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. Giọng điệu trần thuật có sự pha trộn giữa giọng người kể với giọng nhân vật nên tạo ra chất trữ tình.

Có thể thấy Vợ chồng A Phủ đã trở thành tác phẩm tiêu biểu viết về người dân miền núi phía Bắc trong thời kỳ cách mạng của nhà văn Tô Hoài. Truyện đã thể hiện được cuộc sống khổ cực, bị đẩy đến đường cùng của người dân và cho thấy sức phản kháng mãnh liệt của họ bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật thành công, ngôn ngữ sinh động mang đậm màu sắc miền núi, hình ảnh giàu chất thơ.

Bài thuyết trình về giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của mình đến đây là kết thúc, cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe. Mọi người hãy đưa ra góp ý và nhận xét cho mình nhé!

Chuẩn bị nghe

Người nghe nên tìm hiểu trước về vấn đề mà người nói đưa ra

Nên tập trung lắng nghe, nắm bắt keyword

Nhận xét về nội dung bài nói và cả phong cách của người thuyết trình (giọng điệu, ngôn ngữ)

Có thể nêu câu hỏi sau khi người nói thuyết trình xong nếu có thắc mắc

Thực hành nói và nghe

Học sinh tự thực hành

Trao đổi

Học sinh tự thực hành

Soạn bài Nói và nghe Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức – Mẫu số 3

I. Giới Thiệu, Đánh Giá Về Nội Dung Và Nghệ Thuật Thu Hứng

1. Dàn ý: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật “Thu hứng”.
a. Mở đầu:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
– Nêu nội dung khái quát cần giới thiệu, đánh giá: nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
b. Nội dung chính:
– Mạch cảm xúc của bài thơ: đi từ cảm xúc trước khung cảnh thiên nhiên đến cảm xúc về khung cảnh sinh hoạt của con người.
– Nội dung bài thơ: nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.
– Hình thức nghệ thuật: thể thơ, nhịp thơ, hình ảnh thơ,…
c. Kết thúc:
– Khẳng định lại giá trị về nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ.
2. Bài nói mẫu: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật Thu hứng.

em chào cô và các bạn. Em tên là Hiếu. Hôm nay, em xin được trình bày bài nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật “Thu hứng” – Đỗ Phủ.
Trong những ngày thu năm 766, nhà thơ Đỗ Phủ đã sáng tác bài thơ “Thu hứng” (Bài 1). Đây là bài đầu tiên nằm trong chùm tám bài thơ thất ngôn bát cú có nhan đề chung là “Thu hứng”. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của con người khi thu đến, đồng thời thể hiện nỗi nhớ quê hương sâu đậm của Đỗ Phủ.
Các bạn ạ, khi đọc bài thơ này, chúng ta dễ dàng thấy được mạch cảm xúc của bài thơ: đi từ tâm trạng trước không gian thiên nhiên đến cảm nhận về khung cảnh sinh hoạt của con người.
Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ Đỗ Phủ đã phác họa bức tranh thiên nhiên mùa thu ảm đạm, hắt hiu. Không gian rộng lớn của rừng phong được bao trùm bởi làn sương trắng xóa “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm”. Xa xa kia, núi Vu, kẽm Vu với những vách núi cao lớn đã thu hút tầm nhìn của nhân vật trữ tình. Hai địa danh này dường như cũng u ám, mờ mịt bởi làn sương dày đặc “Núi vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt”. Từ láy “hiu hắt” càng làm cho không gian núi rừng trở nên hoang sơ, lạnh lẽo. Ở hai câu thơ tiếp theo “Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng/ Tái thượng phong vân tiếp địa âm”, nhà thơ đã chuyển tầm nhìn của mình xuống dòng sông. Giữa lòng sông, sóng tung những dòng nước cuồn cuộn như muốn bao trùm lấy bầu trời. Đặc biệt, gió mây ở trên cao như đang sà xuống, làm cho mặt đất càng thêm âm u. Tất cả các cảnh vật với những sắc thái khác nhau đã tạo nên bức tranh thiên nhiên mùa thu tiêu điều, hiu hắt.

