Updated at: 14-03-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều” chuẩn nhất 12/2024.

Đề bài: Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều

phan tich hinh anh thien nhien trong truyen kieu

Dàn ý: Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều

1. Mở bài

– Giới thiệu vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài

– Thiên nhiên tràn đầy sức sống trong Cảnh ngày xuân

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

+ Cảnh vật đơn giản với cỏ xanh, hoa trắng nhưng hiện lên không gian khoáng đạt, rộng lớn, tươi đẹp

+ Hình ảnh hoa lê gợi lên sự mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết kết tinh của đất trời được điểm xuyết trong không gian

=> Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên tuyệt bút của Nguyễn Du giàu chất tạo hình, ngôn ngữ biểu cảm. Từ đó thấy tâm hồn con người tươi mới, phấn chấn qua cái nhìn về thiên nhiên trong trẻo tươi vui.

– Thiên nhiên thơ mộng, thắm đượm tình người:

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

– Thiên nhiên thơ mộng, hữu tình khi Kiều chia tay Kim Trọng:

Dưới cầu nước chảy trong veo

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thước tha

– Thiên nhiên chứng kiển buổi thề non hẹn biểu của Kiều và Kim Trọng:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai mặt một lời song song

– Thiên nhiên là nơi Kiều gửi gắm nỗi niềm tâm sự:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

=> Thiên nhiên trong Truyện Kiều vừa làm nền, vừa như một nhân vật mang nỗi niềm, tâm sự, gắn bó.

3. Thân bài

– Nêu cảm nhận chung.

Bài Mẫu số1: Phân Tích Hình Ảnh Thiên Nhiên Trong Truyện Kiều chuẩn nhất

Thiên nhiên vốn không phải là chủ đề riêng của Nguyễn Du mà nó là chủ đề chung của thi sĩ muôn đời. Nhưng thiên nhiên đi vào “Truyện Kiều”, đi vào tâm hồn đại thi hào Nguyễn Du lại có những nét rất riêng. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du chỉ tạo cơ hội cho thiên nhiên xuất hiện khi cần tạo nền cảnh cho một cuộc gặp gỡ, hẹn hò hoặc khi bộc lộ giúp những cảm nhận tâm trạng của các nhân vật về thời gian, không gian, cảnh ngộ,…

Trong tiết thanh minh trong sáng, khắp nơi nô nức đi tảo mộ, du xuân, thiên nhiên ùa vào lòng người với những nét màu thật sáng đẹp và dồi dào sức sống:

     “Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Một mùa xuân với màu xanh rợn ngợp của cỏ non, với một vài bông lê điểm xuyết. Chỉ với đôi nét chấm phá, qua ngòi bút tài hoa của nhà nghệ sĩ, cả một bức tranh xuân bừng sáng hiện lên. Trong cái không gian bát ngát màu xanh của cỏ mùa xuân, điểm vào một vài bông hoa lê trắng muốt, tinh khiết, đưa lòng người trong cảnh bay bay nhè nhẹ, lâng lâng.

Cảnh như đang nâng nhẹ bước chân ba chị em Thuý Kiều :

“Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Cảnh ở đây thật thơ mộng và thắm đượm tình người. Một dòng nước, một nhịp cầu nho nhỏ cũng đủ gợi lên những nét thanh thanh của phong cảnh.

Thiên nhiên càng trở nên hữu tình, thơ mộng khi Kiều chia tay với Kim Trọng:

“Dưới cầu nước chảy trong veo,

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”

Nguyễn Du không cần giá vẽ nhưng đã dựng nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp và hài hoà. Dưới cầu là dòng nước êm đềm chảy, bên cầu là hình ảnh “tơ liễu bóng chiều thướt tha”. Cảnh vật gắn bó nhau, tôn nhau lên, chiếc cầu nhỏ như làm đẹp cho dòng nước và dòng nước làm cho chiếc cầu càng trở nên xinh xắn, đáng yêu hơn. Ở đây, Nguyễn Du có nói đến hình ảnh “bóng chiều” nhưng bóng chiều không gợi nỗi buồn mà đẹp một cách lạ thường.

Phải chăng lúc này là lúc Kim Trọng chia tay với Thuý Kiều, tâm hồn Kiều hồn nhiên trong sáng nên cảnh cũng mang những nét hồn nhiên trong sáng của Kiều. Cảnh thiên nhiên thấm đượm hồn người, tình người, mang nỗi niềm của con người. Thiên nhiên còn trở thành nhân vật thứ ba chứng kiến buổi thề non hẹn biển giữa Kiều với chàng Kim:

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai mặt một lời song song”

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời” kia như là một nhân chứng cho mối tình trong sáng, đẹp tươi của đôi trai tài, gái sắc. Trong “Truyện Kiều”, đã hơn bốn mươi lanà Nguyễn Du nhắc đến ánh trăng nhưng có lẽ ánh trăng trong đêm thề nguyền này đã đi vào tiềm thức, đã trở nên gắn bó nhất với Thuý Kiều. Trăng là người làm chứng cho mối tình của nàng với chàng Kim và cũng là người bạn gần gũi, gắn bó với nàng trong mọi hoàn cảnh:

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung”

Trước không gian rộng lớn, rợn ngợp của lầu Ngưng Bích, Kiều như một tấm thân bơ vơ, lạc lỏng. Nàng tìm đến với thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm bầu bạn. Dường như Nguyễn Du đã kéo vầng trăng từ xa vời vợi kia gần nàng Kiều hơn. Trăng như người bạn tri âm tri kỷ đang san sẻ cùng tâm trạng của nàng:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Một cánh buồm nhỏ bé trước mặt biển bao la trong cảnh hoàng hôn cũng đủ gợi gợi lên trong lòng người đọc thấm thía nỗi buồn của nàng Kiều. Đó là nỗi buồn lẻ loi, cô đơn, lạc lỏng bơ vơ nơi chân trời góc bể của người con gái không biết bấu víu vào đâu:

“Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Nếu trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã từng viết :

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Thì quả là không sai. Nỗi buồn trong Kiều thật mênh mang, rợn ngợp, một nỗi buồn khiến cho lòng người khô héo. “Nội cỏ” ở đây cũng “dầu dầu” cũng mang tâm sự nỗi lòng của Kiều. Đó là nỗi buồn vì cuộc đời đang bị xô đâỷ, vùi dập. Nỗi buồn đó cứ dấy lên mãi, ứ đọng mãi, khơi gợi nỗi niềm tủi nhục đau thương đến ứa nước mắt. âm thanh của tiếng sóng hay cũng chính là những tai hoạ, những khó khăn đang rình rập, có nguy cơ ập xuống đầu Kiều, choáng ngợp khắp tâm trí Kiều. Cảnh ở đây vừa mênh mang, rợn ngợp vừa mang tâm sự u hoài của lòng người.

Có thể nói thiên nhiên luôn là hình ảnh thân gần, gắn bó với mỗi chúng ta, nó không chỉ là khung cảnh gần gũi trong cuộc sống đời thường mà đã đi vào văn học, cụ thể đi vào “Truyện Kiều”. Nguyễn Du đã mượn thiên nhiên làm nền cho truyện và cũng biến thiên nhiên thành một nhân vật, mang tâm sự, nỗi lòng của con người. Ngòi bút thơ của Nguyễn Du tài hoa, điêu luyện khi dựng lên hình ảnh thiên nhiên .Thiên nhiên mãi là hình ảnh, là nhân vật không thể thiếu trong “Truyện Kiều”. “Truyện Kiều” mãi mãi là viên ngọc quý, là cuốn sách gối đầu giường của mõi chúng ta.

Nhà thơ Sông Lam, Núi Hồng đã ra đi, nhưng “Truyện Kiều” mãi mãi là dòng sông mát lành chảy qua tâm hồn chúng ta để lại một lớp phù sa màu mỡ. Trên lớp phù sa màu mỡ đó, ta luôn luôn gặp hình ảnh tươi đẹp, sống động, mang đậm tình người của thiên nhiên.

Bài Mẫu số2: Phân Tích Hình Ảnh Thiên Nhiên Trong Truyện Kiều chuẩn nhất

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những kiệt tác của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm không chỉ tái hiện cuộc đời, số phận của nhân vật chính Thúy Kiều mà còn miêu tả bức tranh thiên nhiên mang những màu sắc khác nhau. Bức tranh thiên nhiên làm nền cho bức tranh tâm trạng và trở thành đối tượng để tác giả gửi gắm những tâm tư, tình cảm của mình.

