Updated at: 05-01-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách phân tích Nỗi thương mình của Thúy Kiều trích Truyện Kiều Nguyễn  chuẩn nhất 11/2024.

Dàn ý : Cách phân tích Nỗi thương mình chuẩn

I. Mở bài:

  • Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.
  • Giới thiệu khái quát về đoạn trích.

II. Thân bài:

1. Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều ở lầu xanh (4 câu đầu)

– Bút pháp ước lệ, tượng trưng: bướm, ong, cuộc vui, trận cười.

→ Cảnh sinh hoạt xô bồ, tấp nập ở chốn lầu xanh.

– Sử dụng điển cố, điển tích: lá gió, cành chim, Tống Ngọc, Trường Khanh.

– Nghệ thuật tiểu đối, gợi nên sự bẽ bàng, xấu hổ của Thúy Kiều: bướm lả – ong lơi, cuộc vui – trận cười, sớm – tối

– Từ ngữ chỉ mức độ: biết bao, đầy tháng, suốt đêm.

⇒ Cuộc sống xô bồ ở lầu xanh, Kiều phải tiếp khách làng chơi suốt ngày đêm. Đây là một tình cảnh trớ trêu của cuộc đời Kiều khi bị vùi dập, chà đạp cả thể xác và nhân phẩm.

2. Niềm thương xót cho thân phận của Kiều

– Không gian: lầu xanh.

– Thời gian: tàn canh, ban đêm.

→ Thời gian, không gian nghệ thuật thích hợp để Kiều soi thấu tâm trạng của mình.

– Tâm trạng của Thúy Kiều:

  • Giật mình: bàng hoàng, thảng thốt, không tin vào cảnh sống ở thực tại của bản thân mình.
  • Thương mình xót xa.

→ Cái giật mình trân quý, làm nên nhân cách cao đẹp của Thúy kiều.

– Nghệ thuật:

  • Cặp từ đối lập “khi sao” và “giờ sao” với nghệ thuật đối giữa hai câu lục/bát ⇒ nhấn mạnh sự khác biệt: quá khứ thì êm đềm, hạnh phúc còn hiện tại thì đau đớn, phũ phàng, bị vùi dập.
  • Ngữ điệu hỏi: “mặt sao”, “thân sao”.
  • Sử dụng thành ngữ chéo: “dày gió dạn sương” (dày dạn gió sương), “bướm chán ong chường” (ong bướm chán chường) ⇒ nhấn mạnh sự ngỡ ngàng, bàng hoàng.
  • Đối lập giữa khách và Kiều.

⇒ Khi sống thật với chính mình, Kiều bàng hoàng, xót xa cho thân phận của mình và phải chăng đó cũng chính là tiếng nói đòi quyền sống cá nhân của con người trong xã hội phong kiến của Nguyễn Du- con người biết nhận thức và ý thức về hạnh phúc của mình.

3. Tâm trạng cô đơn, đau khổ của Thúy Kiều (phần còn lại)

– Cuộc sống chốn thanh lâu: có phong, hoa, tuyết, nguyệt (cảnh đẹp bốn mùa), thú vui cầm, kỳ, thi, họa.

→ Cảnh vật đối với Thúy Kiều là sự giả tạo, Kiều không tìm được tri âm, tri kỉ, nàng thờ ơ với tất cả mọi thứ xung quanh.

– Qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh: sống nơi lầu xanh dập dìu, Thúy Kiều tự thương, tự đau, tự xót xa cho thân phận của mình.

– Điệp từ vui, ai… và câu hỏi tu từ là tiếng kêu đến xé lòng của con người tài hoa bạc mệnh.

⇒ Trong chốn lầu xanh nơi mà tất cả đều phù phiếm, đồng tiền lên ngôi, Kiều vẫn cố gắng tách mình ra, tìm một tâm hồn tri âm, thể hiện khát vọng sống trong sạch của Kiều mà ta thật sự đáng trân trọng.

⇒ Nguyễn Du đề cao giá trị nhân văn, cảm thông sâu sắc với số phận của Kiều và lên án xã hội gay gắt.

III. Kết bài:

– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.

 Mẫu 1: Phân tích Nỗi thương mình hay nhất

Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em, đồng thời gửi lại mối duyên của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, những tưởng bấy nhiêu sự hy sinh ấy của Kiều đã là đến tột cùng, thế nhưng phận đời éo le, thích trêu đùa kiếp hồng nhan bạc mệnh. Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng Bích, trở thành kỹ nữ, khiến cuộc đời nàng thật sự đi vào bi kịch kinh hoàng. Sau lần tự tử và bỏ trốn không thành Kiều bị Tú Bà buộc phải tiếp khách, dần trở thành người kỹ nữ phong trần trong nỗi xót xa và tủi nhục khôn cùng.

Số phận nổi trôi của nàng Kiều khiến độc giả không khỏi thương cảm, đớn đau đúng với câu “Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Mà ở đây hơn ai hết Thúy Kiều chính là người ý thức được rõ nhất cảnh ngộ éo le của kiếp kỹ nữ trong đoạn trích Nỗi thương mình.

“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”

Mở đầu đoạn trích đó là khung cảnh chốn lầu xanh ong bướm trụy lạc, hình ảnh “bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh vô cùng dung tục, ví kỹ nữ như là những bông hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn và hoang đường. Trong chốn mua vui ấy người ta chỉ thấy hương rượu nồng quyện với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc. Mà người phụ nữ ở chốn phong trần lại trở thành thứ đồ chơi cho kẻ khác mua vui, ai đến ai đi nhiều không kể xiết, vốn là những người xa lạ thế nhưng lại có thể hiện ra những hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, má ấp bên má tựa như lá với gió, cành với chim. Người kỹ nữ ngày đêm tiếp khách cũng chẳng phân biệt sáng tối, ngày hay đêm, khách đến là ai, già hay trẻ, xấu hay đẹp, nhân phẩm, tính cách ra sao, thứ họ trao đổi chỉ là thú vui xác thịt và đồng tiền rẻ rúng, riết rồi chẳng còn nhận ra bản thân mình là ai nữa. Mà trong đoạn trích để khắc họa hình ảnh khách làng chơi Nguyễn Du đã tinh tế đưa vào hai nhân vật có thật trong lịch sử, một là Tống Ngọc nổi danh với bài Phú Cao Đường kể chuyện mây mưa của nữ thần Vu Sơn với tiên vương nước Sở, ý chỉ chuyện nam nữ hoan lạc. Hai là Trường Khanh tên tự của Tư Mã Tương Như, người gảy một khúc Phượng cầu Hoàng để quyến rũ Trác Văn Quân, một quả phụ nhan sắc tuyệt trần, cũng ý chỉ loại khách phong lưu, giỏi chuyện trăng gió. Như vậy từ những hình ảnh ẩn dụ tinh tế thông qua cách điển tích điển cố, tác giả đã tái hiện một cách tài tình khung cảnh chốn lầu xanh nhuốm màu sắc dục, cuộc sống nhơ nhớp, hỗn loạn và hoang đường của những con người nơi đây. Mà ở đó người phụ nữ trở thành thú vui, thứ đồ chơi tùy cho những kẻ có tiền sử dụng phục vụ cho những sở thích dung tục, tầm thường. Dẫu rằng chốn lầu xanh ngày ngày giăng đèn kết hoa, thế nhưng cuộc đời của người kỹ nữ luôn chìm trong tăm tối, tủi nhục và đầy xót xa cay đắng.

Còn bản thân Kiều, vốn là một tiểu thư khuê các, nào đâu biết chuyện gió trăng, tâm hồn vốn thanh cao trang nhã, tài sắc vẹn toàn, vốn tưởng sẽ phải xứng có được cuộc sống phú quý, được nâng niu cưng chiều. Thế nhưng dòng đời vốn dĩ “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, ai ngờ được sóng gió lại đẩy cuộc đời Kiều đi vào chỗ địa ngục trần gian, nhơ nhớp, dung tục đến tận cùng là lầu xanh. Ở chốn ấy Kiều đã cố hết sức mình vùng vẫy, chống cự thậm chí tìm đến cái chết, nhưng vẫn không thể thoát khỏi số phận ê chề, nhục nhã. Thế rồi sau mỗi cuộc “vui”, Kiều quay về nhìn lại tấm thân tàn tạ, lại ý thức được thân phận bọt bèo, nàng không khỏi xót xa, tự khóc thương cho bản thân mình.

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”

Hai câu thơ ấy khiến người ta chợt nghĩ đến hai câu thơ của Hồ Xuân Hương rằng “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, cũng là nỗi đớn đau cho thân phận phụ nữ, là nỗi chán chê, xót xa cho cuộc đời hồng nhan, lấy rượu để tạm quên đi nỗi đắng cay, thế nhưng lúc tỉnh thì nỗi đau ấy lại càng trở nên thấm thía và rõ ràng. Thế nhưng khác với việc Hồ Xuân Hương tự chuốc say mình để được quên sự đời, thì bản thân Thúy Kiều lại bị buộc phải say, chén đi chén lại với đủ loại khách làng chơi, ngày này qua tháng nọ, hiếm có lúc giở rượu, tỉnh giấc khi cuộc vui đã tàn, người đã tan. Kiều mới chợt giật mình, bàng hoàng nhìn lại tấm thân tàn, mà tự thấy xót xa, thương cảm đến quặn thắt cả tâm hồn.

“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”

Nỗi đau của Kiều lại càng được bộc lộ rõ nét hơn trong những câu thơ ý thức về thân phận bọt bèo. Nhắc lại chuyện “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống êm đềm trướng rủ màn che thuở trước, khi Kiều còn được sống trong sự bảo bọc của cha mẹ, nào có biết đến chốn phong trần với nỗi ê chề, xót xa đến tận cùng này. Trái ngược hẳn với mộng đẹp trong quá khứ, Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng sắc dục, buôn phấn bán hương cho kẻ chơi đùa thỏa thích, ngày ngày nở nụ cười giả tạo, lấy lòng người không quen biết. Mà Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong sạch, cuối cùng lại trở thành nơi của biết bao “bướm lả ong lơi”, bị chà đạp không thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc. Khuôn mặt khi xưa vốn dĩ ngại ngùng, e ấp, quạt hương che nửa mặt, ôm ấp chốn khuê phòng, thì nay phải ngày ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng. Nghĩ lại bản thân Thúy Kiều chỉ còn có thể thốt lên lời thở than chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, là ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình. Từ đó độc giả dễ dàng nhận ra cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều tội nghiệp.

“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”

Thế nhưng dẫu cuộc đời có chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết tựa loài sen trắng trong đầm nước “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Dẫu bốn bề chốn lầu xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến, những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy cũng chẳng đánh động được vào tâm hồn vốn đã chết lặng từ lần đầu bước chân vào nơi đây. Với những ai khác cuộc vui thâu đêm suốt sáng là “xuân” còn với nàng những thứ ấy vốn chẳng lọt vào tầm mắt, cũng chẳng thiết tha gì. Gặp cảnh khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, muốn gần gũi xác thịt mà lòng nàng như chết lặng, có lẽ bấy nhiêu đắng cay, tủi nhục đã khiến Kiều hoàn toàn buông xuôi, mặc cho cuộc đời trôi nổi giữa chốn phong, hoa, tuyết, nguyệt rực rỡ, thơ mộng nhưng ẩn chứa là sự dung tục, tầm thường này.

 Mẫu 2: Phân tích Nỗi thương mình đa dạng nhất

Đoạn trích Nỗi thương mình là tâm trạng xót xa, ê chề của nàng Kiều khi rơi vào hoàn cảnh éo le đầy nhục nhã tại lầu Ngưng Bích và bắt đầu những ngày tháng trở thành kỹ nữ, chứng kiến cảnh mua vui trụy lạc, mà rớt nước mắt xót thương “Đau đớn thay cho phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Đoạn trích nằm từ câu 1229 đến câu 1248, trong phần Lưu lạc của Truyện Kiều. Bắt đầu khi Mã Giám Sinh đưa Kiều về đến lầu xanh của Tú Bà, Kiều biết mình bị lừa, để tránh thoát số kiếp kỹ nữ mua vui, Kiều bèn nhắm mắt định quyên sinh nhưng không chết, lại được Đạm Tiên báo mộng nàng vẫn chưa thoát khỏi sổ đoạn trường. Đành lòng Kiều nhẫn nhục ra ở tạm lầu Ngưng Bích, rồi mắc mưu của Sở Khanh, bỏ trốn không thành, bị Tú Bà bắt về đánh đập dã man và lấy cớ ép Kiều tiếp khách.