Tiếp đến, ở bốn câu thơ cuối, Đỗ Phủ khéo léo bộc lộ nỗi nhớ quê hương da diết của mình. Đứng trước khung cảnh sinh hoạt của con người, nhà thơ không thể ngăn nổi nỗi xúc động. Hai lần khóm cúc nở hoa cũng là hai năm xa nhà của Đỗ Phủ “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ”. Không chỉ vậy, hình ảnh con thuyền lẻ loi như gợi ra lênh đênh của kiếp người “Cô chu nhất hệ cố viên tâm”. Câu thơ cũng đã làm nổi bật hoàn cảnh cô đơn của tác giả nơi đất khách. Nỗi nhớ quê nhà càng thêm da diết khi nhà thơ nghe thấy âm thanh rộn ràng của dao thước may quần áo mùa rét và sự dồn dập của tiếng chày nện vải.
Qua bài thơ, nhà thơ đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người trong tiết trời thu ảm đạm, hắt hiu. Đồng thời, từ cảnh vật ấy, nhà thơ khéo léo bày tỏ nỗi nhớ thương quê nhà của mình.
Bên cạnh những thành công về nội dung, chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp trong hình thức nghệ thuật của “Thu hứng” (Bài 1). Bài thơ sử dụng ngôn từ hàm súc, giàu sức gợi. Ngoài ra, cách gieo vần, ngắt nhịp, phép đối cùng lối viết tả ít gợi nhiều đã khơi gợi nỗi nhớ quê nhà một cách tinh tế của nhà thơ.
Trên đây là bài trình bày của em về Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật “Thu hứng” – Đỗ Phủ. Em xin cảm ơn cô và các bạn đã theo dõi, lắng nghe!
Soan bai Truyen ve cac vi than sang tao the gioi

Văn mẫu Nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ, Ngữ văn 10 KNTT

II. Giới Thiệu, Đánh Giá Về Nội Dung Và Nghệ Thuật Mùa Xuân Chín

1. Dàn ý: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật Mùa xuân chín.
a. Mở đầu:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
– Nêu nội dung khái quát cần giới thiệu, đánh giá: nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
b. Nội dung chính:
– Chủ đề của bài thơ: tình yêu thiên nhiên cùng khát khao giao cảm với đời, với người của Hàn Mặc Tử.
+ Nhan đề bài thơ khiến người đọc hình dung về mùa xuân đang vào giai đoạn tươi đẹp và tràn đầy sức sống.
+ Mạch cảm xúc: đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
– Hình thức nghệ thuật: ngôn ngữ, hình ảnh thơ, các biện pháp tu từ…
c. Kết thúc:
– Khẳng định lại giá trị về nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ.
2. Bài nói mẫu: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật Mùa xuân chín.
Em chào cô và các bạn. Em xin tự giới thiệu, em tên là Hà Anh. Sau đây, em xin trình bày những ý kiến của mình về bài nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật “Mùa xuân chín”.
Các bạn ơi, chắc hẳn mỗi người chúng ta đã từng đọc hoặc học về một bài thơ viết về mùa xuân đúng không nào? Mình nhớ chúng ta đã từng học đoạn trích “Cảnh ngày xuân” (trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du) và bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. Hôm nay, mình sẽ giới thiệu tới các bạn một bài thơ cũng viết về mùa xuân, nằm trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 – Kết nối tri thức với cuộc sống. Đó là bài thơ “Mùa xuân chín” của tác giả Hàn Mặc Tử