Tác phẩm truyện thơ Nôm này có độ dài 3254 câu thơ lục bát, số câu thơ miêu tả hình ảnh thiên nhiên chỉ chiếm một dung lượng rất nhỏ nhưng chúng lại có ý nghĩa to lớn góp phần vào sự thành công của “Truyện Kiều”. Thiên nhiên bao gồm những gì xung quanh con người nhưng không phải do con người tạo ra. Thiên nhiên bao gồm cây cỏ, hoa lá, phong cảnh, âm thanh, màu sắc, ánh sáng,…Bên cạnh vai trò tả cảnh đơn thuần, thiên nhiên trong “Truyện Kiều” còn giữ vai trò tả tình. Bởi vậy, bút pháp tả cảnh ngụ tình luôn được Nguyễn Du khai thác một cách triệt để.

Trong tiết thanh minh, cảnh vật hiện lên thật tươi đẹp và sinh động:

“Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.

Hiện ra trước mắt bạn đọc là một không gian ngập tràn sắc xanh, ngập tràn nhựa sống.Màu xanh ngút ngàn của cỏ nối tiếp với màu xanh của bầu trời hòa quyện vào nhau và trải rộng ra vũ trụ mênh mông. Dường như không gian ấy chỉ có màu xanh mơn mởn, căng tràn sắc xuân của cỏ cây. Điểm xuyết vào màu xanh bạt ngàn ấy là một vài bông hoa lê trắng tinh khôi. Tất cả tạo nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng và tình tứ. Không gian như được trải dài, nối tiếp nhau đến chân trời xa mãi. Từ “rợn” đã giúp chúng ta không chỉ thấy được màu xanh non tơ của cỏ bằng mắt thường mà nó còn khơi gợi cảm giác, chiều sâu trong tâm hồn con người. Phép đảo ngữ “trắng điểm” đã nhấn mạnh và làm nổi bật lên màu trắng của vài bông hoa lê trên nền cỏ xanh của mùa xuân tươi mới.

Bức tranh thiên nhiên như đang nâng bước du xuân của chị em Thúy Kiều:

“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.

Thời gian đã chuyển sang buổi chiều, bóng đã “ngả về tây” nên cảnh vật trở nên yên tĩnh, và thanh bình hơn. Dòng nước uốn quanh và nhịp cầu nho nhỏ cũng đủ tạo nên bức tranh thiên nhiên buổi chiều trầm tĩnh đến vắng lặng. Nhịp cầu nhỏ bé bắc ngang ở cuối ghềnh gợi sự nhỏ bé, yên ắng. Nhịp cầu ấy như bị chìm sâu vào không gian mà phải là một con người có đôi mắt tinh tường thì Nguyễn Du mới có thể trông thấy được .Các từ láy “thanh thanh”, “nao nao” đã gợi lên cái hồn của phong cảnh. Ẩn đằng sau đó là tâm trạng tiếc nuối, bâng khuâng, phảng phất nỗi buồn của con người. Đó là dự cảm về những chuyện không lành sắp xảy ra của Thúy Kiều. Phải chăng dự cảm ấy xuất phát từ việc chị em Thúy Kiều bắt gặp mộ Đạm Tiên – người phụ nữ tài hoa mà mệnh bạc:

“Sè sè nắm đất bên đường
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”

Mộ của nàng Đạm Tiên vắng tanh hương khói, nó chỉ là một nắm đất nổi lên nhưng rất thấp ở bên đường. Những ngọn cỏ mọc xung quanh đó cũng không được xanh tươi, căng tràn sức sống mà lại mang màu sắc nửa vàng nửa xanh thật ảm đạm. Từ láy “sè sè”, “dàu dàu” đã vẽ nên một bức tranh đượm buồn với các sắc màu u ám. Hình ảnh thiên nhiên bỗng nhuốm màu héo úa, thê lương. Trước khung cảnh như vậy, Thúy Kiều thương tiếc và có mối đồng cảm sâu sắc với con người bạc mệnh.

Thiên nhiên còn là nền cho cuộc chia tay của Thúy Kiều và Kim Trọng:

“Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”.

Vẫn là dòng nước, vẫn là nhịp cầu nhưng cảnh vật được bao trùm bởi sự thơ mộng, hữu tình. Tiếng sét ái tình đã khiến “người quốc sắc”, “kẻ thiên tài” gặp nhau và có cảm giác ngượng ngùng khi “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Phải chăng dòng nước trong veo quá nên in bóng được cả chiếc cầu lên mặt nước. Buổi chiều thường gợi cho con người một nỗi buồn man mác nhưng bóng chiều trong buổi gặp gỡ chàng Kim Trọng lại mang màu sắc vui tươi. Lá liễu, cành liễu vốn đã mềm mại, thướt tha nhưng trong giây phút tình yêu đầu chớm nở của hai nhân vật lại trở nên có hồn hơn bao giờ hết. Có cuộc chia tay nào mà không đọng lại trong lòng mỗi chúng ta chút gì lưu luyến, tiếc nuối và tâm trạng của Thúy Kiều khi chia tay Kim Trọng ra về cũng có chút xao xuyến, bâng khuâng. Thiên nhiên của buổi đầu gặp gỡ thật nên thơ, hữu tình. Phong cảnh tuy đơn sơ mà nồng đượm tình người.

Bên cạnh đó, thiên nhiên còn là nhân chứng cho lời thề “tạc một chữ đồng đến xương” của Thúy Kiều và Kim Trọng:

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song”.

“Vầng trăng vằng vặc” giữa trời khuya là nhân chứng cho lời thề thủy chung của hai người. Đó là cuộc thề nguyền được diễn ra trong một không gian vô cùng lãng mạn nhưng cũng hết sức trang trọng. Ánh trăng vàng lung linh đã bao trùm lên toàn bộ không gian tạo nên một bức tranh thơ mộng. Trong khung cảnh huyền ảo đó, hai nhân vật đã thề nguyền, hẹn ước trăm năm gắn kết.

Thiên nhiên đã trở thành người bạn tâm giao của con người từ bao đời nay và đối với Thúy Kiều cũng vậy. Khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích nàng đã nhìn cảnh vật bằng đôi mắt buồn của một con người đã trải qua những biến cố, sóng gió của cuộc đời:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”

Vầng trăng không còn giữ vai trò là nhân chứng trong cuộc hẹn ước của Thúy Kiều – Kim Trọng mà nó đã trở thành người bầu bạn, tri âm của Thúy Kiều. Con người nhỏ bé trước không gian rợn ngợp của lầu Ngưng Bích. Nguyễn Du đã mang trăng từ non xa lại gần hơn với Thúy Kiều để nàng trút bầu tâm sự. Chỉ có người và trăng, không gian ấy không bị chi phối bởi các yếu tố khác nên bạn đọc có thể thấy được mối quan hệ khăng khít của Thúy Kiều và “tấm trăng”.

Tâm trạng của nàng Kiều đã lan tỏa, thấm vào cảnh vật nên nhìn đâu cũng thấy nỗi buồn:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.

Từ lầu Ngưng Bích, Kiều đã trông thấy thấp thoáng phía xa là cánh buồm của chiếc thuyền nào đó. Nó nhỏ bé và đơn độc trước một không gian bao la của biển cả. Những cánh hoa mỏng manh dường như cũng bị ngọn nước cuốn trôi, vùi dập không biết điểm đến là nơi nào, chúng chỉ biết trôi theo dòng nước như một cách chấp nhận số phận. Rồi mai đây, số phận cuộc đời của Thúy Kiều cũng như vậy. Nàng ngắm nhìn cảnh vật mà xót xa, đớn đau cho thân phận của chính mình. Nàng đang sống trong sự lẻ loi, cô đơn khi phải xa lìa cha mẹ, các em và người yêu. Nàng đau đớn khôn cùng khi biết mình bị Mã Giám Sinh lừa bán vào chốn lầu xanh nhơ nhớp. Bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nên nội cỏ cũng không có màu xanh non tơ mơn mởn mà thay vào đó là “rầu rầu”, héo úa. Không gian rộng lớn nhưng không gợi sự ấm áp mà lại gợi sự vắng vẻ, hiu quạnh đến nỗi bi thương. Những cơn gió đã nổi lên có sức mạnh cuốn cả mặt duềnh. Những đợt sóng cũng kêu gào quanh ghế ngồi lại càng khiến nỗi cô đơn, buồn tủi của Kiều lên tới tột cùng. Thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích được Nguyễn Du miêu tả qua đôi mắt của Thúy Kiều là một bức tranh với những gam màu âm u đáng sợ không có sức sống. Bên cạnh đó, nó còn bộc lộ những nỗi lo sợ của Thúy Kiều về những tai ương, sóng gió sắp xảy ra.