“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”

Mở đầu là cảnh chốn lầu xanh ăn chơi hoang lạc, hoàn toàn xa lạ, ngoài sức tưởng tượng của nàng Kiều. Với “bướm lả, ong lơi”, đầy dung tục tầm thường, hành động suồng sã, trêu ghẹo của khách làng chơi cùng với những bóng hồng lả lướt mời gọi của kỹ nữ, như ong vờn bướm đầy ngả ngớn. Không gian ngập tràn trong ánh đèn nến đỏ đỏ hồng hồng, cùng những “trận cười suốt đêm”, cùng với hương rượu nồng đượm từ “cuộc say đầy tháng”, không phân biệt ngày đêm, ồn ào, buông thả và náo nhiệt. Hình ảnh nam nữ vốn chẳng quen biết “dập dìu” tựa sát vào nhau như “lá gió, cành chim”, rồi cảnh kỹ nữ tiếp khách suốt ngày đêm, chẳng phân biệt ai ra ai, công việc cứ tuần hoàn không có điểm dừng, đến nỗi họ quên mất cả bản thân mình là ai. Nguyễn Du đã rất tài tình khi đưa hai nhân vật trong điển tích văn chương là Trường Khanh, Tống Ngọc, vốn nổi danh với tính phong lưu, thích tầm hoa vấn liễu để giúp người đọc thấy được Kiều tiếp những đối tượng thường là phong lưu tài tử. Chỉ bằng vài câu thơ ngắn gọn, súc tích, tác giả đã khắc họa rõ nét cuộc sống nhơ nhớp, trụy lạc ngập tràn sắc dục và ê chề nơi lầu xanh, nơi phụ nữ được xem là thứ đồ mua vui, thỏa mãn thói hoang lạc tầm thường của những kẻ lắm tiền nhiều của. Cũng chính trong đoạn thơ này, dưới tầm mắt quan sát thấu đáo của Kiều, cho thấy nàng có ý thức rất cao về nhân phẩm cũng như thân phận của mình.

Kiều vốn được Nguyễn Du xây dựng như một hình mẫu người phụ nữ lý tưởng tài sắc vẹn toàn, nhưng xót xa thay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, một con người thanh cao trong trẻo đến vậy, số mệnh lại đẩy đưa vào nỗi nhớ nhấp, tầm thường nhất. Kiều vùng vẫy, chống lại số phận, không chấp nhận làm một kỹ nữ dơ bẩn mặc người chơi đùa, ở nàng hiện lên cái đức tính cao đẹp của loài hoa sen thuần khiết “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nhưng Kiều bất lực trước hoàn cảnh éo le của mình, Kiều buộc phải chấp nhận sự thật, tự khóc thương cho bản thân.

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”

Kiều đã cố quên đi nỗi đau đớn tủi nhục, trong men rượu, nhưng có ích gì khi, canh tan rượu tàn, còn lại tấm thân rã rời, đến Kiều cũng phải “giật mình” mà tự “thương mình xót xa”. Nhịp thơ trong câu lục, là nhịp 3/3 chậm rãi, nhịp nhàng, diễn tả cuộc sống chán chường, đằng đẵng vô tận, đến câu bát thì nhịp thơ 2/2/2/2 nhanh hơn, Kiều bàng hoàng tỉnh lại, nhận lấy nỗi đớn đau tận tâm can, như vặn xoắn lấy tâm hồn.

Những câu thơ tiếp là dòng hồi tưởng đầy xót xa, chua chát của Kiều khi so sánh cuộc sống nhung gấm, thanh cao trước đây cùng với thực cảnh tủi nhục, nhơ nhớp chốn lầu xanh, ong bướm lả lơi.

“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”

Nhớ khi xưa kia khi còn là tiểu thư đài các, cầm kỳ thi họa môn nào cũng tinh thông, lại được sống trong “phong gấm rủ là”, là viên minh châu, được cha mẹ nâng niu, chiều chuộng, thân ngọc ngà chẳng nhiễm một hạt bụi trần. Nhưng nay hiện thực tàn khốc, Kiều tự ví tấm thân “tan tác như hoa giữa đường”, một đóa Mẫu đơn xinh đẹp nay bị chốn lầu xanh vùi dập không thương tiếc. Ngày trước, nàng nào phải lộ mặt tiếp xúc với nam tử, hay người lạ bao giờ, còn nay thì “Mặt sao dày gió dạn sương”, đã chẳng còn biết xấu hổ, hay e lệ phép tắc, lễ nghĩa, bởi trong chốn phong nguyệt này những thứ đó thật nực cười. Chính Kiều cũng cảm thấy tấm thân mình chẳng còn trong sạch, vốn đã “bướm chán ong chường”, rẻ mạt đến thế. Để thấy được Kiều đã có một cuộc sống đày đọa, vừa ê chề nhục nhã về thể xác, vừa tủi hổ trong tâm hồn, buồn xót cho một số phận tài hoa nhưng mệnh đời bạc bẽo quá. Việc Nguyễn Du sử dụng các thành ngữ lồng ghép, đan chéo vào nhau càng tăng thêm sức biểu cảm, từng câu từng chữ như ghim vào lòng người đọc, thấm đượm nỗi xót thương cho số phận của nàng Kiều tội nghiệp.

“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.”

Nhưng dù xã hội có cố vùi dập nàng xuống lớp bùn hôi tanh, dù tấm thân nàng đã vướng bụi đời, nhưng tâm hồn hồn nàng vẫn thanh khiết, giữ vững cốt cách của loài sen trắng. Kiều thờ ơ với mọi cuộc hoan lạc “mưa Sở mây Tần”, nàng chẳng lấy gì làm vui thú, có gì để vui đây? Khi những khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, cho gần gũi thân mật, nhưng thật giả dối và ghê tởm quá. Lòng Kiều như chết lặng, Kiều không phản kháng, cũng không còn muốn phản kháng, bởi đau đớn và tủi đã cướp đi hồn nàng, Kiều chỉ đang tồn tại, tồn tại giữa chốn lầu xanh phồn hoa nhất, cũng thấp kém nhất. Cảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt đẹp đẽ có đủ cả, nhưng cũng chẳng thể che lấp đi sự nhơ nhớp, trụy lạc của chốn phong trần phóng túng.

Hỏi chăng trong lòng vốn đã đau xót, buồn tủi thì cảnh có đẹp tuyệt trần đi chăng nữa, thì người cũng có vui được không? Thế Nguyễn Du mới có câu thơ: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”. Tâm trạng u uất của Kiều dường như lan tràn sang cả cảnh sắc xung quanh, nơi đây cũng nào thiếu những thú vui cầm, kỳ, thi, họa, cũng thanh tao cao nhã một cách đầy mỉa mai, khi chốn dung tục mà cũng “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”. Chính vì vậy lòng Kiều càng không vui nổi, có chăng là cái cười gượng gạo “Vui là vui gượng kẻo là”. Cười ở đây là nụ cười chua chát, mặn đắng bờ môi, chắc rằng lòng Kiều đang nhỏ lệ, có câu buồn quá hóa cười, cười vì số phận trêu ngươi, cười vì chán chê cái thân phận phụ nữ đầy ngang trái, trắc trở. Nỗi đau khổ của Kiều qua đoạn thơ này được Nguyễn Du thể hiện bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, càng thêm thấm thía, sâu sắc hơn trong từng câu chữ. Câu thơ cuối như một lời hỏi bâng quơ “Ai tri âm đó mặn mà với ai?”, Kiều chẳng mong câu trả lời, bởi trong chốn phong trần này, sẽ chẳng ai thấu hiểu cho nỗi đau này của nàng.

 Mẫu 3: Phân tích Nỗi thương mình đầy đủ nhất

Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người

Sau khi Thúy Kiều đánh tiếng sẽ bán mình để chuộc cha ra khỏi chốn ngục tù, Mã Giám Sinh nhờ mối lái dẫn đến, giả danh cưới Kiều làm vợ lẽ. nhưng thực ra y mua nàng về cho nhà chứa của Tú Bà. Khi biết mình bị lừa, Thúy Kiều quyết liệt chống lại âm mưu tàn ác của chúng. Nàng rút dao định tự sát, nhưng không chết. Trong cơn mê, Thúy Kiều thấy hồn Đạm Tiên hiện về báo cho biết nàng chưa thoát được số đoạn trường nên đành phải nghe lời dỗ dành của Tú Bà ra tạm ở lầu Ngưng Bích. Sở Khanh, tên tay sai của Tú Bà đã lập mưu rủ nàng đi trốn. Kiều nhẹ dạ nghe theo, bị Tú Bà bắt về đánh đập rất dã man và buộc nàng phải tiếp khách.

Đoạn trích Nỗi thương mình từ câu 1229 đến câu 1248 của Truyện Kiều miêu tả tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Điểm đặc thù của đoạn trích này là tác giả viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy Kiều khi bị buộc làm kỹ nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du phải đối diện với một thực tế phũ phàng là xã hội vạn ác đã đồn đẩy nhân vật mà ông trân trọng, yêu mến vào chốn thanh lâu. Làm thế nào để vẫn phản ánh được sự thật mà không hạ thấp nhân vật. vẫn thể hiện được thái độ cảm thông của mình và nói lên được sự đau khổ, thương thân xót phận của nhân vật. Nguyễn Du phát huy mặt mạnh của bút pháp ước lệ cùng nghệ thuật sử dụng ngôn từ chọn lọc vừa phù hợp vừa chính xác để giải quyết vấn đề nan giải này. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng:

Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.

Những ẩn dụ như bướm lả, ong lơi, lá gió, cành chim, hình ảnh cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh, hai vị khách phong lưu nổi tiếng đã khắc họa được cảnh sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ ở chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tì ra ấy, nổi bật lên hình ảnh một nàng Kiều cô đơn, buồn tủi.

Các hình thức đối xứng trong câu như bướm lả/ong lơi, lá gió/cành chim được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm tô đậm nỗi thương thân, xót phận của Thúy Kiều và gây cảm giác đau đớn. Xót xa thực sự cho người đọc.

Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp chốn thanh lâu vừa ẩn chứa tiếng thở dài não ruột của người con gái tài sắc buộc phải làm kĩ nữ. Tác giả xót thương Thúy Kiều rơi vào chốn bùn nhơ, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó, Thúy Kiều đã ý thức rất rõ về nhân phẩm cao quý của mình.

Thúy Kiều là một người con gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lý tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ đến. Thúy Kiều đã cố vùng vẫy để được giải thoát, nhưng càng vùng vẫy lại càng bế tắc. Nỗi đau “trần thế’’ đối với một người Mai cốt cách, tuyết tinh thần như Thúy Kiều dường như nhân lên gấp bội: vì hơn ai hết, nàng không bao giờ chấp nhận cuộc sống sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh. Do đó, khi thể hiện tâm trạng Thúy Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã dồn hết cảm xúc xót thương vào ngòi bút.

Nhà thơ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa

Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.

Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa trong dạ người con gái đang lênh đênh, lưu lạc nơi đất khách.

Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình/mình lại/thương mình/xót xa. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng thảng thốt của Thúy Kiều. Từ “mình” mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà gợi cảm giác nặng nề bởi nó được lặp lại tới ba lần trong một câu thơ có nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.

Thúy Kiều giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận và tình cảm thảm hại của mình lúc này. Hai câu thơ tả tâm lí trên có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hòa, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.

Nỗi thương mình là cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi vào chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh “chân trời góc biển bơ vơ”, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau cô độc giữa lũ quỷ mặt người nên Kiều có cảm giác mình lại thương mình xót xa là vậy!

Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.

Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:

Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: Khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên giọng thơ mà nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là các thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen. Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa đày.

Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.

Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kỳ, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.