Đọc nhan đề bài thơ, mình thấy sự kết hợp tinh tế giữa danh từ “mùa xuân” với động từ chỉ trạng thái “chín”. Nhan đề ấy đã khiến mình hình dung về khung cảnh mùa xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh. Mạch cảm xúc ấy được khắc họa rõ nét qua các hình ảnh thơ và ngôn ngữ tinh tế.
Đầu tiên, ở khổ thơ thứ nhất, hình ảnh thơ “làn nắng ửng”, “khói mờ tan”, “bóng xuân sang” đã gợi ra khung cảnh mùa xuân ấm áp. Biện pháp nhân hóa “gió trêu tà áo biếc” kết hợp với từ láy “sột soạt” và phép đảo ngữ “Sột soạt gió trêu tà áo biếc” cho thấy những tinh tế trong quan sát của nhà thơ khi xuân đến. Ngọn gió không còn là vật vô tri vô giác mà trở nên sống động với âm thanh tình tứ, đang trêu đùa tà áo biếc. Ngoài ra, biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “bóng xuân sang” còn góp phần miêu tả dáng điệu nhẹ nhàng của mùa xuân.
Trên nền thiên nhiên mùa xuân căng tràn sức sống còn xuất hiện hình ảnh con người “Bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Lắng nghe tiếng hát ấy, nhân vật trữ tình càng thêm tiếc nuối trước độ xuân thì của người con gái “- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc cuộc chơi”. Biện pháp ẩn dụ “xuân xanh” kết hợp cùng các từ láy “hổn hển”, “vắt vẻo” và biện pháp nhân hóa “tiếng ca vắt vẻo”, so sánh “hổn hển như lời nước mây” đã mang đến cho người đọc vẻ duyên dáng của người con gái. Vẻ đẹp ấy hòa trong tiếng hát trầm bổng, thiết tha như tô đậm khung cảnh thiên nhiên căng tràn sức sống.
Đặc biệt, trong khổ thơ cuối, mình cảm nhận được tâm trạng chùng xuống của nhân vật trữ tình – “khách xa”. Từ láy “bâng khuâng” gợi ra cảm xúc lâng lâng, xen chút buồn tiếc nuối trong lòng. Nhưng rồi, nhân vật trữ tình lại có sự chuyển biến đột ngột trong cảm xúc khi “sực” nhớ làng và “- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc theo bờ sông trắng nắng chang chang?”. Câu hỏi cuối bài thơ cùng đại từ nhân xưng không cụ thể “chị ấy” đã phác họa nỗi niềm cô đơn, hụt hẫng cùng tấm lòng nhớ quê hương của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Qua bài thơ “Mùa xuân chín”, mình thấy được nét độc đáo trong hình thức nghệ thuật như cách tổ chức ngôn ngữ và hình ảnh thơ độc đáo, kết hợp với nhiều biện pháp nhân hóa, cách gieo vần chân (“vàng-sang, “trời-chơi”,…). Bên cạnh đó, bài thơ đã vẽ nên bức tranh mùa xuân từ những chất liệu như âm thanh, hình ảnh, màu sắc sống động của thiên nhiên và con người. Đọc bài thơ, chúng ta không khỏi rung động trước tình yêu thiên nhiên tha thiết cùng khát khao giao cảm với đời, với người của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Bài trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.