Nếu Thúy Kiều chia tay Kim Trọng là khung cảnh trong sáng, vui tươi thì Thúy Kiều chia tay Thúc Sinh trong khung cảnh “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”. Cánh rừng phong vào mùa thu đã chuyển sang màu đỏ, một màu đỏ của chia li, từ biệt. Những con đường xa xôi cách trở đã dần hiện ra, màu quan san đã trùm lên cả cánh rừng phong đỏ:

“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường”

Vầng trăng tròn trịa viên mãn nay phải chia tách làm đôi, “nửa in gối chiếc” để thể hiện lòng chung thủy, nửa còn lại để soi sáng những “dặm trường” mà Thúc Sinh đi. Cảnh chia tay diễn ra với tâm trạng buồn thương, bịn rịn không muốn xa rời giữa kẻ ở và người đi. Đó là cuộc chia tay “ngang giá với một thiên phú biệt li” (Nhà nho Vũ Trinh).

Thiên nhiên trong tác phẩm “Truyện Kiều” được Nguyễn Du miêu tả với những màu sắc khác nhau. Đồng thời chúng cũng giữ những vai trò khác nhau trong việc thể hiện cảm xúc, tâm trạng của các nhân vật. Đó là dụng ý của tác giả khi sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình đầy tinh tế và khéo léo. “Có thể nói thiên nhiên trong “Truyện Kiều” cũng là một nhân vật, một nhân vật thường lặng lẽ kín đáo nhưng không mấy khi không xuất hiện và luôn luôn thấm đượm tình người” (Đặng Thanh Lê).

Bài Mẫu số 3 : Phân Tích Hình Ảnh Thiên Nhiên Trong Truyện Kiều chuẩn nhất

Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay. Các tao nhân mặc khách, các thi sĩ xưa đến với thiên nhiên để hòa mình vào thiên nhiên, gửi gắm tình cảm tâm tư vào mỗi bức tranh ấy. Mỗi nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng thường tìm đến với người bạn thiên nhiên để soi lòng mình vào tấm gương trong sáng ấy. Không trọng tâm tả thiên nhiên cảnh vật nhưng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, thiên nhiên trở thành một nhân vật nói hộ tác giả tâm trạng nhân vật. Hoài Thanh đã có nhận xét thật đúng về nhân vật thiên nhiên trong Truyện Kiều: “Có thể nói thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật – một nhân vật thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không xuất hiện và luôn thấm đượm tình người”.

Thiên nhiên là cảnh vật, là cỏ cây hoa lá, là âm thanh, sắc màu. Viết về thiên nhiên là vẽ nên bức tranh phong cảnh nên thơ. Nhưng thiên nhiên trong Truyện Kiều mang cả hai chức năng: vừa tả cảnh vừa tả tình. Cảnh thấm đượm tình người và tình người hòa vào cảnh vật. Đó cũng chính là bút pháp tả cảnh ngụ tình tuyệt diệu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Thiên nhiên là một nhân vật mang tâm trạng nói hộ Nguyễn Du khi ngòi bút của ông bất lực.

Cảnh thiên nhiên là một nhân vật xuyên suốt từ đầu tác phẩm đến cuối tác phẩm cùng với nàng Kiều. Một bức tranh phong cảnh nên thơ đã mở ra trước mắt ba chị em Kiều tròng buổi du xuân. Tiết thanh minh, trời xuân tươi đẹp rực rỡ khiến cỏ như non xanh hơn, hoa khẽ nở xòe trong hơi xuân:

Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Cỏ non xanh mơn mởn trải dài trên mặt đất nối tới tận chân trời xa. Xanh rợn là màu xanh ngan ngát, cả một vùng. Mặt đất phủ cỏ xuân như một chiếc thảm nhẹ mềm mại nâng bước chân người đi tảo mộ. Bên cạnh một gam màu đậm của cỏ xanh rợn là một gam màu nhẹ rất mềm, rất mỏng. Một vài bông lê trắng muốt điểm nhẹ lên làn cỏ xanh ấy. Cành lê sa gần mặt đất và vài bông lê trắng điểm ngỡ như ai đó còn để vướng lại trên nền cỏ non vài đốm hoa nhỏ. Hai gam màu đậm nhạt ấy như hài hoà với nhau tạo nên bức tranh thật đẹp, nên thơ và cũng đầy sức xanh. Cảnh vật thật tươi sáng, thơ mộng.

Nhưng cùng cảnh trong buổi du xuân ấy, vào lúc chiều tà khi ba chị em Kiều thơ thẩn ra về thì gặp một ngôi mộ bên đường. Hỏi ra Kiều mới biết là mộ Đạm Tiên – cô kĩ nữ trẻ tuổi xuân xanh đã gãy cành thiên hương oan uổng một kiếp người. Thương Kiều, nghe chuyện cảm thường cho kiếp người bất hạnh ấy đã đầm đầm châu sa. Và cảnh vật quanh đây như chùng lại, lắng xuống đồng cảm với tâm hồn người trong cuộc.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhổ cuối ghềnh bắc ngang.

Sè sè nấm đất bến đường,

Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Cảnh vật đó có dòng nước, có nhịp cầu, có cỏ nhưng tất cả đều nhuốm tình người. Dòng nước nao nao, uốn quanh nấm mồ khiến người nhìn cảnh cũng thấy lòng nao buồn. Nhịp cầu như thu nhỏ lại bắc ngang dòng nước cũng chẳng chút vui tươi mà lặng lẽ, gợi buồn. Dòng nước êm đềm chảy không gợn sóng lăn tăn.

Nấm mồ Đạm Tiên trải qua bao cơn sóng gió dập vùi nay đã sè sè bên đường. Nấm mồ hoang không người hương khói giờ đây cỏ mọc um tùm.

Nhưng cỏ cũng chẳng xanh tươi gì mà dàu dàu, nửa vàng nửa xanh. Cảnh vật nhuốm màu tàn tạ, ngọn cỏ nhuốm màu héo tàn, vàng úa như kiếp người bất hạnh nằm kia. Cảnh thiên nhiên mang tâm trạng buồn bã tiếc thương cùng với nàng Kiều. Các từ láy nao nao, nho nhỏ, sè sè, dàu dàu đã miêu tả thật chính xác tâm trạng buồn bã của người trong cảnh ấy. Nhân vật thiên nhiên như thấm đượm nỗi buồn, thấm đượm tình người.

Rồi cũng cảnh ấy, cũng có cầu, có nước nhưng lại không đượm buồn mà mang màu sắc trong sáng, vui tươi. Đó là lúc chiều tà khi cuộc chia tay Kim – Kiều diễn ra, cảnh vật thật tươi sáng:

Dưới Cầu nước chảy trong veo

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha

Hai con người quốc sắc, thiên tài gặp nhau, chỉ phút chốc tình trong như đã. Tiếng sét ái tình đã lóe sáng trong tim mỗi người. Nhưng chiều đã muộn, người thì chưa muốn ra về mà thời gian thì giục giã khiến bước chân về mà lòng vẫn lưu luyến khôn nguôi. Kim Trọng là một văn nhân tài tử con nhà nho danh, phúc hậu, thông minh tài giỏi. Thúy Kiều là cô gái tiểu thư sắc nước hương trời, tài hoa hơn người. Họ quả là một cặp đẹp đôi mà trời gieo tớ phải lứa. Và cảnh vật lúc chia tay cũng trong sáng như tình yêu chớm nở ban đầu.

Dòng nước như trong veo một màu in bóng chiếc cầu nhỏ nối ngang dòng. Bóng liễu thướt tha in trên mặt nước phẳng lặng như gương. Liễu vốn đã đẹp nhưng trong nắng chiều vàng nhạt, lá liễu như mềm mại hơn, thướt tha hơn. Câu thơ có hình ảnh bóng chiều nhưng không hề gợi buồn mà thật đẹp, tươi trẻ. Phải chăng lúc chia tay với Kim Trọng tâm hồn Kiều đang trong sáng, hồn nhiên nhất và cũng hạnh phúc trong tình yêu đầu nên cảnh vật như nhuốm sự vô tư, trong sáng của tâm hồn nàng. Cảnh thiên nhiên có dòng suối trong veo, có nhịp cầu bóng liễu là của ban ngày! Còn ban đêm ánh trăng trở thành người bạn gần gũi nhất, thân thiết nhất. Ánh trăng thu sáng vàng rực rỡ không lan tỏa mọi nơi mà như hội tụ lại soi rọi rõ mặt Kim – Kiều trong buổi thề non hẹn biển. Lời đính ước, thề nguyền của hai con người son trẻ được vầng trăng chứng giám:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai mặt một lời song song.