 Mẫu 4: Phân tích Nỗi thương mình đa dạng nhất

Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thuý Kiều: “Khi lai láng tình thơ, người tựa áng khen tài châu ngọc; Khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; Khi đất nổi ba đào cửa nhà tan tác; Khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; Khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ cùng tê lưỡi…”. Thuý Kiều đã trải qua hầu hết những nỗi đau khổ tái tê nhất của người phụ nữ dưới thời phong kiến. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá. Điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm.

Vận mệnh và tính cách có màu sắc bi kịch của nàng Kiều quán xuyến toàn bộ nội dung tác phẩm. Nhan sắc “nghiêng nước, nghiêng thành”, tài đàn tuyệt diệu, tài thơ mẫn tiệp của nàng rút cục cũng không chống lại được hoàn cảnh. Nàng rơi vào bẫy của Tú Bà và buộc phải tiếp khách làng chơi:

Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười thâu đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với thủ pháp đối xứng, đan chéo để vừa thể hiện được một thực tế xót xa, thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ, vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật Thuý Kiều, qua đó thể hiện thái độ trân trọng đầy cảm thông đối với nhân vật của mình.

Thân phận nàng Kiều bị cuộc sống lầu xanh cuốn đi, đọa đầy tưởng bị nhấn chìm trong chốn bùn nhơ không cất đầu lên được. Nhưng nỗi đau đớn của nàng, tâm sự thương mình của nàng, ý thức về nhân phẩm của nàng khiến ta chỉ càng thương nàng hơn, càng trân trọng nàng hơn. Hãy lắng nghe những tâm sự của nàng sau những “cuộc vui”, những “trận cười”:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Vẫn không gian lầu xanh của Tú bà nhưng thời gian đã là “lúc tàn canh” – đêm khuya, thời khắc hiếm hoi, quý giá để con người mình được đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình. “Giật mình mình lại thương mình xót xa”, ba chữ “mình” trong một câu thơ gợi ra tất cả sự cô độc của thân phận. “Giật mình” như một sự bàng hoàng, thảng thốt đau đớn. “Giật mình” vì thấy ghê tởm cho cảnh sống truỵ lạc chốn lầu xanh. “Giật mình” cho chính bản thân, một thiếu nữ khuê các nết na sống trong cảnh “phong gấm rủ là” nay rơi vào cảnh “bướm chán ong chường”. “Giật mình” hay “rùng mình”, bởi tấm thân “gìn vàng giữ ngọc” cho Kim Trọng giờ đành để khách làng chơi giày vò. Vì thế mà bốn chữ “mình lại thương mình” chìm xuống, giọng thơ đầy thấm thía cô đơn xót xa. Bốn câu hỏi liên tiếp là nỗi niềm dằn vặt, tự đau, tự thương cự độ của “nỗi thương mình”:

Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Trong bốn câu chỉ có câu đầu nói về quá khứ êm đềm còn ba câu liên tiếp nói về thực tại phũ phàng. Điều đó gây ấn tượng về việc hiện tại đang đè nặng, chôn vùi quá khứ. Bốn từ “sao” lặp lại: “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” là những câu hỏi manh sắc thái cảm thán mạnh bộc lộ nỗi đau xót đến cùng cực trong nỗi đọa đày ê chề. Lời thơ vừa tức tưởi vừa ai oán, vừa xa xót vừa nghẹn ngào.

Nỗi thương mình của Thuý Kiều có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Người phụ nữ xưa được giáo huấn theo tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi. Khi con người biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì không còn nhẫn nhục cam chịu nữa mà đã ý thức rất cao về phẩm giá và nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của bản thân.

Thương thân xót phận là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…). Nguyễn Du là người viết về cảm hứng này sâu sắc và thấm thía hơn cả. Thương thân mình là một cách phản ứng với hiện thực của thân phận. Điều đó cho thấy con người không bị tàn đi, không bị cuốn theo, không bị huỷ diệt. Giữa chốn lầu xanh nhơ nhớp, Kiều tách ra như một điểm sáng về tâm hồn. Chính vì vậy mà Từ Hải, Kim Trọng, Nguyễn và người đọc bao thế hệ đều rất trân trọng nàng.

 Mẫu 5: Phân tích Nỗi thương mình hay nhất

Đại thi hào Nguyễn Du viết nên kiệt tác Truyện Kiều giống như đã đóng góp viên ngọc sáng trong nền văn học Việt Nam. Lật dở từng trang truyện Kiều giống như từng chặng đường đời của người con gái “hồng nhan bạc mệnh” thân phận chịu nhiều đau thương, mất mát. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là đoạn trích bi ai nhất về nàng Kiều khiến người đọc không khỏi xót xa.

“Nỗi thương mình” kể về chuỗi ngày nhiều đau đớn và nước mắt của Thúy Kiều khi cuộc đời bị đẩy vào chốn lầu xanh bị đè ép dưới tay của mụ Tú Bà ghê tởm. Cuộc đời nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. Nguyễn Du như xé lòng khi kể từng trang viết về cuộc đời Thúy Kiều, câu mở đầu như vén bức màn u tối mà Kiều đang phải sống những tháng ngày ô nhục trong đó:

Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh

Bằng cách sử dụng những hình ảnh ước lệ như “bướm lả ong lơi”, “cuộc vui”, “trận cười suốt đêm… đã hiện lên trước mắt người đọc cảnh ong bướm nhộn nhịp chốn lầu xanh kia. Nơi mà con người đem ra giống hàng hóa để trao đổi buôn bán làm thú vui xa hoa, cảnh làng chơi với các nhân vật Tống Ngọc và Trường Khanh thấy đậm nét hơn cuộc sống nơi đây. Người con gái nhỏ bé có số phận gắn với nơi này luôn ấp ủ trong mình một nỗi xót mà người đời không hay:

Khi tỉnh rượu lúc canh tàn
Giật mình, mình lại thương mình xót xa

Nàng lấy rượu để giải sầu, để tâm hồn nàng được thoát khỏi nơi đây. Những lúc rượu tỉnh vào đêm khuya vắng nàng mới “giật mình” rồi tự “thương mình xót xa”. Phép điệp từ “mình” của Nguyễn Du đã gieo vào lòng người một nỗi xót xa, thương thay cho số phận người con gái long đong, bạc bẽo phải nương nhờ chốn phong trần.

Những câu thơ tiếp theo là những năm tháng khi thân xác nàng Kiều phải chịu nỗi dơ bẩn, tuyệt vọng:

Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân

Số phận ấy không ai thương thay nên Thúy Kiều đành tự ôm nỗi lòng thương lấy chính mình mà chỉ biết sầu đau. Nguyễn Du lấy hình ảnh “hoa tàn” để nói lên cuộc đời bị chà đạp, vùi dập của người con gái mỏng manh. Người con gái đẹp như bông hoa đang nở rộ phơi sắc vậy mà cánh hoa bị dẫm đạp héo úa không chút thương xót. Qua đây tác giả cũng đã phê phán được xã hội bất công, xã hội còn tồn tại quá nhiều định kiến, chỉ toàn những cái xấu xa không cho người khác một đường để sống.

Thúy Kiều tuyệt vọng đến mức tưởng mình đã chết lặng:

Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa

Giữa chốn lầu xanh nàng lấy thơ, lấy họa, lấy đàn làm bạn để không cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Nhưng dù vậy thì lòng nàng cũng không khỏi u sầu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” không gian của nỗi buồn vẫn bao phủ lấy nàng khiến nỗi sầu gieo càng sầu thêm.

Nguyễn Du viết nàng Kiều tuy đã cố gắng “gượng” sống mà cũng như đã chết, đây thực sự là đoạn ám ảnh nói lên cuộc đời cay nghiệt:

Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai

Như vậy chỉ với mấy câu thơ nhưng Nguyễn Du như nén hết cảm xúc trong đó để xót xa cùng thân phận cuộc đời của nàng Kiều bạc mệnh. Đây là nhân vật đã lấy đi bao nước mắt của tác giả cũng như người đọc.

Vẫn chủ đề quen thuộc vẫn là những số phận nhỏ bé của người phụ nữ nhưng đến Nguyễn Du ông đã dùng cây bút của mình viết nên vần thơ tựa như lời bộc bạch thấm thía, sâu sắc vô cùng. Dường như hình ảnh Thúy Kiều hiện thân cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được đặc tả tinh tế nhất. Nỗi thương mình là nền tảng của lòng thương người, ông tự thương lấy chính cuộc đời ông và đồng cảm với nàng Kiều sống giữa chốn bụi trần đầy rẫy những lưỡi dao cắt xé lòng.

Đoạn trích “Nỗi thương mình” mang đậm chất bi thương vừa là chuỗi hành trình kể lại từng mảnh đời của Thúy Kiều vừa là lên án được xã hội vạn ác đã chồng chất bao nỗi khổ đau lên một kiếp người.

 Mẫu 6: Phân tích Nỗi thương mình chi tiết nhất

Trong văn học Việt Nam, đặc biệt là với giai đoạn văn học trung đại, số phận người phụ nữ được rất nhiều tác giả đề cập đến: Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Nguyễn Dữ,… Nhưng xuất sắc nhất phải kể đến là Nguyễn Du và kiệt tác “Truyện Kiều”. Tác phẩm đã khắc họa rõ nét thân phận nhỏ bé, đáng thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là một trong những phân đoạn thể hiện sâu sắc nhất cuộc đời đau khổ của nàng Kiều tài hoa bạc mệnh.

Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải báo sự lừa lọc nhưng lần nàng bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Đó là bước ngoặt khiến cuộc đời Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề, nhục nhã của Kiều trong vai trò kĩ nữ – gái làng chơi, đem tấm thân mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò khi nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan. Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du đi miêu tả cảnh ăn chơi trác táng ở chốn lầu xanh:

“Lầu xanh mới rủ trướng đào
Cành treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười thâu đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Những cuộc say sưa, những trận cười, cảnh đưa rước,… tất cả những cuộc vui đó cứ kéo dài ra quanh năm suốt tháng. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với thủ pháp đối xứng, đan chéo để vừa thể hiện được một thực tế xót xa, thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ, vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật Thuý Kiều, qua đó thể hiện thái độ trân trọng đối với nhân vật của mình.Kiều bị đọa đầy, nhấn chìm trong chốn bùn nhơ không cất đầu lên được. Nhưng nỗi đau đớn của nàng, tâm sự thương mình của nàng, ý thức về nhân phẩm của nàng khiến ta chỉ càng thương nàng hơn, càng trân trọng nàng hơn. Sau những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng, Kiều bỗng “giật mình”, xót xa khi nghĩ đến thân phận của chính mình:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.”

Vẫn không gian lầu xanh của Tú bà nhưng thời gian đã là “lúc tàn canh”- đêm khuya, thời khắc hiếm hoi, quí giá để con người mình được đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình. Tỉnh rượu, tàn canh là lúc con người sống thật với lòng mình nhất, tự thức về những hành động của mình, ý thức về những điều chua chát, đắng cay của bản thân mình. Và một khi đã ý thức được những hành động của mình thì đó cũng là lúc nhân phẩm của con người trỗi dậy, là nhân phẩm, bản chất tốt đẹp của nàng Kiều. “Giật mình mình lại thương mình xót xa”, ba chữ “mình” trong một câu thơ gợi ra tất cả sự cô độc của thân phận. “Giật mình” như một sự bàng hoàng, thảng thốt đau đớn. “Giật mình” vì thấy ghê tởm cho cảnh sống hiện tại. “Giật mình” cho chính bản thân, một thiếu nữ khuê các nay rơi vào cảnh “bướm chán ong chường”, tấm thân vàng ngọc giờ đành để khách làng chơi giày vò. Vì thế mà bốn chữ “mình lại thương mình” chìm xuống, giọng thơ đầy thấm thía cô đơn xót xa. Bốn câu hỏi liên tiếp là nỗi niềm dằn vặt, tự đau, tự thương cự độ của “nỗi thương mình”:

Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Trong bốn câu chỉ có câu đầu nói về quá khứ êm đềm còn ba câu liên tiếp nói về thực tại phũ phàng. Điều đó gây ấn tượng về việc hiện tại đang đè nặng, chôn vùi quá khứ. Bốn từ “sao” lặp lại: “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” là những câu hỏi mang sắc thái cảm thán mạnh bộc lộ nỗi đau xót đến cùng cực trong nỗi đọa đày ê chề. Lời thơ vừa tức tưởi vừa ai oán, vừa xa xót vừa nghẹn ngào. Một lời than, sự ngạc nhiên, sự dằn vặt và ẩn đằng sau là nỗi tủi thân chua xót đến cùng cực mà trước đó là cuộc sống êm đềm hạnh phúc kẻ đón người đưa, tinh khôi, nõn nà, thơm tho…và bây giờ chỉ là một bông hoa tan tác, bị vùi dập giữa đường, bị ngắt khỏi cành bị lìa khỏi cội. Một cuộc sống thật phũ phàng, một cuộc đời bi thảm với cảnh tượng giày vò mua đi bán lại:

Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Ở đây không đơn thuần chỉ là sự so sánh. Hai từ sao đặt liền câu trước, câu sau tạo nên sự cách biệt, một nhân vật thành hai nhân vật, hai thân phận. Khi sao -giờ sao đây là hai khoảng thời gian cách biệt khác nhau cộng lại là nỗi chua xót đắng cay tủi thân đến vô bờ:

Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.