III. Giới Thiệu, Đánh Giá Về Nội Dung Và Nghệ Thuật Một Bài Thơ Hai-Cư Nhật Bản.

1. Dàn ý: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật một bài thơ hai-cư Nhật Bản.
a. Mở đầu
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
– Nêu nội dung khái quát cần giới thiệu, đánh giá: nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
b. Nội dung chính:
– Nội dung bài thơ: tâm trạng của con người trong cảnh chiều thu:
+ Hình ảnh trung tâm: “con quạ”.
+ Không gian: trên cành cây khô.
+ Thời gian: chiều thu.
– Hình thức nghệ thuật:
+ Dung lượng ngắn.
+ Ngôn ngữ cô đọng, hàm súc.
+ Hình ảnh thơ gần gũi.
c. Kết thúc:
– Khẳng định lại giá trị về nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ.
2. Bài nói mẫu: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật một bài thơ hai-cư Nhật Bản.
Chào cô và các bạn học sinh lớp 10A1, em tên là Đại Dương. Hôm nay, em xin trình bày bài nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật một bài thơ hai-cư Nhật Bản.
Các bạn ơi, không biết trong ba bài thơ thuộc “Chùm thơ hai-cư Nhật Bản” được học ở chương trình Ngữ văn 10 – Kết nối tri thức thì các bạn thích bài thơ nào nhất? Đối với mình, mình ấn tượng với bài thơ đầu tiên. Đây là bài thơ do nhà thơ Ba-sô sáng tác.
Theo mình tìm hiểu, Ba-sô (1644-1694) là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Nhật. Ông có đóng góp lớn trong việc hoàn thiện thơ hai-cư. Bài thơ hai-cư của ông mà mình muốn giới thiệu tới mọi người hết sức ngắn gọn:
“Trên cành khô
cánh quạ đậu
chiều thu.”
Có thể thấy, khi đọc bài thơ, các bạn dễ dàng phát hiện ra hình ảnh trung tâm của bài thơ là “con quạ”. Con quạ này đang đậu ở một cành cây khô. Cụm từ “trên cành khô” gợi cho chúng ta không khí man mác buồn của trời thu. Cảnh vật dường như đang lụi tàn, héo mòn theo thời gian. Bức tranh mùa thu trở nên tĩnh lặng, chỉ có một màu ảm đạm, u ám và thiếu sức sống. Trong buổi chiều thu ấy, đứng trước khung cảnh thiên nhiên như vậy, con người thêm cô độc, lẻ loi mà lâng lâng cảm xúc trong lòng.
Bên cạnh đặc sắc về nội dung, mình còn ấn tượng với những độc đáo trong hình thức nghệ thuật của bài thơ. Có thể nói, đây là lần đầu tiên mình được đọc và học một bài thơ ngắn như vậy. Chắc hẳn mọi người cũng giống như mình đúng không? Tuy dung lượng bài thơ khá ngắn, chỉ có ba câu, mỗi câu khoảng 2-3 tiếng nhưng đã làm nổi bật tâm trạng của nhà thơ. Nếu các bạn để ý thì sẽ phát hiện ra các chữ đầu dòng ở câu thơ 2, 3 không được viết hoa. Điều này giúp bài thơ giống như một câu chuyện kể, một lời bộc bạch tâm sự của con người. Ngoài ra, hình ảnh thơ cũng rất gần gũi, thân thuộc với mỗi chúng ta. Hình ảnh “cành khô”, “con quạ” mang đậm tính tượng trưng cho thiên nhiên mùa thu. Nét độc đáo về nghệ thuật còn được thể hiện trong việc tác giả sử dụng ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc. Bài thơ chỉ với 8 tiếng nhưng đã gợi cho người đọc khung cảnh mùa thu và bức tranh tâm trạng của con người.
Có thể nói, đọc bài thơ hai-cư của Ba-sô đã giúp mình tiếp thu thêm kiến thức về thể thơ hai-cư độc đáo của Nhật Bản. Từ đây, mình sẽ chăm chỉ đọc sách và bồi dưỡng tri thức để khám phá nhiều điều thú vị từ nền văn học của các quốc gia khác.
Như vậy, bài thuyết trình của em về: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật một bài thơ hai-cư Nhật Bản đến đây là kết thúc. Em rất mong sẽ nhận được lời nhận xét của cô và những ý kiến đóng góp của các bạn để bài thuyết trình ngày càng hoàn thiện.

Soạn bài Nói và nghe Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức – Mẫu số 4

 Hướng dẫn:

Bước 1: Chuẩn bị nói

– Xác định đề tài: Đề tài của bài nói là bài thơ mà bạn chọn để giới thiệu. Bạn có thể sử dụng bài thơ mình đã thực hiện bài viết. Nếu chọn bài thơ khác, bạn sử dụng tiêu chí lựa chọn như với bài viết.

– Việc xác định mục đích nói, đối tượng người nghe, không gian và thời gian nói: tìm ý, lập dàn ý và luyện tập: bạn có thể thực hiện như đã tiến hành khi giới thiệu một truyện kể (Bài 1).

QUẢNG CÁO

Bước 2: Trình bày bài nói

Bạn thực hiện bước này như khi trình bày bài nói giói thiệu, đánh giá nội dung, nghệ thuật của một truyện kể. Những lưu ý:

  • Thể hiện được cảm nhận riêng của mình về bài thơ.
  • Giọng đọc, giọng nói cần truyền cảm, nhất là khi đọc bài thơ và các trích dẫn thơ.

* Bài nói mẫu tham khảo:

Kính thưa cô giáo và các bạn, em tên là…..học sinh lớp………

Sau đây em xin trình bày bài nói của mình về đánh giá nội dung, nghệ thuật của bài thơ “Rằm tháng giêng”Mời cô và các bạn lắng nghe.

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ tài ba vĩ đại của dân tộc Việt Nam, lại vừa là một nhà thơ xuất sắc với nhiều tác phẩm có giá trị để lại cho đời. Một trong những tác phẩm ấy phải kể đến bài thơ Rằm Tháng Giêng.  Bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên vào đêm trăng mùa xuân, bên cạnh đó là hình ảnh người chiến sĩ ung dung, rạng ngời, một chiến sĩ cộng sản luôn hết mình vì nhân dân, vì đất nước.

Mở đầu bài thơ tác giả miêu tả bức tranh thiên nhiên thật đẹp:

“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

QUẢNG CÁO

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”.