Ánh trăng sáng sẽ mãi là nhân chứng cho mối tình diễm lệ. Buổi thề nguyền như càng in đậm mãi trong lòng Kiều và nó là khoảnh khắc hạnh phúc nhất của cuộc đời nàng.

Nhưng trăng vui tươi trong sáng rồi trăng có lúc cũng thật buồn, lạnh lẽo. Trong buổi tối trốn cùng Sở Khanh, ánh trăng nhợt nhạt như dự báo trước một cuộc trốn chạy vô ích của nàng Kiều:

Đêm thu khắc lậu canh tàn,

Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm sương.

Lối mòn cỏ nhợt nhìu sương,

Lòng quê đi một bước đường, một đau.

Trăng không sáng soi vằng vặc, cũng không chiếu rõ muôn nơi mà trăng nhợt nhạt, u ám, cảnh vật thật buồn thảm, váng lặng, cảnh như thế thì người trong cảnh cũng chẳng được việc gì. Và lần bỏ trốn của Kiều sẽ không gặp may mà có thể nó sẽ gây nên cho nàng nỗi khổ nhục hơn. Trước kia khi bị Tú Bà bắt giữ làm gái lầu xanh, Thúy Kiều đã toan quyên sinh nhưng rồi không chết. Kiều được đưa ra lầu Ngưng Bích giam lỏng một thời gian trước khi gặp Sở Khanh. Cảnh vật cũng đượm buồn như cảnh trong đêm bỏ trốn. Vầng trăng xa xôi mà như gần gũi khiến nàng nhớ tới đêm hẹn ước năm xưa. Cảnh đẹp nhưng người buồn khiến cảnh cũng nhuốm buồn. Tất cả trước mắt Kiều đều xa xôi, lạnh lẽo, gợi, thân phận lạc loài của nàng. Lầu Ngưng Bích giữa một vùng nước rộng thật cô đơn lẻ loi. Đôi mắt buồn nhìn cảnh nên mới là “buồn trông”:

Buồn trông cửa biển chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Nhìn con thuyền xa xôi nơi biển chiều, cô đơn, lạc lõng không bến bờ gợi tâm trạng cô đơn, xa cha lìa mẹ của người con gái nơi đất khách quê người. Ngọn nước trân cao để xuống dập vùi tan nát cánh hoa rơi hay rồi cuộc đời mai đây của Kiều cũng đau khổ bị sóng, gió dập vùi như cánh hoa kia.

Nhìn phía nào cảnh nào cũng thấy một màu tàn úa, một tương lai mịt mừng, tăm tối. Nhìn cỏ thì cỏ vàng úa, héo tàn, nhìn nước thì nước đục ngầu giận dữ, nước vỗ sóng ầm ầm… Thiên nhiên quanh nàng phía nào cũng thật đáng sợ, gợi buồn, gợi đau trong lòng Kiều. Nghĩ tới tương lai thì mịt mùng, vô vọng nhìn vào hiện tại thì chán chường, lạc lõng còn quá khứ đau đớn thương cảm. Và có lẽ bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích là bực tranh dự đoán tương lai của nàng Kiều, là nền của cuộc chạy trốn với Sở Khanh không may mắn.

Chia tay với Kim Trọng cảnh vui tươi, trong sáng nhưng khi chia tay với Thúc Sinh cảnh lại buồn đau, xót xa:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

Anh trăng, vầng trăng là khối tình chung của Thúy Kiều với Thúc Sinh vậy mà giờ đây bị sẻ chia thành hai nửa. Người ra đi đem theo một nửa sáng soi dặm đường đi, người ở lại giữ một nửa vầng trăng chờ đợi ôm ấp mối tình chung thủy.

Cả Rừng phong thu cũng nhuốm màu quan san. Chia tay ở cảnh rừng phong đỏ vào thu nên cảnh nhuốm li biệt. Cảnh chia tay ấy đẫm tình người và nước mắt. Nhân vật thiên nhiên đã có mặt thật đúng lúc để diễn tả tâm trạng con người. Chia tay có mấy cảnh vui tươi mà cảnh nào cũng buồn, cũng sầu bởi có ai muốn chia cách, li biệt.

Nhân vật thiên nhiên còn hiện lên trong lần Kim Trọng về thăm vườn Thúy. Cảnh xưa tươi đẹp, nên thơ là thế giờ đây hoang vu, tàn tạ:

Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,

Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.

Trước sau hào thấy bóng người,

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.

Xập xè én liệng lầu không,

Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.

Cảnh vườn Thúy trong buổi trao khăn, trao kim thoa thật đẹp, cảnh vui vẻ ấm tình người. Vậy mà giờ đây cỏ mọc đầy sân, vách tường rã rời vì mưa gió cảnh hoang vu vắng lặng không một bóng người. Cảnh xưa đấy, hoa đào năm ngoái vẫn còn đây nhưng người xưa đã vắng bóng bao giờ để cỏ lan để rêu phong kín dấu giày năm xưa. Cảnh tiêu điều, tàn tạ khiến lòng người về thăm cảnh cũ cũng nao nao buồn. Thiên nhiên luôn mang tâm trang nhân vật thiên nhiên luôn thấm đượm tình người là thế.

Truyện Kiều của Nguyễn Du không cốt tả cảnh thiên nhiên nhưng ông lại mượn thiên nhiên nói hộ tâm trạng nhân vật. Và thiên nhiên trở thành một nhân vật đặc biệt, lúc ẩn lúc hiện nhưng luôn có mặt đúng lúc. Nhân vật thiên nhiên thường kín đáo, lặng lẽ bởi có mấy ai để ý đến, và nhiên và cảnh thiên cũng đến rất nhẹ. Mỗi nhân vật đều gửi gắm tâm trạng mình vào thiên nhiên ấy hay Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong Truyện Kiều. Bút pháp nghệ thuật ấy đã góp phần không nhỏ trong việc khắc họa tính cách nhân vật của Nguyễn Du.

Thiên nhiên đã đi vào những vần thợ trong Truyện Kiều, đi vào tâm hồn đại thi hào dân tộc Nguyễn Du lặng lẽ, nhẹ nhàng nhưng đã tạo nên cho tác phẩm cũng như mang tâm trạng, nỗi lòng cua nhân vật. Đại thi thành công khi dùng bút pháp tả cảnh ngụ tình, mượn thiên nhiên nói hộ tâm trạng nhân vật của mình.

Bài Mẫu số 4 : Phân Tích Hình Ảnh Thiên Nhiên Trong Truyện Kiều chuẩn nhất

Nhận xét về thiên nhiên trong “Truyện Kiều”, Đặng Thanh Lê từng nói : “Có thể nói thiên nhiên trong “Truyện Kiều” cũng là một nhân vật, một nhân vật thường lặng lẽ, kín đáo nhưng không mấy khi không xuất hiện và luôn luôn thấm đượm tình người”.

Thiên nhiên vốn không phải là chủ đề riêng của Nguyễn Du mà nó là chủ đề chung của thi sĩ muôn đời. Nhưng thiên nhiên đi vào “Truyện Kiều”, đi vào tâm hồn đại thi hào Nguyễn Du lại có những nét rất riêng. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du chỉ tạo cơ hội cho thiên nhiên xuất hiện khi cần tạo nền cảnh cho một cuộc gặp gỡ, hẹn hò hoặc khi bộc lộ giúp những cảm nhận tâm trạng của các nhân vật về thời gian, không gian, cảnh ngộ,…

Trong tiết thanh minh trong sáng, khắp nơi nô nức đi tảo mộ, du xuân, thiên nhiên ùa vào lòng người với những nét màu thật sáng đẹp và dồi dào sức sống :

“Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Một mùa xuân với màu xanh rợn ngợp của cỏ non, với một vài bông lê điểm xuyết. Chỉ với đôi nét chấm phá, qua ngòi bút tài hoa của nhà nghệ sĩ, cả một bức tranh xuân bừng sáng hiện lên. Trong cái không gian bát ngát màu xanh của cỏ mùa xuân, điểm vào một vài bông hoa lê trắng muốt, tinh khiết, đưa lòng người trong cảnh bay bay nhè nhẹ, lâng lâng.