Biểu hiện tại dày gió dạn sương nỗi buồn chán tăng lên gấp bội. Nói đến mặt là nói đến tâm hồn, thế mà giờ đây mặt trơ trơ. Nàng nhớ đến hành vi đã qua cay đắng tủi nhục khôn cùng chỉ khi tâm hồn chết theo thì Kiều mới sống được ở chốn lầu xanh này mà chỉ có thể quên đi những gì êm đềm tốt đẹp trước đây, một thời trướng phủ màn che quên đi bản thân mình thì Kiều mới có thể tồn tại được trong xã hội này. Như vậy sống trong cái xấu Kiều ý thức được cái xấu chứng tỏ lòng Kiều luôn hướng về cái tốt. Chạy trốn hiện thực không được Kiều đành lòng quay về với thực tại. Nguyễn Du miêu tả khung cảnh nơi Kiều sống:

“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai”.

Khung cảnh thiên nhiên nơi Kiều sống sang trọng tươi đẹp có đủ phong tuyết nguyệt hoa. Nơi Kiều sống có gió vi vu thổi có hoa đua nhau khoe sắc có trăng thu vằng vặc có tuyết giăng. Cảnh đẹp bốn mùa hội tụ nơi đây. Ở chốn thanh lâu còn có đủ các thú vui tao nhã như: Cầm kì thi họa. Các thú vui đó tô điểm cho bức tranh thêm sống động. Nhìn bề ngoài cứ tưởng đây là chốn Bồng Lai tiên cảnh. Tài của Nguyễn Du thể hiện ở việc dùng cảnh vật để diễn tả nội tâm của con người.

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Kiều gần cái đẹp mà không thưởng thức được vẻ đẹp. Sống trong cuộc vui mà không tận hưởng được niềm vui vì “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tâm trạng con người chi phối cảnh vật. Bằng sự thông cảm, bằng tài năng kì diệu Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ rất hay diễn tả mối quan hệ giữa cảnh và tình. Nỗi thương mình của Thuý Kiều có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Người phụ nữ xưa được giáo huấn theo tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi. Khi con người biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì không còn nhẫn nhục cam chịu nữa mà đã ý thức rất cao về phẩm giá và nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của bản thân.

Thông qua việc miêu tả đoạn trích Kiều tự thương mình Nguyễn Du đã đặc biệt thành công trong việc miêu tả tâm trạng của Kiều. Thiên nhiên với con người làm một, cảnh hòa với tình, Nguyễn Du có được thành công ấy là do tác giả đã vận dụng sự hiểu biết của mình về cuộc đời trong việc xây dựng, khám phá nội tâm nhân vật như nghệ thuật sử dụng từ ngữ một cách chính xác, lựa chọn, sáng tạo hình ảnh phù hợp với hoàn cảnh. Khi xây dựng nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với nhân vật đồng thời qua đó tác giả cũng lên án, phê phán xã hội một cách sâu sắc.

 Mẫu 7: Phân tích Nỗi thương mình đa dạng nhất

“Nỗi thương mình” (Truyện Kiều) là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa những lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành.

Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kỹ nữ – gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan. Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đời đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm đầy đau đớn : “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngổn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi nàng sánh với quá khứ. Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:

“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ được hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiểu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy được sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh, nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra.

Bằng những hình ảnh ẩn dụ: bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du cho thấy tình cảnh của Thúy Kiều tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày Kiều phải làm công việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại khách đến mua vui. Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều. Bút pháp ước lệ giúp Nguyễn Du không tránh né số phận thực tế của Kiều mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật.

Ông đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.

Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường, trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục, nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có một khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Kiều. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phũ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình.

Giật mình không chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong mà nếu không có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc. Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nỗi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:

“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”

Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đến mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao/giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.

Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rủ màn che” thì lập tức thực tại phũ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây được Nguyễn Du sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phũ phàng, tàn nhẫn. Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vọng của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bây giờ đã chán ngán tất cả”:

“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”

Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách làng chơi (số nhiều) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ ”xuân” ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kĩ nữ mua vui. Từ ”mặc” ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.

“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”

Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong – hoa – tuyết – nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm – kì – thi – họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chống “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.

Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái… Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Bằng sự thông cảm lạ lùng, và bằng tài năng kì diệu, Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi lòng, cảm xúc của Thúy Kiều, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đều trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương.

“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế.

Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy xót xa cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.

Đoạn trích thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính cách của Thúy Kiều. Thể hiện tập trung tư tưởng nhân văn của tác giả: cảm thương trước bi kịch của Kiều, khẳng định nhân cách đẹp đẽ của nàng và khẳng định sự ý thức về nhân phẩm và sự ý thức cá nhân. Thể hiện nỗi thương mình của Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả – nhân vật – người đọc.

 Mẫu 8: Phân tích Nỗi thương mình hay nhất

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩm Truyện Kiều là một tuyệt phẩm tạo nên tên tuổi của thi hào Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều thể hiện tinh thần nhân văn nhân đạo của tác giả Nguyễn Du dành cho số phận của những người phụ nữ trong xã hội.

Đoạn trích “Nỗi thương mình” nói về chuỗi ngày đau đớn thể hiện nước mắt của Thúy Kiều khi nàng bị nhân vật Sở Khanh lừa tình và bị bán thân vào chốn lầu xanh, dưới sự quản lý dẫn dắt của mụ Tú Bà chuyên kinh doanh kiếm lợi từ thân xác phụ nữ một cách ghê tởm. Trong những ngày tháng sống vẩn đục, ô nhục đó thông qua ngòi bút của mình tác giả Nguyễn Du đã viết lên những dòng thơ với những lời thương cảm vô cùng sâu sắc dành cho Thúy Kiều:

“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Khổ thơ mở ra những hình ảnh về chốn ăn chơi, lả lơi ong bướm thể hiện đây là chốn phong lưu, đưa tình, một nơi không có chỗ cho tình yêu thật sự mà chỉ là chốn rong chơi, mua bán nụ cười giả tạo. Một chốn đưa người cửa trước rước người cửa sau của những cô gái làng chơi. Những hình ảnh ước lệ “Cuộc chơi” “ong bướm” “dập dìu” .. khiến cho người đọc cảm nhận được sự nhộn nhịp, của chốn mua vui. Một nơi kinh doanh thân thể phụ nữ.

“Khi tỉnh rượu lúc canh tàn
Giật mình, mình lại thương mình xót xa”

Trong không gian của chốn ăn chơi đàng điếm này Thúy Kiều cảm thấy xót xa cho thân phận của mình nàng là người xuất thân con gái nhà lành, được cha mẹ cho ăn học đàng hoàng, bản chất lương thiện hiền lương, có đức hạnh, hiếu nghĩa. Có lẽ nằm mơ Thúy Kiều cũng không bao giờ nghĩ sẽ có ngày mình lại lưu lạc phải sống kiếp phong trần của gái giang hồ như thế này. Bị bao nhiêu người con trai chà đạp, bị vần vò cả về thể xác lẫn tâm hồn.

Thúy Kiều sống mà phải mang nụ cười giả tạo, tiếng đàn để mua vui cho những gã đàn ông đốn mạt trốn vợ con đi tìm thú vui hưởng lạc, hoặc những tay công tử ăn chơi lắm tiền nhiều của nhưng ngu si hống hách, chỉ biết tiêu tiền của bố mẹ. Trong không khí như vậy Thúy Kiều chỉ biết mượn rượu giải sầu. Nàng muốn uống cho quên đi tất cả quên ngày tháng, quên thời gian, quên đi cha mẹ già ở quê nhà, quên chàng Kim Trọng mà nàng đã hứa trọn tình bên nhau.

Nhưng rượu uống thì “say” lúc đó, nhưng khi tỉnh lại nàng lại thấy “Giật mình, mình lại thương mình xót xa”. Trong một câu thơ nhưng tác giả Nguyễn Du đã sử dụng tới ba chữ mình thể hiện trạng thái khác nhau. Trong hai từ ‘Giật mình” thể hiện một hành động bất ngờ trước sự vật sự việc nào đó. “Mình lại” thể hiện danh từ nhân xưng mình, em, tôi, tớ trong bất kỳ một câu nói nào đó. Nỗi thương mình của Thúy Kiều “Thương mình” thể hiện tình cảm cô liêu, sự cô độc một mình. Hành động này thể hiện sự cô đơn, sự chua chát của Thúy Kiều dành cho mình trong những ngày tháng chốn phong trần nhơ nhuốc này.

“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”

Không có ai hiểu nàng, không có ai xót xa cho thân phận của nàng nên Thúy Kiều tự mình thương mình. Nàng cảm thấy mình thật bất hạnh. Những cuộc vui chốc lát nhanh chóng tàn nhanh, rồi người cũng đi, chỉ còn lại sự quạnh quẽ cô liêu, chỉ còn nàng trong sự ủ ê chán chường. Một xã hội đầy bất công, nhơ nhuốc đã cướp đi hạnh phúc bình dị của một người con gái hiền lương đẩy nàng tới chốn này để rồi bị sống cảnh đời “vùi hoa dập liễu” cả thân xác và tâm hồn.

Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngân bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa

Trong chốn hồng trần ăn chơi sa đọa này Thúy Kiều không có người tâm sự không có bạn tri kỷ. Nên nàng chỉ biết bầu bạn với thơ ca, đàn nhị. Nhưng những tiếng đàn dường như ai oán hơn, những vần thơ đẫm nước mắt khiến cho nàng cảm thấy mình sống đây mà như đã chết lâu rồi. Trong những câu thơ này tác giả đã sử dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để khắc họa tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.

Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai

Niềm vui của nàng chỉ là niềm vui của sự gượng cười mà thôi còn tâm hồn nàng đã chết từ lâu rồi. Trong trích đoạn này tác giả Nguyễn Du đã khiến cho người đọc cảm thấy rưng rưng lệ, cảm thương cho số phận của nàng Kiều khi sống những ngày sống nhơ nhuốc, vẩn đục ở chốn lầu xanh, phải mua vui cho những người đàn ông xa lạ.

Thử thách lớn nhất và cũng là bi đát nhất của Thúy Kiều chính là hoàn cảnh mà nàng đã bị đẩy vào: làm kĩ nữ chốn lầu xanh. Nói gì đến giữ gìn danh tiết với Kim Trọng, trong hoàn cảnh ấy, ngay cái nhân cách tối thiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào để giữ cho khỏi bị mai một được? Làm thế nào để viết về thực tế ấy – thực tế của cái cảnh “sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn thể hiện được nhân cách của nhân vật, vẫn bộc lộ được thái độ trân trọng, sự cảm thông, vẫn nói lên được sự đau khổ, thương thân phận mình của nhân vật? Tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn trong đoạn trích “Nỗi thương mình”.

“Rường cao rút ngược dây oan
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”

Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên: “Thân lươn bao quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ – gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của Kiều trong thời gian ấy.

Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác của Thanh Tâm tài nhân thì trọng tâm của đoạn này: một mặt là bài ca kể về thân phận Thúy Kiều từ khi gia biến đến khi bị Sở Khanh lừa và phải đồng ý tiếp khách, mặt khác tập trung vào lời dạy của Tú Bà về nghề kĩ nữ. Đến Nguyễn Du, cách xử lí nghệ thuật đã có sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ của cách xử lí nghệ thuật độc đáo ấy là cách nhìn mới mẻ và chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ của nhà thơ.

Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là “Những nỗi lòng tê tái”. Trong sách giáo khoa mới, “Nỗi thương mình” chỉ vẻn vẹn 20 câu nhưng đã nói lên tất cả nỗi tê tái của Kiều nhưng quan trọng hơn là đoạn trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu sắc và tiến bộ: ý thức về thân phận, phẩm giá của nàng Kiều – ý thức thương thân, xót thân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam.

Có một bài toán “nan giải” đặt ra với Nguyễn Du: tác giả muốn tố cáo một cách sâu sắc nơi đã vùi dập Kiều, những thân phận như Kiều. Đó cũng là một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến mà Kiều đang sống với tất cả sự nhơ nhớp, mục ruỗng của nó. Cái khó là: nói về cảnh lầu xanh nhưng làm sao cho sự miêu tả hiện thực đó không gây ra phản cảm với độc giả, không hạ thấp nhân vật, thể hiện được nhân cách, phẩm giá của nhân vật trong sự cảm thông của nhà thơ. Nguyễn Du đã thành công với những xử lí nghệ thuật độc đáo của mình.

Đoạn trích có một kết cấu lôgíc với diễn biến tâm trạng: đoạn đầu giới thiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều, “khi tỉnh rượu… nào biết có xuân là gì” đi sâu vào tâm tình, nỗi niềm của Kiều trong cảnh sống ấy, và đoạn cuối tả cảnh để cực tả tâm trạng cô đơn, ý thức về thân phận, phẩm giá của Kiều.

Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là cả một hiện thực tàn nhẫn mà Kiều phải chịu đựng: chốn lầu xanh với những đặc trưng của nó:

“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.

Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng nhuần nhuyễn đến mức trở thành một công cụ nghệ thuật đắc lực. Bởi vì trên thực tế, nếu phải gọi sự thật bằng đúng cái tên của nó thì Kiều trong đoạn trích này là một cô gái lầu xanh. Một loạt từ ngữ dẫu là ước lệ vẫn đủ để thông báo về tình cảnh và thân phận của Kiều – mặc dù bốn câu đầu này, nhân vật không hề được miêu tả trực tiếp: “bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu. Nguyễn Du đã tìm được một góc nhìn và cách xử lí nghệ thuật đặc biệt: viết về cảnh lầu xanh nhưng lại dùng những từ và hình ảnh rất nhã. Cách xử lí nghệ thuật này giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan giải, một mặt vẫn tả thực, không né tránh hiện thực và cảnh sống thực tế của nhân vật chính, mặt khác vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật chính Thúy Kiều, qua đó thể hiện thái độ cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho nhân vật. Thái độ này là nhất quán trong tác phẩm.

Quan sát kĩ hơn những chi tiết nghệ thuật mà Nguyễn Du cố ý bày ra sẽ nhận thấy sự mâu thuẫn ẩn chứa bên trong cảnh tượng. Những từ “đầy tháng, suốt đêm” là những từ chỉ số nhiều, cho thấy sự nhộn nhịp của lầu xanh, nơi mà Tú Bà “ăn nên làm ra”, lầu xanh như một chốn đang vào dịp “được mùa”, “đắt khách”. Cái xấu như đang ra sức bòn rút tất cả những giá trị của con người. Lầu xanh trở thành nơi chôn vùi không biết bao nhiêu số phận như Kiều. Cảnh lầu xanh thực chất cũng là một phần của bức tranh XHPK Trung Quốc thời Minh – Thanh thu nhỏ, cả thời đại mà Nguyễn Du sống, cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Xã hội ấy cũng đã được nói đến qua những tác phẩm cùng thời: Phủ Chúa Trịnh, Hoàng Lê nhất thống chí, Cung oán ngâm…

Phép đối xứng kết hợp với nghệ thuật tách từ, đảo từ là một sáng tạo của Nguyễn Du. Đối xứng nhỏ nhất được thiết lập bằng cách tách hai từ ghép để tạo thành một cụm từ mới, có tác dụng tăng thêm, cụ thể hóa hơn nét nghĩa: tại lầu xanh, bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, nhộn nhịp. Tiếp theo là đối xứng trong từng câu thơ: Cuộc say đầy tháng/ trận cười suốt đêm; Sớm đưa Tống Ngọc/ tối tìm Trường Khanh… kết hợp với những từ chỉ số nhiều: đầy tháng, suốt đêm diễn tả cái xô bồ, gấp gáp của một cuộc sống ăn chơi, nhốn nháo, dung tục. Thường thì người ta dùng từ “trận” để nói về trận đánh, trận mắng chửi chứ không ai nói là “trận cười”. Bản thân cách dùng từ này đã đủ cho thấy nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng.

Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã “bọc lụa” cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.

 Mẫu 9: Phân tích Nỗi thương mình đầy đủ nhất

Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều người đàn bà, có thể họ an tâm, yên phận và cam chịu với nghề nghiệp để kiếm sống, trớ trêu thay Kiều lại là một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, giữa cái xót xa của hoàn cảnh là cái “giật mình” đầy nhân bản:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì”

Bắt đầu từ cái “giật mình” đoạn thơ mở ra cả một bức tranh tâm cảnh – có thể nói cách khác là bức chân dung tự họa tinh thần Thúy Kiều. Vẫn là không gian lầu xanh, thời gian là lúc “tỉnh rượu, tàn canh” – đêm khuya là thời gian của tâm trạng. Tại sao không phải là một thời điểm khác? Bởi vì triền miên trong những “cơn say, trận cười”, những “bướm lả ong lơi”, những khách làng chơi dập dìu tối ngày, chỉ đến khi tàn canh Kiều mới có thời gian để sống với tâm trạng thực của mình. Thời điểm này có lẽ là thời điểm dành riêng cho tâm trạng của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương cũng để cho nhân vật trữ tình của mình “tự tình” trong những khoảnh khắc như thế:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”

Cái “giật mình” nói lên tất cả những nỗi niềm của Kiều: sự thảng thốt, ngạc nhiên, bẽ bàng, xót xa cho thân phận của mình, là sự tự ý thức chua chát về cảnh ngộ trớ trêu, nhục nhã trên cơ sở sự trỗi dậy của một nhân cách đẹp. Nhịp điệu thơ biến đổi, đang từ 2/2/2 hoặc 4/4 chuyển sang 3/3 cân đối diễn tả bước đi của thời gian, đến câu bát, nhịp thơ lại đột ngột thay đổi, phá cách 2/4/2 – một nhịp thơ thể hiện sự thảng thốt.

“Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Câu thơ chứa đựng hai biến thái, hai nét tâm trạng tiêu biểu của Kiều trong hoàn cảnh éo le của nàng. “Giật mình” thể hiện tâm trạng thảng thốt, sự lặp lại 3 lần từ “mình” khiến âm điệu câu thơ trở nên nặng nề, như tiếng nấc đan xen với tiếng thở dài, tiếng nấc nghẹn ngào, đau đớn. “Giật mình” mới là ý thức ban đầu nhưng “thương mình”, “xót xa” thì lại là sự ngẫm lại. Giật mình vì hiện tại nhục nhã, đớn đau, Kiều lần tưởng về quá khứ, nhưng nếu như quá khứ chỉ được nhắc đến qua một câu thơ thì lập tức hiện tại lại được nhấn mạnh qua nhiều câu thơ liên tiếp, hiện tại vẫn cứ níu giữ, vẫn cứ bám riết một cách quyết liệt và ghê tởm. “Thương mình” dường như là mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ đoạn trích (chọn làm tên đọan trích) ở đây đã được Nguyễn Du để cho nhân vật đau đớn nhận ra.

Nếu như trước kia trước mộ Đạm Tiên, Kiều vì thương cảm, thương người mà khóc lên thì ở đây, trong chính tình cảnh trớ trêu này – sống đúng với thân phận trước kia của Đạm Tiên, Kiều chỉ còn biết thương cho chính mình và dường như cũng chỉ đủ sức để khóc thương cho chính số kiếp bèo bọt của mình. Ngay cả cái cảm giác tự mình phải thương lấy chính mình đã đủ làm nên một bi kịch. Cái “thương mình” này vừa thể hiện sự cô độc đến tuyệt đối, vừa thể hiện sự tủi phận cùng cực của Kiều, vừa thể hiện ý thức cá nhân mãnh liệt. Bản thân từ “mình” đã là một thứ ý thức cá nhân được phát biểu rất rõ ràng. Trước Nguyễn Du, ít có người phát biểu ra như thế. Hồ Xuân Hương từng để cho người phụ nữ bẽ bàng về thân phận mình qua những hình tượng: trơ “cái hồng nhan”, “chiếc bách”, chém cha “cái số hoa đào”… chứ chưa thể hiện trực tiếp như Nguyễn Du.

Nhưng trớ trêu và xót xa thay, 3 lần “mình” mà vẫn cô đơn, vắng lặng biết bao nhiêu. Đó chính là tiếng lòng Kiều phát ra rồi lại dội lại, người nói cũng là người nghe trong cái âm hưởng tự thương thân xót xa, nó nhói lên như một vết thương, một nỗi đau thường trực, cộng hưởng tạo cho câu thơ một dư ba da diết.

Rồi trong cái âm điệu thương thân kia là bao nhiêu hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:

“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”

Một loạt câu hỏi tu từ kết hợp với câu cảm, với những hình ảnh đối lập diễn tả sự thảng thốt của Kiều về thực tại và số kiếp của mình. Tự Kiều đến giờ vẫn không thể hiểu vì sao quá khứ và hiện tại lại thay đổi nhanh như thế. Có một qui luật tâm lí là khi chán chường với hiện tại, người ta thường chạy trốn vào quá khứ tươi đẹp, ở đây Kiều đã hồi tưởng về quá khứ nhưng quá khứ ngắn ngủi ấy không đủ để cứu vớt nàng ra khỏi thực tại đau buồn. Ngay kết cấu của các câu thơ đã thể hiện điều đó: cứ một câu nói về quá khứ thì lại liền sau đó là ba câu tả thực tại phũ phàng.

Sự đối lập gay gắt giữa quá khứ và hiện thực còn được Nguyễn Du cực tả bằng một loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Cụm từ “bướm chán ong chường” (hô ứng với “bướm lả ong lơi” ở trên) và “dày gió dạn sương” là hai sáng tạo về từ của Nguyễn Du: đảo trật tự và tách từ. Các đối xứng trong từng cụm từ, từng câu là phép đối trong các câu thơ nối tiếp nhau: Khi sao… Giờ sao… Mặt sao… Thân sao… Sự đối xứng này đào sâu thêm nỗi xót xa, nó mở rộng thêm sự đối xứng “mình” và “mình” tạo nên sự đối lập giữa hai cực cuộc đời: sướng và khổ, bình yên và dập vùi sóng gió. Hai từ “khi” và “giờ” là hai khoảng thời gian đối xứng mà ở đó, Kiều càng tiếc cái xưa kia chừng nào thì lại càng thấy cái nay thê thảm chừng ấy. Những từ ngữ tương phản gay gắt: phong gấm rủ là/tan tác; dày gió/dạn sương; bướm chán/ong chường… và cách so sánh: “như hoa giữa đường” gợi lên sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và hiện thực, giữa cá nhân và hoàn cảnh.

Nếu “bướm lả ong lơi” là tả cái khách quan bên ngoài – chỉ bọn đàn ông lắm tiền háo sắc thì “Bướm chán ong chường” ở đây lại chỉ tâm trạng chán chường, mỏi mệt, ghê sợ chính bản thân mình của nhân vật khi bị đẩy vào hoàn cảnh sống nhơ nhớp. Nhưng có lẽ điều mà Nguyễn Du muốn nhấn mạnh hơn ở trong những câu thơ này không phải là sự tố cáo và lột trần trực tiếp cái xã hội thối nát mà chính là sự đề cao giá trị con người, đề cao khát khao chính đáng về tình yêu và hạnh phúc. Từ “xuân” do vậy, không chỉ mùa xuân, tuổi trẻ, mà chỉ hạnh phúc lứa đôi, tình yêu. Trong cuộc sống “làm vợ khắp người ta”, Kiều chỉ thấy nhục nhã, trơ lì và vô cảm.