Bức tranh thiên nhiên với không gian và thời gian tràn ngập vẻ đẹp và sức xuân. “Rằm xuân” là lúc mặt trăng tròn đầy, ánh trăng bao trùm, soi chiếu tỏ vạn vật trong đêm Rằm. Góc nhìn của tác giả mở rộng ra từ mặt sông mở ra lên trời và ánh trăng. Chỉ một nét chấm phá mở ra không gian bao la vô tận vừa có chiều cao của ánh trăng vừa có chiều rộng của sông nước tiếp giáp với bầu trời.

Sau hai câu thơ tả cảnh, tiếp đến là hai câu thơ giàu sức gợi hình ảnh:

 “Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Trong khung cảnh nên thơ ấy, bao la ấy, Người vẫn không quên nhiệm vụ cao cả, không quên được việc quân đang chờ. Khuya rồi mà trăng vẫn ngân nga đầy thuyền. Trăng tràn ngập khắp nơi, tràn cả không gian rộng lớn, vẫn chờ, vẫn đợi cho dù Bác có bận đến đâu. Thuyền lờ lững xuôi dòng trong đêm có trăng đồng hành như một người bạn chung thủy sâu sắc. Ở đây ta thấy được sự giao cảm giữa thiên nhiên với con người. Điều đó làm cho bức tranh thơ trở nên có hơi thở, có linh hồn. Đặt trong hoàn cảnh đất nước còn khó khăn gian khổ, ta vẫn thấy được phong thái ung dung, một tinh thần lạc quan của vị lãnh tụ vĩ đại.

Bằng thể thơ lục bát, hình ảnh thơ cổ điển (trăng) nhưng cũng hết sức gần gũi, bình dị cho người đọc thấy được bức tranh thiên nhiên Tây Bắc khoáng đạt, nên thơ và tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước cũng như phong thái ung dung, lạc quan của Bác. Qua đây chúng ta cũng hiểu thêm tấm lòng yêu dân, yêu nước, yêu thiên nhiên sâu sắc của vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già kính yêu của dân tộc.

Trên đây là bài phát biểu của em về nội dung, nghệ thuật về bài thơ “Rằm tháng giêng”. Cảm ơn cô và cả lớp đã lắng nghe. Mình rất vui khi được nhận những nhận xét và góp ý từ mọi người.

Bước 3: Trao đổi, đánh giá

Trao đổi: Khi trao đổi với người nghe, bạn cần:

– Lắng nghe với thái độ cầu thị và ghi chép tóm lược ý kiến, những vấn đề cần trao đổi thêm.

– Dành thời gian phù hợp để trao đổi những nội dung cần thiết.

Đánh giá

– Trong vai trò người nói cũng như vai trò người nghe, bạn có thể đánh giá phần trình bày dựa vào bảng kiểm dưới đây.

Nội dung kiểm traChưa đạtĐạt
Mở đầuLời chào ban đầu và tự giới thiệu (nếu cần).  
Giới thiệu bài thơ: tên tác phẩm, thể loại, tác giả (nếu có)  
Nêu khái quát nội dung bài nói (có thể điểm qua các phần/ ý chính)  
Nội dung chínhTrình bày ý kiến đánh giá về nội dung của bài thơ.  
– Trình bày ý kiến đánh giá về nghệ thuật của bài thơ.

– Phân tích tác dụng của một số yếu tố hình thức nghệ thuật trong việc thể hiện chủ đề, cảm hứng chủ đạo của bài thơ.

– Thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận của người nói về bài thơ.

– Có lí lẽ xác đáng, bằng chứng tin cậy lấy từ bài thơ.

  
Kết thúcTóm tắt được nội dung trình bày về bài thơ. Nêu vấn đề thảo luận hoặc mời gọi sự phản hồi từ phía người nghe.  
– Cảm ơn và chào kết thúc.  
Kĩ năng trình bày, tương tác với người ngheBố cục bài nói rõ ràng, các ý kiến được sắp xếp hợp lí.

Tương tác tích cực với người nghe trong suốt quá trình nói.

Diễn đạt rõ ràng, gãy gọn, đáp ứng nhu cầu của bài nói.

Kết hợp sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ để làm rõ nội dung trình bày.

Phản hồi thỏa đáng những câu hỏi, ý kiến người nghe.

  

Soạn bài Nói và nghe Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức – Mẫu số 5

Thiên nhiên và con người trong bài thơ Cảnh khuya (Hồ Chí Minh).

Bài làm:

Nói

– Chuẩn bị dàn ý trước khi nói.