Cảnh như đang nâng nhẹ bước chân ba chị em Thuý Kiều :

“Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Cảnh ở đây thật thơ mộng và thắm đượm tình người. Một dòng nước, một nhịp cầu nho nhỏ cũng đủ gợi lên những nét thanh thanh của phong cảnh.

Thiên nhiên càng trở nên hữu tình, thơ mộng khi Kiều chia tay với Kim Trọng :

“Dưới cầu nước chảy trong veo,

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”

Nguyễn Du không cần giá vẽ nhưng đã dựng nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp và hài hoà. Dưới cầu là dòng nước êm đềm chảy, bên cầu là hình ảnh “tơ liễu bóng chiều thướt tha”. Cảnh vật gắn bó nhau, tôn nhau lên, chiếc cầu nhỏ như làm đẹp cho dòng nước và dòng nước làm cho chiếc cầu càng trở nên xinh xắn, đáng yêu hơn. Ở đây, Nguyễn Du có nói đến hình ảnh “bóng chiều”nhưng bóng chiều không gợi nỗi buồn mà đẹp một cách lạ thường. Phải chăng lúc này là lúc Kim Trọng chia tay với Thuý Kiều, tâm hồn Kiều hồn nhiên trong sáng nên cảnh cũng mang những nét hồn nhiên trong sáng của Kiều. Cảnh thiên nhiên thấm đượm hồn người, tình người, mang nỗi niềm của con người. Thiên nhiên còn trở thành nhân vật thứ ba chứng kiến buổi thề non hẹn biển giữa Kiều với chàng Kim :

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai mặt một lời song song”

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời” kia như là một nhân chứng cho mối tình trong sáng, đẹp tươi của đôi trai tài, gái sắc. Trong “Truyện Kiều”, đã hơn bốn mươi lăm Nguyễn Du nhắc đến ánh trăng nhưng có lẽ ánh trăng trong đêm thề nguyền này đã đi vào tiềm thức, đã trở nên gắn bó nhất với Thuý Kiều.

Trăng là người làm chứng cho mối tình của nàng với chàng Kim và cũng là người bạn gần gũi, gắn bó với nàng trong mọi hoàn cảnh :

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung”

Trước không gian rộng lớn, rợn ngợp của lầu Ngưng Bích, Kiều như một tấm thân bơ vơ, lạc lỏng. Nàng tìm đến với thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm bầu bạn. Dường như Nguyễn Du đã kéo vầng trăng từ xa vời vợi kia gần nàng Kiều hơn. Trăng như người bạn tri âm tri kỷ đang san sẻ cùng tâm trạng của nàng :

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Một cánh buồm nhỏ bé trước mặt biển bao la trong cảnh hoàng hôn cũng đủ gợi gợi lên trong lòng người đọc thấm thía nỗi buồn của nàng Kiều. Đó là nỗi buồn lẻ loi, cô đơn, lạc lỏng bơ vơ nơi chân trời góc bể của người con gái không biết bấu víu vào đâu :

“Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Aàm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Nếu trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã từng viết :

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

thì quả là không sai. Nỗi buồn trong Kiều thật mênh mang, rợn ngợp, một nỗi buồn khiến cho lòng người khô héo. “Nội cỏ” ở đây cũng “dầu dầu” cũng mang tâm sự nỗi lòng của Kiều. Đó là nỗi buồn vì cuộc đời đang bị xô đâỷ, vùi dập. Nỗi buồn đó cứ dấy lên mãi, ứ đọng mãi, khơi gợi nỗi niềm tủi nhục đau thương đến ứa nước mắt. Âm thanh của tiếng sóng hay cũng chính là những tai hoạ, những khó khăn đang rình rập, có nguy cơ ập xuống đầu Kiều, choáng ngợp khắp tâm trí Kiều. Cảnh ở đây vừa mênh mang, rợn ngợp vừa mang tâm sự u hoài của lòng người.

Có thể nói thiên nhiên luôn là hình ảnh thân gần, gắn bó với mỗi chúng ta, nó không chỉ là khung cảnh gần gũi trong cuộc sống đời thường mà đã đi vào văn học, cụ thể đi vào “Truyện Kiều”. Nguyễn Du đã mượn thiên nhiên làm nền cho truyện và cũng biến thiên nhiên thành một nhân vật, mang tâm sự, nỗi lòng của con người. Ngòi bút thơ của Nguyễn Du tài hoa, điêu luyện khi dựng lên hình ảnh thiên nhiên .Thiên nhiên mãi là hình ảnh, là nhân vật không thể thiếu trong “Truyện Kiều” . “Truyện Kiều” mãi mãi là viên ngọc quý, là cuốn sách gối đầu giường của mõi chúng ta.

Nhà thơ Sông Lam, Núi Hồng đã ra đi, nhưng “Truyện Kiều” mãi mãi là dòng sông mát lành chảy qua tâm hồn chúng ta để lại một lớp phù sa màu mỡ. Trên lớp phù sa màu mỡ đó, ta luôn luôn gặp hình ảnh tươi đẹp, sống động, mang đậm tình người của thiên nhiên.

Bài Mẫu số 5 : Phân Tích Hình Ảnh Thiên Nhiên Trong Truyện Kiều chuẩn nhất

Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một tác phẩm hay, độc đáo, rất tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của đại thi hào Nguyễn Du. Đoạn trích nằm ngay sau đoạn tả tài, tả sắc của chị em Thúy Kiều. Qua đoạn thơ, Nguyễn Du dựng lên bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh thật tươi sáng, sống động. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp bút pháp tả và gợi với những chi tiết mang tính ước lệ mà vẫn vô cùng chân thực, giàu tính chất tạo hình và biểu cảm, ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt để miêu tả khung cảnh ngày xuân.

Trước hết là bốn câu thơ đầu , với nghệ thuật chấm phá độc đáo tả ít gợi nhiều, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, giàu sức xuân:

Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Hai câu thơ đầu vừa có sức gợi về thời gian, lại vừa có sức gợi về không gian. Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa. Cả mùa xuân có chín mươi ngày thì nay đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi. Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn. Dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận chạy ra xa tít tắp. Động từ “tận” làm cho không gian mùa xuân như đang giãn nở, ngày càng mở rộng ra biên độ và bao trùm cả không gian xuân là một màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ. Biện pháp đảo ngữ có tác dụng tô đậm thêm và làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn nhưng dưới ngòi bút và cách miêu tả thần tình, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh xuân tinh khôi, trong trẻo, thanh khiết và giàu sức sống, mang đậm hơi thở của hồn xuân đất Việt.

Đến sáu câu thơ cuối, bằng nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình”, Nguyễn Du đã miêu tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân thấm đượm hồn người một chút buồn xao xuyến. Đây vừa là tả thực, lại vừa nhuốm màu tâm trạng nhân vật trữ tình trong thơ.

Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Cảnh vẫn mang cái dịu nhẹ, êm đềm của ngày xuân nhưng bóng dương đã “tà tà ngả về tây”. Cảnh vật như trở nên nhạt dần đều, cái khung cảnh rộn rã, náo nức, tưng bừng lúc sáng sớm ngày xuân đã phải nhường chỗ cho sự tĩnh lặng, yên ả. Không gian xuân co gọn lại theo ánh sáng của bầu trời hoàng hôn chứ không mở ra rộng lớn, mênh mông, vô tận như ở bốn câu thơ đầu. Tất cả đều thu nhỏ trong bước chân của người ra về. Phong cảnh thì “thanh thanh” nhẹ nhàng, dòng nước tiểu khê thì uốn quanh “nao nao” và chiếc cầu “nho nhỏ” thì “bắc ngang” cuối ghềnh. Cảnh thực đẹp, rất giàu chất thơ, chất họa, phảng phất một nỗi buồn lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng của lòng người. Đồng thời gieo vào lòng người đọc những linh cảm về một điều sắp sửa xảy ra, như là sự dự báo trước cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và sự gặp gỡ của hai con người trai tài gái sắc: Thúy Kiều – Kim Trọng. Tóm lại, với bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống những từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã khắc họa bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân thấm đượm tâm trạng của con người nhân vật. Qua đó cho thấy được tài năng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và tâm trạng con người của Nguyễn Du.