Cả một trường tự vựng nói về cảnh lầu xanh, bên cạnh đó lại là cả một trường từ vựng nói về tâm trạng, nỗi đau của Kiều – bản thân câu chữ đã mang đầy ý nghĩa về một sự đối lập, sự mâu thuẫn giằng xé của Kiều khi tiếng nói về nhân phẩm đang gào thét giữa thực tại.
Đoạn thơ là lời than hay là câu hỏi đối thoại nội tâm của Thúy Kiều? Là lời than hay câu hỏi thì cũng chỉ gợi lên ở cái ấn tượng về sự cô độc tột cùng. Đoạn thơ đậm chất ngôn ngữ nửa trực tiếp, là lời tác giả thể hiện giọng điệu, suy nghĩ của nhân vật, như lời độc thoại nội tâm. Điều đó cho thấy nhân vật ý thức sâu sắc về cuộc sống tủi nhục, đau khổ của mình. Đó cũng chính là sự tự ý thức sâu sắc về phẩm giá, nhân cách bản thân, về quyền sống bản thân, khát khao muốn thoát khỏi cuộc đời kĩ nữ.

Nếu như Kiều trong tác phẩm của Thanh Tâm tài nhân là người nhập tâm rất tốt các bài học tiếp khách của Tú Bà, với đầy đủ các ngón nghề thì Kiều của Nguyễn Du: ghê sợ chính mình. Đó cũng là chỗ thể hiện tinh thần nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du: xót xa cho nhân vật, ông ném ra một tiếng nói gay gắt: tài sắc đã trở thành một món hàng, một phương tiện giải trí của bọn lắm tiền háo sắc, lầu xanh là nơi những con người như Kiều bị đày đọa.

Bị chi phối bởi thuyết “tài mệnh tương đố” cho nên Kiều của Nguyễn Du tuy suốt đời ý thức về quyền sống và hạnh phúc nhưng chưa bao giờ được hưởng chúng một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, lên tiếng khẳng định và để cho nhân vật ý thức về quyền sống của con người, đó đã là một đóng góp của Nguyễn Du về tư tưởng trong văn học lúc bấy giờ. Cùng thời có Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm cũng đã nói đến điều này nhưng đến Nguyễn Du thì có tầm khái quát hơn: “Đau đớn thay phận đàn bà; lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Sống giữa cảnh trụy lạc, truy hoan ngày đêm, sớm tối nhưng Kiều chỉ biết có đau buồn và tủi nhục. Cái bi kịch lớn nhất của Kiều là ý thức về phẩm giá cá nhân quá mạnh, không cho nàng bằng lòng, cam chịu với thực tại, lúc nào ở Kiều cũng văng vẳng tiếng thét đòi nhân phẩm, đòi thoát ra khỏi chốn đoạn trường. Cũng như trước lầu Ngưng Bích, trong thân phận là gái lầu xanh, trước cảnh vật, Kiều luôn là một người mang đầy tâm trạng:

“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Kiều chưa bao giờ hòa hợp được với cảnh ngộ:
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì”

Từ khát khao một tình yêu, hạnh phúc chân thực, Thúy Kiều nghĩ đến các hành động giải tỏa nỗi lòng. Nàng tìm đến bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, có đủ: phong – hoa – tuyết – nguyệt, bức tranh sinh hoạt có đủ: cầm – kì – thi – họa. Nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.

Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái. Cảnh là sự sắp đặt cố tình thành ra giả tạo. Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật.

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Câu thơ quen mà lạ, bởi vì Nguyễn Du đã khái quát tâm lí chung của con người thành qui luật, nói lên mối quan hệ gắn bó giữa ngoại cảnh và tâm cảnh. Thực ra trong Truyện Kiều, lấy thiên nhiên để miêu tả tâm trạng con người, Nguyễn Du vận dụng cả hai cách: thiên nhiên hô ứng và thiên nhiên đối ứng. Hô ứng: cảnh buồn cùng tâm trạng. Đối ứng: cảnh đẹp, tao nhã, trong sáng như mỉa mai, chế giễu, dằn vặt nhân vật. Dù là tương đồng hay tương phản thì mục đích cuối cùng cũng là để nhấn mạnh, lột tả đầy đủ, chính xác và xúc động cái thế giới nội tâm – vốn là một thế giới rất khó khám phá ở nhân vật. Chiều sâu của ý thơ vẫn là cái nhìn đầy chất nhân văn của nhà thơ.

Tìm cách giải thoát cho mình khỏi nỗi buồn đau, Kiều tìm đến thiên nhiên nhưng cảnh nào cũng buồn vì lòng nàng chẳng bao giờ nguôi; tìm đến các thú chơi tao nhã nhưng chơi gì cũng nhạt vì lòng nàng chẳng có bạn tri âm. Kiều hốt hoảng nhìn lại hiện thực quanh mình lần nữa, có đủ cả Phong hoa tuyết nguyệt nhưng tại sao nàng vẫn thấy vô cảm, lạc lõng? Kiều lệch hẳn ra khỏi cái chốn bùn nhơ ấy. Thân xác tuy trở thành hàng hóa, đồ chơi, tấm thân mà xã hội và lầu xanh có thể lấy đi được nhưng tâm trạng của Kiều chỉ còn trơ lại là sự vô cảm, ghê sợ – một tâm hồn thanh cao mà xã hội không bao giờ cướp được. “Vui gượng” nói lên tất cả sự lệch pha, sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sự luôn luôn dằn vặt và mâu thuẫn ấy lại chính là nét đẹp của nàng. Tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. “Ai tri âm đó mặn mà với ai”. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn. Ấy vậy mà tại sao vẫn còn chỗ cho câu chuyện về tri âm, tri kỉ? Dễ hiểu vì sao sau này khi Từ Hải đến lầu xanh với con mắt khác người và nhìn ra ở Kiều một tấm lòng tri kỉ, Kiều đã “cảm khái” đến như thế nào. Thì ra, sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình, hơn cả là mong chờ một hạnh phúc thực sự. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc. Sự lẻ loi của Kiều cũng chính là sự lẻ loi của Nguyễn Du. Sự khát khao tri âm của Kiều cũng na ná như tấm lòng của Nguyễn Du trước mộ Tiểu Thanh với câu hỏi cháy lòng:

“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”

Cũng vì câu chuyện tri âm đó mà Nguyễn Du sau này đã để Kim Trọng nói một câu rất chính xác về Kiều trong ngày hội ngộ:

“Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay”
Hoặc là lời nhận xét:
“Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”

Trước đây có nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn tỏ ra khắt khe trong việc xét đoán Kiều bằng nhiều cách gọi: con đĩ, tà dâm… Nguyễn Du giữ lại một cái cốt lõi trong câu chuyện “nôm na mách qué” của mình, đó là một ý thức, một số phận, một tấm lòng. Nguyễn Du không né tránh việc nói về thân phận nhân vật chính là kĩ nữ giữa chống bùn nhơ và cái cách ông miêu tả là phân tích tâm lí một cách tàn nhẫn (từ dùng của Phan Ngọc): nhân vật tự soi mình, tự đau khổ và giày vò chính mình. Câu nói của Kim Trọng thể hiện tấm lòng rộng mở của Kim Trọng nhưng cũng là của Nguyễn Du – nhà thơ có tấm lòng nhân đạo vượt xa cách nhìn đầy kì thị của xã hội phong kiến để nhìn đúng một người phụ nữ rơi vào thân phận bị cả xã hội coi thường.

Bản thân đoạn trích không nói lên quan niệm về chữ “trinh” của Thúy Kiều, ngược lại, toàn nói về lầu xanh và những nhơ nhớp mà Kiều phải chịu đựng, phải trải qua, biết là nhục nhã, ê chề nhưng không thể chống lại. Sẽ tốt hơn cho Kiều nếu như nàng chấp nhận số phận (vì chính Kiều được Tú Bà rao giá rất cao – chứng tỏ là một gái lầu xanh đắt giá: Lầu xanh mới rủ trướng đào, càng treo giá ngọc càng cao phẩm người). Đằng này Kiều luôn sống trong sự đau đớn, xót xa, trong ý thức về phẩm chất, trong sự “giật mình” và “thương mình” khôn nguôi. Tuy nhiên cái mà người đọc nhận ra sau cùng ấy chính là tấm lòng trinh bạch của nàng hiện sau câu chữ, như thể một tấm gương mà chỉ cần cơn mưa gột rửa bụi mờ, sẽ hiện lên trong sáng vô ngần. Không nói về chữ “trinh”, về phẩm giá của Kiều mà vẫn làm hiện lên điều đó với tất cả sự trân trọng, đó không chỉ là tấm lòng mà còn là tài nghệ của Nguyễn Du.

Đặc sắc về nghệ thuật trong toàn đoạn trích “Nỗi thương mình” chính là nghệ thuật tả nội tâm nhân vật bao gồm: bút pháp ước lệ, tả cảnh ngụ tình, các hình ảnh đối lập, ngôn ngữ nửa trực tiếp, biện pháp đối xứng với mật độ dày đặc trong 20 câu thơ. Thành công của Nguyễn Du chính là ở chỗ đã chọn được một góc nhìn, một cách xử lí nghệ thuật vừa tinh tế, mới lạ lại vừa thể hiện cho ra được cái màu sắc của thi pháp trung đại. Nổi bật hơn cả là các phép đối tinh diệu: Tiểu đối trong cấu trúc bốn chữ được dùng khá phổ biến: bướm lả/ong lơi, lá gió/cành chim, dày gió/dạn sương… Tiểu đối ở phạm vi câu thơ: Cuộc say…, sớm đưa…tối tìm…, khi tỉnh rượu, lúc tàn canh… Đối giữa 2 câu thơ lục bát: Khi sao…giờ sao…, mặc người… Đối 2 khổ thơ 4 câu với nhau như: đòi phen… đòi phen.

Nguyễn Du đã mạnh dạn vượt ra khuôn khổ “văn dĩ tải đạo” để đề cao cái tôi, đề cao ý thức cá nhân con người. Truyện Kiều là một truyện thương thân, xót thân thấm thía nhất cũng bởi Nguyễn Du không ngần ngại đề cập đến nỗi đau, tâm trạng ê chề, khát khao hạnh phúc thực sự, ý thức về nhân cách của người phụ nữ chốn lầu xanh.

Ở một góc độ nào đó, đoạn trích là tiếng kêu cứu của những con người bị dìm xuống đáy xã hội. Nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là chú ý đến thân phận cá nhân. Lần đầu tiên trong văn học trung đại, người ta biết “xót thân”. Nguyễn Du là người đầu tiên tìm đến và chia sẻ tình cảm này, tạo nên một trào lưu nhân văn chủ nghĩa: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm… Cuộc phục hưng này của văn học dân tộc có điểm giống cuộc phục hưng của Văn học phương Tây thế kỉ 19: khám phá ra con người cá nhân, con người trần thế.

“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, biết đau khổ trước thân phận và thực tại, biết ê chề, bẽ bàng vì sự nhơ nhớp, biết thương lấy chính mình và biết khát khao tình yêu, hạnh phúc, khát khao giữ gìn nhân phẩm – đó là bi kịch, là nỗi đau của Kiều nhưng đồng thời cũng là vẻ đẹp đáng quí của nhân vật. Nếu không có những nỗi đau ấy, nhưng bi kịch tinh thần ấy, Kiều đã không phải là một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”, một nàng Kiều là hiện thân cho sự trinh tiết, cho cái đẹp trong sự ngưỡng vọng, trân trọng của Nguyễn Du.

Thử thách lớn nhất và cũng là bi đát nhất của Thúy Kiều chính là hoàn cảnh mà nàng đã bị đẩy vào: làm kĩ nữ chốn lầu xanh. Nói gì đến giữ gìn danh tiết với Kim Trọng, trong hoàn cảnh ấy, ngay cái nhân cách tối thiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào để giữ cho khỏi bị mai một được? Làm thế nào để viết về thực tế ấy – thực tế của cái cảnh “sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn thể hiện được nhân cách của nhân vật, vẫn bộc lộ được thái độ trân trọng, sự cảm thông, vẫn nói lên được sự đau khổ, thương thân phận mình của nhân vật? Tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn trong đoạn trích “Nỗi thương mình”.