– Nói ở mức độ vừa phải, rõ ràng, rành mạch,

– Mắt hương về người nghe.

– Tôn trọng, tiếp thu, lắng nghe ý kiến của người khác.

Bài nói chi tiết

Chào thầy/cô cùng toàn thể các bạn. Tôi tên Nguyễn Văn A. Sau đây tôi xin thuyết trình về chủ đề thiên nhiên và con người trong bài thơ Cảnh khuya (Hồ Chí Minh).

Hồ Chí Minh một vị lãnh tụ tài hoa của dân tộc Việt Nam, bên cạnh đó với tài năng của mình người đã sáng tác nên những áng thơ văn vô cùng nổi bật. Trong đó bài thơ Cảnh Khuya là một tác phẩm thơ văn được viết trong thời kì kháng chiến tiêu biểu. Bài thơ là sự miêu tả bức tranh thiên nhiên vào đêm trăng đẹp, qua đó cho ta thấy tâm tư, tình cảm của một chiến sĩ cộng sản luôn hết mình vì nhân dân, vì đất nước.

Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên thật đẹp:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”

Với giọng thơ bình dị, vẻ đẹp của cảnh vật hiện lên trong thơ Hồ Chí Minh vừa có ánh sáng vừa có âm thanh. Thiên nhiên, cảnh núi rừng Việt Bắc vắng vẻ nhưng vô cùng huyền ảo và thơ mộng. Với việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của “tiếng suối trong”. Vào ban đêm, chỉ với ánh trăng mà nhà thơ cũng có thể thấy được sự trong veo của nước suối. Ánh trăng đêm quả thật rất đẹp, rất sáng. Ánh trăng còn nổi bật hơn ở hình ảnh “trăng lồng cổ thụ” ánh trăng sáng bao quát cả một cây đại thụ lớn kết hợp với tiếng tiếng suối thanh trong như điệu nhạc êm, hát mãi không ngừng.

Chỉ với hai câu thơ mở đầu mà bức tranh phong cảnh hiện lên vô cùng sinh động, với thật nhiều màu sắc.

Sau hai câu thơ tả cảnh, tiếp đến câu thơ thứ ba là sự khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình vô cùng tự nhiên.

“Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,”

Cảnh đêm trăng tuyệt đẹp như bức họa thế kia thì làm sao mà ngủ được. Phải chăng Người đang thao thức về một đêm trăng sáng với âm thanh vang vọng trong trẻo của núi rừng.

“Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

Câu thơ cuối càng làm nổi rõ hơn nguyên nhân không ngủ được của Bác đó là “lo nỗi nước nhà”. Câu thơ cuối nêu lên cái thực tế của nhân vật trữ tình và mở sâu và hiện thực tâm trạng của nhà thơ. Sự độc đáo của thơ Hồ Chí Minh là bài thơ kết thúc với một lời giải thích, vô cùng thẳng thắn và ngắn gọn nhưng cũng rất đáng quý trọng. Nghệ thuật ấy vô cùng chân thực, giản dị, đi thẳng vào lòng người nên cũng là nghệ thuật cao quí, tinh vi nhất.

Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Bài thơ Cảnh Khuya của Hồ Chí Minh miêu tả bức tranh đêm khuya thật đẹp, thật thơ mộng. Nhưng sâu hơn nữa là thể hiện tâm tư, tình cảm của một người chiến sĩ cách mạng luôn hết lòng vì nhân dân, lo cho dân, cho nước.

Nghe

Bước 1: Chuẩn bị nghe

– Tìm hiểu về các kiến thức liên quan đến truyện kể sẽ được nghe.

– Chuẩn bị giấy, bút để ghi chép.

Bước 2: Lắng nghe và ghi chép

– Tập trung lắng nghe bài đánh giá.

– Ghi chép ngay những thắc mắc, những câu hỏi muốn trao đổi với người nói về bài đánh giá.

Bước 3: Trao đổi, nhận xét, đánh giá

– Gửi lời cảm ơn trước khi muốn trao đổi với người nói.

– Đưa ra những lời nhận xét, thắc mặc, trao đổi của mình với người nói bằng một giọng điệu nhẹ nhàng và thái độ tôn trọng.

– Chú ý: không nên quá áp đặt quan điểm cá nhân, cái nhìn chủ quan của mình lên bài đánh giá của người

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách ” Soạn bài Nói và nghe Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Kết nối tri thức ” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

 

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 03/2024!