Nếu như ở bốn câu thơ đầu, bức tranh thiên nhiên mùa xuân vào lúc sáng sớm hiện lên căng tràn, đầy nhựa sống, bao la, vô tận trong màu sắc xanh non, biếc rờn của cỏ cây thì đến sáu câu cuối, bức tranh xuân khép lại trong ánh sáng nhạt nhòa của ánh nắng chiều yếu ớt ngã về phía tây, co gọn lại thật nhỏ bé và nhuốm màu sắc tâm trạng con người. Cảnh chuyển rất tự nhiên và hợp lý.

Tóm lại, qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy được nghệ thuật miêu tả thiên nhiên rất độc đáo, giàu sức gợi của nhà thơ. Đó là một bức tranh mùa xuân giàu chất thơ, chất họa, rất sống động, nhịp nhàng.

Bài Mẫu số 6 : Phân Tích Hình Ảnh Thiên Nhiên Trong Truyện Kiều chuẩn nhất

Trong Truyện Kiều, biết bao nhiêu lần Nguyễn Du đã dụng công nghệ thuật để miêu tả thiên nhiên có đủ bốn mùa đầy gợi cảm, trữ tình.

Thế nhưng, có lần Nguyễn Du vẽ nên bức tranh thơ bất tử về mùa xuân bằng màu xanh tươi tắn của cỏ non với nét thanh nhã của sắc trắng hoa lê. Để rồi trên cái nền xuân mênh mông, êm đềm ấy xuất hiện những trang giai nhân tuyệt sắc. Để rồi giai nhân – tài tử – mùa xuân và tình yêu đôi lứa chớm nở, đã mang cái đẹp đến cho đời và làm bùng vỡ cảm xúc thẩm mỹ của người yêu thơ Việt Nam qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.

Xuân đã vào tháng ba – tiết thanh minh, rộn ràng những cánh én trong nắng ấm. Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân bằng sự kết hợp tuyệt vời giữa thảm cỏ xanh non trải dài tận đến chân trời. Điểm trên cái nền xanh mênh mông rợn ngợp ấy, là những cánh hoa lê màu trắng thanh nhã. Tác giả dùng từ “điểm” thật phù hợp, tạo nét thanh nhã, đúng với tình cảm trong sáng thanh lịch của “nam thanh nữ tú” đang du xuân.

Đó là màu sắc tinh khôi, trong trẻo, giàu sức sống và gợi cảm, là nét đặc trưng của mùa xuân. Bức tranh xuân đã làm say lòng người.

Tám dòng tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.

Nét văn hoá tảo mộ giàu tính truyền thống, trở thành nét đẹp trong tâm hồn con người.

Hội Đạp thanh gợi cái nét thanh tao mà gần gũi. Có gì thanh bình bằng dạo chơi trên cánh đồng quê lúc cỏ non vừa vươn dậy sau những cơn mưa xuân lất phất. Đâu đó thoang thoảng mùi hương trầm tỏa ra từ những ngôi mộ hòa quyện vào tâm hồn người du xuân thành niềm thiêng liêng khó tả.

Đoạn thơ giàu giá trị biểu cảm thể hiện qua các danh từ yến anh, chị em, tài tử, giai nhân tất cả mọi người xa gần đều trong tâm trạng “nô nức” sắm sửa, dập dìu đến phó hội.

Ngoài các động từ, danh từ được đưa vào thật đắt, Nguyễn Du còn hào phóng thêm vào các tính từ nô nức, gần xa và hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh” đã góp phần gợi tả, làm nổi bật không khí, khung cảnh nhộn nhịp ngày xuân và tâm trạng phơi phới của khách chơi xuân.

Điểm trên khung cảnh ấy là những thoi vàng với tro tiền giấy bay càng làm cho khung cảnh có phần sâu lắng. Điều ấy làm nổi bật nét đẹp văn hoá truyền thống giàu tính nhân văn trong tiết Thanh minh.

Sáu câu cuối tả cảnh chị em Kiều trở về nhà. Cảnh hiện lên lúc chiều tàn, không còn nhộn nhịp mà như lặng dần và nhuốm buồn.

Những từ láy “tà tà, thanh thanh, nao nao” biểu đạt sắc thái cảnh vật và tâm trạng con người cũng “nao nao” như dòng nước. Phép nhân hoá độc đáo khiến cho cảnh vật như có tâm trạng.

Cảm giác vui xuân còn lâng lâng thì tác giả đã điểm vào lòng người một thoáng buồn qua hình ảnh “Nao nao dòng nước” và ngọn “tiểu khê” có màu thanh thanh lành lạnh như tiên cảm cho một điều chẳng lành, dự báo một thiên đoạn trường…

Đoạn thơ có kết cấu hợp lý và ngôn ngữ giàu tính tạo hình; nghệ thuật nhân hoá độc đáo và những từ láy giàu tính biểu cảm.

Với mười tám dòng thơ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân thanh nhã với nét chấm phá tuyệt vời và nhuốm đầy tâm trạng con người với dự cảm ẩn chứa niềm đau.