“Rường cao rút ngược dây oan
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”

Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên: “Thân lươn bao quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ – gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của Kiều trong thời gian ấy.

Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác của Thanh Tâm tài nhân thì trọng tâm của đoạn này: một mặt là bài ca kể về thân phận Thúy Kiều từ khi gia biến đến khi bị Sở Khanh lừa và phải đồng ý tiếp khách, mặt khác tập trung vào lời dạy của Tú Bà về nghề kĩ nữ. Đến Nguyễn Du, cách xử lí nghệ thuật đã có sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ của cách xử lí nghệ thuật độc đáo ấy là cách nhìn mới mẻ và chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ của nhà thơ.

Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là “Những nỗi lòng tê tái”. Trong sách giáo khoa mới, “Nỗi thương mình” chỉ vẻn vẹn 20 câu nhưng đã nói lên tất cả nỗi tê tái của Kiều nhưng quan trọng hơn là đoạn trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu sắc và tiến bộ: ý thức về thân phận, phẩm giá của nàng Kiều – ý thức thương thân, xót thân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam.

Có một bài toán “nan giải” đặt ra với Nguyễn Du: tác giả muốn tố cáo một cách sâu sắc nơi đã vùi dập Kiều, những thân phận như Kiều. Đó cũng là một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến mà Kiều đang sống với tất cả sự nhơ nhớp, mục ruỗng của nó. Cái khó là: nói về cảnh lầu xanh nhưng làm sao cho sự miêu tả hiện thực đó không gây ra phản cảm với độc giả, không hạ thấp nhân vật, thể hiện được nhân cách, phẩm giá của nhân vật trong sự cảm thông của nhà thơ. Nguyễn Du đã thành công với những xử lí nghệ thuật độc đáo của mình.

Đoạn trích có một kết cấu logic với diễn biến tâm trạng: đoạn đầu giới thiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều, “khi tỉnh rượu… nào biết có xuân là gì” đi sâu vào tâm tình, nỗi niềm của Kiều trong cảnh sống ấy, và đoạn cuối tả cảnh để cực tả tâm trạng cô đơn, ý thức về thân phận, phẩm giá của Kiều.

Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là cả một hiện thực tàn nhẫn mà Kiều phải chịu đựng: chốn lầu xanh với những đặc trưng của nó:

“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.

Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng nhuần nhuyễn đến mức trở thành một công cụ nghệ thuật đắc lực. Bởi vì trên thực tế, nếu phải gọi sự thật bằng đúng cái tên của nó thì Kiều trong đoạn trích này là một cô gái lầu xanh. Một loạt từ ngữ dẫu là ước lệ vẫn đủ để thông báo về tình cảnh và thân phận của Kiều – mặc dù bốn câu đầu này, nhân vật không hề được miêu tả trực tiếp: “bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu. Nguyễn Du đã tìm được một góc nhìn và cách xử lí nghệ thuật đặc biệt: viết về cảnh lầu xanh nhưng lại dùng những từ và hình ảnh rất nhã. Cách xử lí nghệ thuật này giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan giải, một mặt vẫn tả thực, không né tránh hiện thực và cảnh sống thực tế của nhân vật chính, mặt khác vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật chính Thúy Kiều, qua đó thể hiện thái độ cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho nhân vật. Thái độ này là nhất quán trong tác phẩm.

Quan sát kĩ hơn những chi tiết nghệ thuật mà Nguyễn Du cố ý bày ra sẽ nhận thấy sự mâu thuẫn ẩn chứa bên trong cảnh tượng. Những từ “đầy tháng, suốt đêm” là những từ chỉ số nhiều, cho thấy sự nhộn nhịp của lầu xanh, nơi mà Tú Bà “ăn nên làm ra”, lầu xanh như một chốn đang vào dịp “được mùa”, “đắt khách”. Cái xấu như đang ra sức bòn rút tất cả những giá trị của con người. Lầu xanh trở thành nơi chôn vùi không biết bao nhiêu số phận như Kiều. Cảnh lầu xanh thực chất cũng là một phần của bức tranh XHPK Trung Quốc thời Minh – Thanh thu nhỏ, cả thời đại mà Nguyễn Du sống, cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Xã hội ấy cũng đã được nói đến qua những tác phẩm cùng thời: Phủ Chúa Trịnh, Hoàng Lê nhất thống chí, Cung oán ngâm…

Phép đối xứng kết hợp với nghệ thuật tách từ, đảo từ là một sáng tạo của Nguyễn Du. Đối xứng nhỏ nhất được thiết lập bằng cách tách hai từ ghép để tạo thành một cụm từ mới, có tác dụng tăng thêm, cụ thể hóa hơn nét nghĩa: tại lầu xanh, bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, nhộn nhịp. Tiếp theo là đối xứng trong từng câu thơ: Cuộc say đầy tháng/ trận cười suốt đêm; Sớm đưa Tống Ngọc/ tối tìm Trường Khanh… kết hợp với những từ chỉ số nhiều: đầy tháng, suốt đêm diễn tả cái xô bồ, gấp gáp của một cuộc sống ăn chơi, nhốn nháo, dung tục. Thường thì người ta dùng từ “trận” để nói về trận đánh, trận mắng chửi chứ không ai nói là “trận cười”. Bản thân cách dùng từ này đã đủ cho thấy nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng.

Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã “bọc lụa” cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.

Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều người đàn bà, có thể họ an tâm, yên phận và cam chịu với nghề nghiệp để kiếm sống, trớ trêu thay Kiều lại là một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, giữa cái xót xa của hoàn cảnh là cái “giật mình” đầy nhân bản:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì”

Bắt đầu từ cái “giật mình” đoạn thơ mở ra cả một bức tranh tâm cảnh – có thể nói cách khác là bức chân dung tự họa tinh thần Thúy Kiều. Vẫn là không gian lầu xanh, thời gian là lúc “tỉnh rượu, tàn canh” – đêm khuya là thời gian của tâm trạng. Tại sao không phải là một thời điểm khác? Bởi vì triền miên trong những “cơn say, trận cười”, những “bướm lả ong lơi”, những khách làng chơi dập dìu tối ngày, chỉ đến khi tàn canh Kiều mới có thời gian để sống với tâm trạng thực của mình. Thời điểm này có lẽ là thời điểm dành riêng cho tâm trạng của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương cũng để cho nhân vật trữ tình của mình “tự tình” trong những khoảnh khắc như thế:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”

Cái “giật mình” nói lên tất cả những nỗi niềm của Kiều: sự thảng thốt, ngạc nhiên, bẽ bàng, xót xa cho thân phận của mình, là sự tự ý thức chua chát về cảnh ngộ trớ trêu, nhục nhã trên cơ sở sự trỗi dậy của một nhân cách đẹp. Nhịp điệu thơ biến đổi, đang từ 2/2/2 hoặc 4/4 chuyển sang 3/3 cân đối diễn tả bước đi của thời gian, đến câu bát, nhịp thơ lại đột ngột thay đổi, phá cách 2/4/2 – một nhịp thơ thể hiện sự thảng thốt.

“Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Câu thơ chứa đựng hai biến thái, hai nét tâm trạng tiêu biểu của Kiều trong hoàn cảnh éo le của nàng. “Giật mình” thể hiện tâm trạng thảng thốt, sự lặp lại 3 lần từ “mình” khiến âm điệu câu thơ trở nên nặng nề, như tiếng nấc đan xen với tiếng thở dài, tiếng nấc nghẹn ngào, đau đớn. “Giật mình” mới là ý thức ban đầu nhưng “thương mình”, “xót xa” thì lại là sự ngẫm lại. Giật mình vì hiện tại nhục nhã, đớn đau, Kiều lần tưởng về quá khứ, nhưng nếu như quá khứ chỉ được nhắc đến qua một câu thơ thì lập tức hiện tại lại được nhấn mạnh qua nhiều câu thơ liên tiếp, hiện tại vẫn cứ níu giữ, vẫn cứ bám riết một cách quyết liệt và ghê tởm. “Thương mình” dường như là mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ đoạn trích (chọn làm tên đọan trích) ở đây đã được Nguyễn Du để cho nhân vật đau đớn nhận ra.

Nếu như trước kia trước mộ Đạm Tiên, Kiều vì thương cảm, thương người mà khóc lên thì ở đây, trong chính tình cảnh trớ trêu này – sống đúng với thân phận trước kia của Đạm Tiên, Kiều chỉ còn biết thương cho chính mình và dường như cũng chỉ đủ sức để khóc thương cho chính số kiếp bèo bọt của mình. Ngay cả cái cảm giác tự mình phải thương lấy chính mình đã đủ làm nên một bi kịch. Cái “thương mình” này vừa thể hiện sự cô độc đến tuyệt đối, vừa thể hiện sự tủi phận cùng cực của Kiều, vừa thể hiện ý thức cá nhân mãnh liệt. Bản thân từ “mình” đã là một thứ ý thức cá nhân được phát biểu rất rõ ràng. Trước Nguyễn Du, ít có người phát biểu ra như thế. Hồ Xuân Hương từng để cho người phụ nữ bẽ bàng về thân phận mình qua những hình tượng: trơ “cái hồng nhan”, “chiếc bách”, chém cha “cái số hoa đào”… chứ chưa thể hiện trực tiếp như Nguyễn Du.

Nhưng trớ trêu và xót xa thay, 3 lần “mình” mà vẫn cô đơn, vắng lặng biết bao nhiêu. Đó chính là tiếng lòng Kiều phát ra rồi lại dội lại, người nói cũng là người nghe trong cái âm hưởng tự thương thân xót xa, nó nhói lên như một vết thương, một nỗi đau thường trực, cộng hưởng tạo cho câu thơ một dư ba da diết.

Rồi trong cái âm điệu thương thân kia là bao nhiêu hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:

“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”

Một loạt câu hỏi tu từ kết hợp với câu cảm, với những hình ảnh đối lập diễn tả sự thảng thốt của Kiều về thực tại và số kiếp của mình. Tự Kiều đến giờ vẫn không thể hiểu vì sao quá khứ và hiện tại lại thay đổi nhanh như thế. Có một qui luật tâm lí là khi chán chường với hiện tại, người ta thường chạy trốn vào quá khứ tươi đẹp, ở đây Kiều đã hồi tưởng về quá khứ nhưng quá khứ ngắn ngủi ấy không đủ để cứu vớt nàng ra khỏi thực tại đau buồn. Ngay kết cấu của các câu thơ đã thể hiện điều đó: cứ một câu nói về quá khứ thì lại liền sau đó là ba câu tả thực tại phũ phàng.

Sự đối lập gay gắt giữa quá khứ và hiện thực còn được Nguyễn Du cực tả bằng một loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Cụm từ “bướm chán ong chường” (hô ứng với “bướm lả ong lơi” ở trên) và “dày gió dạn sương” là hai sáng tạo về từ của Nguyễn Du: đảo trật tự và tách từ. Các đối xứng trong từng cụm từ, từng câu là phép đối trong các câu thơ nối tiếp nhau: Khi sao… Giờ sao… Mặt sao… Thân sao… Sự đối xứng này đào sâu thêm nỗi xót xa, nó mở rộng thêm sự đối xứng “mình” và “mình” tạo nên sự đối lập giữa hai cực cuộc đời: sướng và khổ, bình yên và dập vùi sóng gió. Hai từ “khi” và “giờ” là hai khoảng thời gian đối xứng mà ở đó, Kiều càng tiếc cái xưa kia chừng nào thì lại càng thấy cái nay thê thảm chừng ấy. Những từ ngữ tương phản gay gắt: phong gấm rủ là/tan tác; dày gió/dạn sương; bướm chán/ong chường… và cách so sánh: “như hoa giữa đường” gợi lên sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và hiện thực, giữa cá nhân và hoàn cảnh.

Nếu “bướm lả ong lơi” là tả cái khách quan bên ngoài – chỉ bọn đàn ông lắm tiền háo sắc thì “Bướm chán ong chường” ở đây lại chỉ tâm trạng chán chường, mỏi mệt, ghê sợ chính bản thân mình của nhân vật khi bị đẩy vào hoàn cảnh sống nhơ nhớp. Nhưng có lẽ điều mà Nguyễn Du muốn nhấn mạnh hơn ở trong những câu thơ này không phải là sự tố cáo và lột trần trực tiếp cái xã hội thối nát mà chính là sự đề cao giá trị con người, đề cao khát khao chính đáng về tình yêu và hạnh phúc. Từ “xuân” do vậy, không chỉ mùa xuân, tuổi trẻ, mà chỉ hạnh phúc lứa đôi, tình yêu. Trong cuộc sống “làm vợ khắp người ta”, Kiều chỉ thấy nhục nhã, trơ lì và vô cảm.

Cả một trường tự vựng nói về cảnh lầu xanh, bên cạnh đó lại là cả một trường từ vựng nói về tâm trạng, nỗi đau của Kiều – bản thân câu chữ đã mang đầy ý nghĩa về một sự đối lập, sự mâu thuẫn giằng xé của Kiều khi tiếng nói về nhân phẩm đang gào thét giữa thực tại.
Đoạn thơ là lời than hay là câu hỏi đối thoại nội tâm của Thúy Kiều? Là lời than hay câu hỏi thì cũng chỉ gợi lên ở cái ấn tượng về sự cô độc tột cùng. Đoạn thơ đậm chất ngôn ngữ nửa trực tiếp, là lời tác giả thể hiện giọng điệu, suy nghĩ của nhân vật, như lời độc thoại nội tâm. Điều đó cho thấy nhân vật ý thức sâu sắc về cuộc sống tủi nhục, đau khổ của mình. Đó cũng chính là sự tự ý thức sâu sắc về phẩm giá, nhân cách bản thân, về quyền sống bản thân, khát khao muốn thoát khỏi cuộc đời kĩ nữ.

Nếu như Kiều trong tác phẩm của Thanh Tâm tài nhân là người nhập tâm rất tốt các bài học tiếp khách của Tú Bà, với đầy đủ các ngón nghề thì Kiều của Nguyễn Du: ghê sợ chính mình. Đó cũng là chỗ thể hiện tinh thần nhân đạo mới mẻ của Nguyễn Du: xót xa cho nhân vật, ông ném ra một tiếng nói gay gắt: tài sắc đã trở thành một món hàng, một phương tiện giải trí của bọn lắm tiền háo sắc, lầu xanh là nơi những con người như Kiều bị đày đọa.

Bị chi phối bởi thuyết “tài mệnh tương đố” cho nên Kiều của Nguyễn Du tuy suốt đời ý thức về quyền sống và hạnh phúc nhưng chưa bao giờ được hưởng chúng một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, lên tiếng khẳng định và để cho nhân vật ý thức về quyền sống của con người, đó đã là một đóng góp của Nguyễn Du về tư tưởng trong văn học lúc bấy giờ. Cùng thời có Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm cũng đã nói đến điều này nhưng đến Nguyễn Du thì có tầm khái quát hơn: “Đau đớn thay phận đàn bà; lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Sống giữa cảnh trụy lạc, truy hoan ngày đêm, sớm tối nhưng Kiều chỉ biết có đau buồn và tủi nhục. Cái bi kịch lớn nhất của Kiều là ý thức về phẩm giá cá nhân quá mạnh, không cho nàng bằng lòng, cam chịu với thực tại, lúc nào ở Kiều cũng văng vẳng tiếng thét đòi nhân phẩm, đòi thoát ra khỏi chốn đoạn trường. Cũng như trước lầu Ngưng Bích, trong thân phận là gái lầu xanh, trước cảnh vật, Kiều luôn là một người mang đầy tâm trạng:

“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Kiều chưa bao giờ hòa hợp được với cảnh ngộ:
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì”

Từ khát khao một tình yêu, hạnh phúc chân thực, Thúy Kiều nghĩ đến các hành động giải tỏa nỗi lòng. Nàng tìm đến bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, có đủ: phong – hoa – tuyết – nguyệt, bức tranh sinh hoạt có đủ: cầm – kì – thi – họa. Nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thàn hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.

Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái. Cảnh là sự sắp đặt cố tình thành ra giả tạo. Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật.

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Câu thơ quen mà lạ, bởi vì Nguyễn Du đã khái quát tâm lí chung của con người thành qui luật, nói lên mối quan hệ gắn bó giữa ngoại cảnh và tâm cảnh. Thực ra trong Truyện Kiều, lấy thiên nhiên để miêu tả tâm trạng con người, Nguyễn Du vận dụng cả hai cách: thiên nhiên hô ứng và thiên nhiên đối ứng. Hô ứng: cảnh buồn cùng tâm trạng. Đối ứng: cảnh đẹp, tao nhã, trong sáng như mỉa mai, chế giễu, dằn vặt nhân vật. Dù là tương đồng hay tương phảm thì mục đích cuối cùng cũng là để nhấn mạnh, lột tả đầy đủ, chính xác và xúc động cái thế giới nội tâm – vốn là một thế giới rất khó khám phá ở nhân vật. Chiều sâu của ý thơ vẫn là cái nhìn đầy chất nhân văn của nhà thơ.

Tìm cách giải thoát cho mình khỏi nỗi buồn đau, Kiều tìm đến thiên nhiên nhưng cảnh nào cũng buồn vì lòng nàng chẳng bao giờ nguôi; tìm đến các thú chơi tao nhã nhưng chơi gì cũng nhạt vì lòng nàng chẳng có bạn tri âm. Kiều hốt hoảng nhìn lại hiện thực quanh mình lần nữa, có đủ cả Phong hoa tuyết nguyệt nhưng tại sao nàng vẫn thấy vô cảm, lạc lõng? Kiều lệch hẳn ra khỏi cái chốn bùn nhơ ấy. Thân xác tuy trở thành hàng hóa, đồ chơi, tấm thân mà xã hội và lầu xanh có thể lấy đi được nhưng tâm trạng của Kiều chỉ còn trơ lại là sự vô cảm, ghê sợ – một tâm hồn thanh cao mà xã hội không bao giờ cướp được. “Vui gượng” nói lên tất cả sự lệch pha, sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sự luôn luôn dằn vặt và mâu thuẫn ấy lại chính là nét đẹp của nàng. Tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. “Ai tri âm đó mặn mà với ai”. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn. Ấy vậy mà tại sao vẫn còn chỗ cho câu chuyện về tri âm, tri kỉ? Dễ hiểu vì sao sau này khi Từ Hải đến lầu xanh với con mắt khác người và nhìn ra ở Kiều một tấm lòng tri kỉ, Kiều đã “cảm khái” đến như thế nào. Thì ra, sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình, hơn cả là mong chờ một hạnh phúc thực sự. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc. Sự lẻ loi của Kiều cũng chính là sự lẻ loi của Nguyễn Du. Sự khát khao tri âm của Kiều cũng na ná như tấm lòng của Nguyễn Du trước mộ Tiểu Thanh với câu hỏi cháy lòng:

“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”

Cũng vì câu chuyện tri âm đó mà Nguyễn Du sau này đã để Kim Trọng nói một câu rất chính xác về Kiều trong ngày hội ngộ:

“Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay”
Hoặc là lời nhận xét:
“Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”

Trước đây có nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn tỏ ra khắt khe trong việc xét đoán Kiều bằng nhiều cách gọi: con đĩ, tà dâm… Nguyễn Du giữ lại một cái cốt lõi trong câu chuyện “nôm na mách qué” của mình, đó là một ý thức, một số phận, một tấm lòng. Nguyễn Du không né tránh việc nói về thân phận nhân vật chính là kĩ nữ giữa chống bùn nhơ và cái cách ông miêu tả là phân tích tâm lí một cách tàn nhẫn (từ dùng của Phan Ngọc): nhân vật tự soi mình, tự đau khổ và giày vò chính mình. Câu nói của Kim Trọng thể hiện tấm lòng rộng mở của Kim Trọng nhưng cũng là của Nguyễn Du – nhà thơ có tấm lòng nhân đạo vượt xa cách nhìn đầy kì thị của xã hội phong kiến để nhìn đúng một người phụ nữ rơi vào thân phận bị cả xã hội coi thường.

Bản thân đoạn trích không nói lên quan niệm về chữ “trinh” của Thúy Kiều, ngược lại, toàn nói về lầu xanh và những nhơ nhớp mà Kiều phải chịu đựng, phải trải qua, biết là nhục nhã, ê chề nhưng không thể chống lại. Sẽ tốt hơn cho Kiều nếu như nàng chấp nhận số phận (vì chính Kiều được Tú Bà rao giá rất cao – chứng tỏ là một gái lầu xanh đắt giá: Lầu xanh mới rủ trướng đào, càng treo giá ngọc càng cao phẩm người). Đằng này Kiều luôn sống trong sự đau đớn, xót xa, trong ý thức về phẩm chất, trong sự “giật mình” và “thương mình” khôn nguôi. Tuy nhiên cái mà người đọc nhận ra sau cùng ấy chính là tấm lòng trinh bạch của nàng hiện sau câu chữ, như thể một tấm gương mà chỉ cần cơn mưa gột rửa bụi mờ, sẽ hiện lên trong sáng vô ngần. Không nói về chữ “trinh”, về phẩm giá của Kiều mà vẫn làm hiện lên điều đó với tất cả sự trân trọng, đó không chỉ là tấm lòng mà còn là tài nghệ của Nguyễn Du.

Đặc sắc về nghệ thuật trong toàn đoạn trích “Nỗi thương mình” chính là nghệ thuật tả nội tâm nhân vật bao gồm: bút pháp ước lệ, tả cảnh ngụ tình, các hình ảnh đối lập, ngôn ngữ nửa trực tiếp, biện pháp đối xứng với mật độ dày đặc trong 20 câu thơ. Thành công của Nguyễn Du chính là ở chỗ đã chọn được một góc nhìn, một cách xử lí nghệ thuật vừa tinh tế, mới lạ lại vừa thể hiện cho ra được cái màu sắc của thi pháp trung đại. Nổi bật hơn cả là các phép đối tinh diệu: Tiểu đối trong cấu trúc bốn chữ được dùng khá phổ biến: bướm lả/ong lơi, lá gió/cành chim, dày gió/dạn sương… Tiểu đối ở phạm vi câu thơ: Cuộc say…, sớm đưa…tối tìm…, khi tỉnh rượu, lúc tàn canh… Đối giữa 2 câu thơ lục bát: Khi sao…giờ sao…, mặc người… Đối 2 khổ thơ 4 câu với nhau như: đòi phen… đòi phen.

Nguyễn Du đã mạnh dạn vượt ra khuôn khổ “văn dĩ tải đạo” để đề cao cái tôi, đề cao ý thức cá nhân con người. Truyện Kiều là một truyện thương thân, xót thân thấm thía nhất cũng bởi Nguyễn Du không ngần ngại đề cập đến nỗi đau, tâm trạng ê chề, khát khao hạnh phúc thực sự, ý thức về nhân cách của người phụ nữ chốn lầu xanh.

Ở một góc độ nào đó, đoạn trích là tiếng kêu cứu của những con người bị dìm xuống đáy xã hội. Nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là chú ý đến thân phận cá nhân. Lần đầu tiên trong văn học trung đại, người ta biết “xót thân”. Nguyễn Du là người đầu tiên tìm đến và chia sẻ tình cảm này, tạo nên một trào lưu nhân văn chủ nghĩa: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm… Cuộc phục hưng này của văn học dân tộc có điểm giống cuộc phục hưng của Văn học phương Tây thế kỉ 19: khám phá ra con người cá nhân, con người trần thế.

“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, biết đau khổ trước thân phận và thực tại, biết ê chề, bẽ bàng vì sự nhơ nhớp, biết thương lấy chính mình và biết khát khao tình yêu, hạnh phúc, khát khao giữ gìn nhân phẩm – đó là bi kịch, là nỗi đau của Kiều nhưng đồng thời cũng là vẻ đẹp đáng quí của nhân vật. Nếu không có những nỗi đau ấy, nhưng bi kịch tinh thần ấy, Kiều đã không phải là một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”, một nàng Kiều là hiện thân cho sự trinh tiết, cho cái đẹp trong sự ngưỡng vọng, trân trọng của Nguyễn Du.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên mong quý độc giả có thể tham khảo và biết được cách phân tích Nỗi thương mình của Thúy Kiều trích Truyện Kiều Nguyên Du chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 11/2024!