Bài Mẫu số 7: Phân Tích Hình Ảnh Thiên Nhiên Trong Truyện Kiều chuẩn nhất

Hoà cùng với niềm vinh dự và tự hào của người dân Hà Tĩnh và nhân dân cả nước trước lễ kỉ niệm 250 năm ngày sinh của đại thi hào Nguyễn Du – danh nhân văn hoá thế giới, với vốn hiểu biết tuy còn hạn hẹp về Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều nhưng với niềm yêu mến, say mê, cảm nhận, tích luỹ được trong quá trình dạy học về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều, tôi muốn góp phần nhỏ bé của mình trong chuyên đề về Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Nếu nói rằng Văn học là một bộ môn nghệ thuật có chất liệu sáng tạo là ngôn từ phản ánh đời sống tự nhiên, xã hội bằng cách xây dựng các hình tượng nghệ thuật đặc sắc (thẩm mĩ) để hướng tới trọng tâm là con người thì truyện Kiều đã đạt tới đỉnh cao của sự thành công về điều đó. Có thể nói đã bao thế hệ trôi qua mà người đọc vẫn không khỏi nghẹn ngào xúc động mỗi khi lật dở lại từng trang Kiều. 3254 câu Kiều đã được Nguyễn Du chưng cất từ những giọt huyết lệ nóng hỗi tình yêu thương con người, làm lay động thổn thức trái tim của bao thế hệ. Truyện Kiều là tác phẩm văn chương tuyệt tác trong lịch sử văn học dân tộc, có giá trị về mọi mặt: tư tưởng, triết lí, luân lí, tâm lí và văn chương Truyện kiều chiếm một vị trí vô cùng quan trọng đời sống nhân dân Việt Nam: từ các bậc cao sang quyền quý, trí thức, khoa bảng, văn nhân thi sĩ, cho đến những người bình dân ít học, ai cũng biết đến Truyện Kiều. Họ thích đọc Kiều, ngâm Kiều, lẩy Kiều và thậm chí bói Kiều. Truyện Kiều là tác phẩm đã đưa một nhà thơ lên hàng danh nhân văn hoá thế giới. bởi giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật đạt tới đỉnh cao. Về giá trị nội dung: “Truyện Kiều” có hai giá trị lớn: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo… Về giá trị nghệ thuật “Truyện Kiều” rất phong phú, song đặc sắc nhất là ở hai phương diện chủ yếu: – Nghệ thuật ngôn ngữ: ngôn ngữ “Truyện Kiều” đạt đến mức trong sáng mẫu mực. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn hai tác phẩm ngôn ngữ: ngôn ngữ bình dân – ngôn ngữ ca dao, tục ngữ lời ăn tiếng nói của người dân; ngôn ngữ bác học mà chủ yếu là những lời Hán Việt mang đến cho “Truyện Kiều” thứ ngôn ngữ vừa hàm súc, vừa trang nhã, vừa giản dị mà vẫn đẹp đẽ, giàu hình ảnh nhạc điệu. Vì thế người ta gọi “Truyện Kiều” là “ tòa lâu đài ngôn ngữ thơ ca” được kết lên từ những viên ngọc lấp lánh sáng trong. – Nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật: ở lĩnh vực này Nguyễn Du thành công ở tất cả các bút pháp (tả cảnh, tả tình, tả người). Ông được mệnh danh là một thiên tài bậc thầy của nền văn học dân tộc. Ở bài viêt này tôi xin được phép trình bày một khía cạnh nhỏ trong suy nghĩ của mình khi tìm hiểu Truyện Kiều, đó là: Khai thác một vài nét về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
II/ VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN KIỀU.
Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du nói chung rất đa dạng và phong phú. Chính nghệ thuật tả cảnh này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá trị cho Truyện Kiều. Nghệ thuật tả thiên nhiên của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi giáo sư Nghiêm Toàn đã có nhận định như sau: “ Trong Đoạn trường tân thanh luôn luôn có những bức tranh nho nhỏ như những hạt kim cương rải rác đính trên một tấm thêu nhung” (Việt Nam Văn học sử trích yếu).
* Lối tả trực tiếp (tả chân) đây là cách tả thực, tả thuần tuý với những bức hoạ xinh đẹp, tươi tắn hoặc có khi buồn hiu hắt nhưng không ngụ tình, được viết theo lối văn tinh xảo, chỉ cần một vài nét phác hoạ với những điểm chính hiện hữu.
Hãy xem một cảnh xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút miêu tả thiên nhiên trực tiếp : “Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.” (Cảnh ngày xuân ) Bốn câu thơ trên Nguyễn Du đã mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, nên thơ. Giữa bầu trời bao la, mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như thoi đưa. Cánh én ngày xuân thân mật biết bao. Hai chữ “đưa thoi” rất gợi hình, gợi cảm. Nhà thơ miêu tả cánh én như con thoi vót qua, vót lại chao liệng như muốn nói thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh, ngày vui trôi rất nhanh. Sau cánh én “đưa thoi” là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân khi mùa xuân đã bước sang tháng thứ ba. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi nhân xưa nay thật là hay và ý vị. Trong thơ cổ, nào là “ xuân hướng lão”, “xuân đã muộn”(Nguyễn Trãi). Sau này, trong các tác phẩm hiện đại của các thi nhân lãng mạn cũng đã xuất hiện nhiều hình ảnh thời gian nghệ thuật: Xuân Diệu có “ xuân hồng”, Hàn Mặc Tử có “ mùa xuân chín”, Nguyễn Bính có “ xuân xanh”. Với Nguyễn Du thì “thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” lúc này là cuối xuân, gợi cái đậm của sức xuân. ánh sáng của mùa xuân rực rỡ, ấm áp làm cho bức tranh mùa xuân thêm trong trẻo, tươi sáng. Nếu hai câu thơ trên là thời gian, không gian xuân thoáng đạt, thì hai câu dưới là bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân: Cá non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: “Phương thảo liên thiên bích. Lê chi sổ điểm hoa”.
Hai chữ “trắng điểm” là “nhãn tự”, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp trong sáng tinh khôi của thiên nhiên cỏ hoa. Bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: thảm cỏ xanh m¬ướt bao la, trải rộng tới chân trời là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng tinh. Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Thúy Kiều đi dự lễ thanh minh. ở đây, cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì “Cành lê điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết: “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Có thể Nguyễn Du phải đảo chữ vì tôn trọng luật bằng, trắc trong thơ lục bát, nhưng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được. Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã, hài hòa đến tuyệt diệu. Chỉ bằng hai mươi tư tiếng, Nguyễn Du đã phác họa lên trước mắt người đọc bức tranh mùa xuân có cả chiều cao, chiều rộng, mới mẻ, giàu sức sống. Đây là bức tranh xuân hoa lệ, là những vần thơ tuyệt bút mà Nguyễn Du trao tặng cho đời.
Với lối tả chân này, Nguyễn Du còn điểm trang cho Truyện Kiều nhiều bức tranh thật tươi tắn, sống động. Hãy xem cảnh bóng trăng chênh chếch, soi mình trên sóng nước, đẹp lãng đãng như nổi tưởng nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ đầu tiên. Chỉ vài nét đơn sơ, giữa trăng, nước và sân nhà đủ diễn tả một khung cảnh tuyệt nhã, đẹp như một bức tranh.
Gương nga chênh chếch dòm song
Vầng trăng ngấn nước, cây lồng bóng sân
Và đây là một bức tranh sơn thuỷ tuyệt đẹp giữa một khung trời chiều mà Nguyễn Du đã gửi vào trong con mắt ngắm cảnh của Thúc Sinh
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
Mặc dù lúc này Thúc Sinh đang trên đường trở lại Lâm Tri, lòng mừng khấp khởi. Anh ta có dè đâu giữa cảnh trời thu tuyệt vời ấy những phong ba dữ dội ấy đang ùn ùn nổi dậy. Những lời thơ ấy đã đủ nói lên sức chân thực lớn của ngòi bút Nguyễn Du
*. Tả cảnh ngụ tình: Với bút pháp này, đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của ông được người đời sau khen ngợi như “máu chảy ở đầu ngọn bút” và “thấu nghìn đời”. Trong Truyện Kiều, cảnh vật bao giờ cũng bao hàm nỗi niềm tâm sự của nhân vật ẩn chứa trong đó ”Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” Nguyễn Du miêu tả cảnh chị em Thúy Kiều đi du xuân trở về khi chiều vừa ngả bóng hoàng hôn : “Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn dan tay ra về. Bước lần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”. Nguyễn Du đã sử dụng lối dùng chữ trang nhã, bình dân trong tả cảnh. Bức tranh không còn tươi rói, tinh khôi nữa mà cảnh được nhân hóa một cách tự nhiên nên dường như nhuốm màu tâm trạng. Hai chữ “tà tà” chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Thúy Kiều thong thả bước chân ra về “thơ thẩn” không có gì là vội vã, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt trời chiều. Cảnh chuyển động nhẹ nhàng, thanh dịu. Chúng được đặt dưới góc nhìn khác nhau, một thời điểm khác, nên giữa cảnh và tình có sự giao hòa đồng điệu.
Chúng ta đều biết: “nao nao” là từ láy diễn tả tâm trạng con người nhưng ở đây, Nguyễn Du lại dùng để chỉ dòng nước: “nao nao dòng nước uốn quanh”. Cảm giác về một ngày vui đang còn mà đã linh cảm thấy một điều gì đó không bình thường sắp xuất hiện, như dự báo về cảnh và người sắp gặp: nấm mộ Đạm Tiên và chàng Kim Trọng mà đây là những nốt nhạc dạo đầu. Các từ láy: tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ có giá trị gợi hình, gợi cảm cao. Cảnh được Nguyễn Du nhìn nhận qua tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng, man mác một nỗi buồn vô cớ của chị em Thúy Kiều trên đường trở về sau một ngày du xuân.
Và đây là cảnh chiêu tà Kim-Kiều gặp nhau. Con đường mà Kim Trọng đã bước qua hiện lên trong mắt Thuý Kiều thật đẹp, thật nên thơ, nên nhạc, cảnh cứ quấn quýt hoà quyện như trái tim hai người đang rạo rực bâng khuâng “Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao”
.Vẫn là cảnh chiều tà nhưng khi Thuý Kiều nhỏ giọt nước mắt xuống ngôi mộ Đạm Tiên một kỉ nữ “Đến khi thác xuống làm ma không chồng” thì cảnh vật trở nên thê lương, ảm đạm “ Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh“. Vầng trăng là hình ảnh tuyệt đẹp của thiên nhiên, trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã nhiều lần miêu tả vầng trăng nhưng ở mỗi thời điểm, mỗi hoàn cảnh khác nhau của nhân vật, vầng trăng lại được miêu tả trong mối giao hoà với tâm hồn con người. Trong đêm Kim -Kiều thề thốt vầng trăng cũng toả sáng lung linh như mối tình trong trắng, thánh thiện của họ” Vầng trăng chứng kiến một cuộc tình đang lên men say nồng
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt, một lời song song”
Vầng trăng đã từng chứng kiến mối tình đẹp để rồi giờ đây vầng trăng ấy lại quặn đau, xót xa như vỡ ra từng mảnh trước cảnh kiều và Thúc Sinh chia tay
” Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
Và đây là cảnh một đêm thu có trăng sáng nhưng ánh trăng mờ nhạt lạnh lẽo như tâm sự rối bời, nổi niềm sợ hãi, cô đơn của Kiều khi nàng theo Sở Khanh để trốn Tú Bà
“Lối mòn có nhạt màu sương
Lòng quê đi một bước đường một đau”
Nhiều khi, Nguyễn Du phô diễn lối tả cảnh tượng trưng. Nghĩa là chỉ bằng một vài nét chấm phá, thành nghệ thuật đã đạt đến mức uyển chuyển, tinh tế. Điều đó đã được thể hiện rõ nét trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: “ Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng “Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung”. Hình ảnh thơ đã được Nguyễn Du miêu tả trái với quy luật tự nhiên, thực ra “non” phải ở gần “trăng” phải ở xa. Tuy nhiên, lại phù hợp với quy luật của cảm giác, vì những gì phát sáng ta cảm thấy nó ở gần hơn. Đó chính là sự cảm nhận tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, là tài năng miêu tả thiên tài của Nguyễn Du. Kiều nhìn xung quanh, bốn bề bát ngát, mênh mông, trải dài ngót tầm mắt, với những “cát vàng”, “bụi hồng”, kéo dài ngàn dặm xa. Trong cảnh có màu vàng của trăng, của cát, màu xanh của nói, của biển, của trời, màu hồng của bụi. Cảnh trước lầu Ngưng Bích đẹp như một bức tranh sơn mài diễm lệ. Có mảng sáng, mảng tối, có cao, có thấp, các gam màu nóng tạo cho bức tranh phong cảnh đẹp rực rỡ. Tuy nhiên, qua các chỉ từ “nọ”, “kia” chỉ vị trí không gian không xác định, và các tính từ “xa”, “gần” chỉ khoảng cách giữa các vật. Ta thấy cảnh vật tuy đẹp nhưng không quần tụ, tách rời nhau , ngổn ngang như nỗi ngổn ngang trăm mối tơ vò trong lòng của cô gái họ Vương.
Trước lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều cảm thấy “bẽ bàng”, tủi hổ mỗi khi ngắm nhìn “mây sớm”, hay khi ngồi bên ngọn “đèn khuya”. Cảnh thiên nhiên đẹp nhưng Thúy Kiều không có tâm trạng nào để ngắm cảnh. Cho nên “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” là như vậy. Nhìn chung, cảnh thiên nhiên mênh mông, vắng lặng, trơ trọi, rợn ngợp ở lầu Ngưng Bích là để làm nổi bật tâm trạng, nỗi buồn, niềm cô đơn sầu tủi của nàng Kiều. Chính Nguyễn Du đã từng thú nhận sự chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua câu thơ: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Cái tài của Nguyễn Du khi tả cảnh đó là tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người. Giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là tám câu thơ tuyệt bút đặc sắc cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của nguyễn Du Nó không chỉ là bức tranh ngoại cảnh mà còn là một bức tranh tâm cảnh. Mỗi cảnh vật là một tâm trạng khác nhau của Kiều: “Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Nhìn ra phía xa xa nơi “cửa bể chiều hôm”, nàng cảm thấy nhớ quê hương, nhớ nhà da diết. Không biết đến bao giờ nàng mới được trở về quê hương yêu dấu, nơi có bao người thân của nàng. Nguyễn Du đã vận dụng thời gian nghệ thuật trong văn thơ cổ, “chiều hôm” đó là buổi chiều tà, lúc hoàng hôn buông xuống, thời gian này thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc tàn tạ, thê lương. Chúng ta đã từng gặp thời gian nghệ thuật ấy trong ca dao: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Cùng thời với Nguyễn Du, bà huyện Thanh Quan chỉ để lại khoảng sáu bài thơ nhưng trong đó có tới ba bài bà miêu tả thiên nhiên vào lúc chiều tà phù hợp với tâm trạng cô đơn nhớ nhà, thương nước, lẻ loi của bà như: “bóng tịch dương” – (Thăng Long thành hoài cổ); “bóng xế tà”- (Qua Đèo Ngang); “bóng hoàng hôn”- (Chiều hôm nhớ nhà). Đã hơn một lần Nguyễn Du sử dụng mô típ này như: “tà tà” trong (Tà tà bóng ngả về tây- Cảnh ngày xuân) để miêu tả tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc của chị em Thúy Kiều khi đi du xuân trở về. Trong bức tranh thứ nhất này, có thuyền, có người nhưng thuyền chỉ ở “thấp thoáng” nơi “xa xa”, không ở gần để xẻ chia tâm sự với nàng. Nhìn lên “ngọn nước mới sa” cánh hoa trôi nổi trên dòng nước, không biết sẽ về đâu. Thúy Kiều liên tưởng đến số phận của nàng sau này không biết sẽ thế nào. Thành ngữ “bèo dạt mây trôi” được Nguyễn Du vận dụng rất khéo léo, sáng tạo làm tăng ấn tượng về sự long đong, vô định của sự vật được miêu tả. ở đây là của Thúy Kiều hay là số phận chung của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến x¬a. Nhìn xuống mặt đất, nơi “nội cỏ dầu dầu”. Nội cỏ chứa đầy tâm trạng. Không phải là: “cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Nguyễn Trãi); cũng không phải là: “Sóng cỏ xanh tươi gợn đến trời” (Hàn Mặc Tư). Nguyễn Du rất tài hoa khi miêu tả sự vật này. Trong mỗi cảnh, mỗi tình thì ngọn cỏ lại khác nhau: khi chị em Thúy Kiều náo nức đi chơi xuân thì “Cỏ non xanh tận chân trời”; khi gặp mé Đạm Tiên – một cô ca kĩ “hồng nhan bạc mệnh” thì ngọn cỏ lại “nửa vàng, nửa xanh”. Còn ở đây thì ngọn cỏ lại “dầu dầu” trải dài đến tận chân trời, tạo cảm giác rợn ngợp, tăng thêm sự lạnh lẽo, nhỏ bé, hiu quạnh và cô đơn của Thúy Kiều nơi đất khách quê người. Cảnh chứa đựng một nỗi buồn vô vọng. chất chứa thành khối thấm đẫm vào cỏ cây mây nước” Chân mây mật đất một màu xanh”. Đây đâu phải là màu xanh của sự sống căng tràn của niềm hy vọng. Trong “Chinh phụ ngâm”, nhà thơ Đoàn Thị Điểm cũng đã từng tả màu xanh của ngàn dâu” Ngàn dâu xanh ngắt một màu” để diễn tả nỗi sâù chia ly của người chinh phụ trong mặc cảm cô đơn thăng hoa . ..
Điệp ngữ liên hoàn “buồn trông” được điệp lại bốn lần ở đầu các câu lục, nhằm nhấn mạnh nỗi buồn nhiều vẻ của Thúy Kiều. Bốn cảnh vật là bốn nỗi buồn khác nhau của nàng. Nỗi buồn bủa vây tứ phía không cho nàng lối thoát: nhìn ra xa nơi cửa bể; nhìn lên trên nơi ngọn nước mới sa; nhìn xuống dưới nơi nội cỏ dầu dầu; nhìn xung quanh với ầm ầm tiếng sóng kêu. Nguyễn Du đã theo sát từng bước chân của Kiều. Ông đã nhìn cảnh vật bằng lăng kính tâm trạng của Kiều, và phủ lên cảnh vật bằng chính tâm trạng của Kiều với những lời văn viết ra như máu chảy đầu ngọn bút. Chính vì vậy, ông đã được mệnh danh là nghệ sĩ bậc thầy về miêu tả thiên nhiên và tâm lí nhân vật. Ông đã dành cho nhân vật của mình sự cảm thông sâu sắc.
Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật phong phú, sinh động. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì vẽ một bức tranh thủy mặc, nhiều khi chỉ một ánh hoàng hôn, một ánh trăng, một thảm cỏ, một bông hoa, một dòng nước chảy…cũng thành nhạc, thành thơ. Sự hòa phối màu sắc và cách sắp xếp cảnh vật gần – xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc hòa chung vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã thổi vào thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh thiên nhiên của ông mà không bồi hồi tấc dạ. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu. Chỉ riêng lĩnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ để Truyện Kiều xứng đáng là một tác phẩm văn chương hay nhất trong kho tàng văn học nước nhà.
Học giả Đào Duy Anh nhận xét về “Truyện Kiều”: “Chúng ta sở dĩ yêu chuộng Truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lí cho đời, mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kì diệu để làm rung động hồn ta” (Khảo luận về Kim Vân Kiều). Đúng vậy những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc truyện Kiều hẳn là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì chúng ta đã có những cảm giác ấy. Truyện Kiều vì thế sống mãi với thời gian, và cũng sẽ mãi mãi là một niềm say mê lớn.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều ” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 12/2024!