Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “phân tích nhân vật Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du” chuẩn nhất 12/2024.
Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) có sức thu hút đặc biệt đối với giới nghiên cứu, phê bình văn học trong và ngoài nước. Bởi trong kiệt tác này, Nguyễn Du đã tái hiện được cả một thế giới với những nhân vật thật hơn cả người thật. Hoạn Thư là một trong số đó. Sự phức tạp và tính đa diện của nhân vật này có phải là mâu thuẫn trong thế giới quan, nhân sinh quan của tác giả?
Dàn ý
1. Mở bài
– Giới thiệu sơ lược tác giả, đoạn trích
– Giới thiệu khái quát nhân vật Hoạn Thư
2. Thân bài:
Phân tích nhân vật Hoạn Thư qua từng lần xuất hiện và hình tượng nhân vật được tạo dựng
* Luận điểm 1: Hoạn Thư là một người nham hiểm, lắm mưu nhiều kế
– Hoạn Thư hiện lên trước hết là một con người khôn ngoan, giảo hoạt:
+ Trước lời nói và thái độ của Kiều, phút giây đầu Hoạn Thư có “hồn lạc, phách xiêu”.
+ Giây lát sau Hoạn Thư đã kịp trấn tĩnh và “liệu điều kêu ca”.
=> Lời “kêu ca” của Hoạn Thư (thực chất là cách lí giải để gỡ tội) càng bộc lộ rõ tính cách khôn ngoan giảo hoạt.
* Luận điểm 2: Hoạn Thư là một người thông minh, lanh lợi và mưu trí
– Hoạn Thư nhanh trí kể lại “thịnh tình” của mình đã cho Kiều ra viết kinh ở Quan Âm Các và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn.
– Cuối cùng Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình, chỉ còn biết trông cậy vào tấm lòng khoan dung độ lượng rộng lớn như trời biển của Kiều: “Còn nhờ lượng bế thương bài nào chăng”.
=> Qua cách lí giải để gỡ tội, có thể thấy Hoạn Thư “sâu sắc nước đời” đến mức “quỷ quái tinh ma”.
* Luận điểm 3: Hoạn Thư cũng là nạn nhân của chế độ phong kiến thối nát.
– Hoạn Thư dựa vào tâm lí thường tình của người phụ nữ để gỡ tội “Rằng tôi chút phận đàn bà – Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”.
=> Lí lẽ này đã xóa đi sự đối lập giữa Kiều và Hoạn Thư, đưa Hoạn Thư từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung “chút phận đàn bà”. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới nữ: “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”.
=> Từ tội nhân, Hoạn Thư đã biện bạch để mình trở thành nạn nhân của chế độ đa thê.
3. Kết bài
– Ý nghĩa việc xây dựng hình tượng nhân vật Hoạn Thư: Qua nhân vật Hoạn Thư, ta thấy tác giả Nguyễn Du đã thể hiện sự đồng cảm và nhân đạo đối với nhân vật này.
Bài mẫu số 1: Phân tích nhân vật Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du mới nhất
Đã có rất nhiều nhận xét, đánh giá khác nhau và nhiều khi mâu thuẫn, đối lập nhau về Hoạn Thư. Nhìn chung, những nghiên cứu này có thể chia làm hai hướng.
Thứ nhất, Hoạn Thư được nhìn nhận như là một nhân vật phản diện và cùng với các nhân vật phản diện khác, Hoạn Thư là nguyên nhân làm cho Kiều phải gánh chịu bao nỗi bất hạnh. Như vậy thì về cơ bản, Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh chỉ là một bản sao từ Kim Vân Kiều truyện. Các tác giả đều thống nhất với nhau rằng, Hoạn Thư là biểu tượng của cái ghen khủng khiếp, một con người lắm mưu, nhiều kế, một kẻ ác độc đến tàn nhẫn, sẵn sàng chà đạp lên phẩm giá con người để trả mối tư thù.
Ngược lại với cách nhìn trên, có một số nhà nghiên cứu lại coi Hoạn Thư cũng chỉ là một nhân vật bi kịch, một nạn nhân trong tác phẩm. Điều này được họ chứng minh khi chỉ ra sự sáng tạo của Nguyễn Du trong các tình tiết, sự thay đổi tính chất mối quan hệ giữa Hoạn Thư, Thúy Kiều và Thúc Sinh trong Đoạn trường tân thanh.
Đặc biệt, giữa Hoạn Thư và Thúy Kiều không tồn tại mối quan hệ đối lập mà họ là những người “tri âm, tri kỉ” của nhau. Như thế, bước sang Đoạn trường tân thanh, Hoạn Thư đã trở thành một con người mới. Nguyễn Du đã thể hiện tài năng xuất sắc của mình trong việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật này. Vậy thì cuối cùng, Hoạn Thư là nhân vật phản diện hay bi kịch? Và điều đó có ý nghĩa như thế nào khi nghiên cứu Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du trong tương quan so sánh với Kim Vân Kiều truyện? Thiểt nghĩ, đó là câu hỏi không dễ trả lời trong một bài viết.
Con người không thể tồn tại tách rời xã hội, nói cách khác con người luôn phải sống trong một môi trường nhất định và bản chất con người luôn được bộc lộ thông qua những mối quan hệ trong môi trường ấy. Mác nói: “Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Nghĩa là, khi ta muốn tìm hiểu bản chất một con người cụ thể thì cần phải xem xét đến những mối quan hệ xã hội của con người đó.
Con người trong văn học cũng luôn được đặt trong những mối quan hệ phong phú, phức tạp và qua đó, nhà văn sẽ xây dựng cho nhân vật của mình những cuộc đời, số phận và tính cách khác nhau. Trong Đoạn trường tân thanh, bên cạnh Thúy Kiều, Hoạn Thư là một nhân vật có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng.
Nhà nghiên cứu Đông Hồ từng nhận xét, nếu không có Hoạn Thư thì Đoạn trường tân thanh sẽ “sụt đi hết nửa phần giá trị”. Ông khẳng định Hoạn Thư là “một nhân vật lạ lùng kì tuyệt phi thường” và “ví phỏng không có vai trò của Hoạn Thư thì quyển Truyện Kiều là một câu chuyện nhạt quá”. Nghiên cứu về thân phận của Hoạn Thư thì không gì bằng đặt nhân vật này trong mối quan hệ với Kiều và Thúc Sinh.
Để làm thay đổi tính cách của Hoạn Thư, trước hết Nguyễn Du đã làm thay đổi tính cách của Thúc Sinh. Sang đến Đoạn trường tân thanh, chàng Thúc không còn một chút chí khí nào (dù cũng là ít ỏi) như trong Kim Vân Kiều truyện. Một chàng Thúc có đôi lúc cương cường biến mất để nhường chỗ cho một Thúc Sinh trí tuệ thấp kém, đớn hèn và bạc nhược. Vì vậy, Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh trở nên bản lĩnh, thông minh, sắc sảo, “thiệp thế biết điều” hơn rất nhiều so với Hoạn Thư trong nguyên tác. Việc lược bớt, đảo và thêm vào một số chi tiết cũng làm thay đổi tính cách của Hoạn Thư.
Đến Đoạn trường tân thanh, một Hoạn Thư nanh nọc và tàn ác đã được thay thế bởi một Hoạn Thư vị tha, độ lượng. Với việc lược đi một số tình tiết biểu hiện sự ghê gớm, tàn độc của Hoạn Thư, Nguyễn Du đã chứng tỏ ông rất đề cao tấm lòng liên tài, sự tri ngộ, biết cảm thông, chia sẻ ở nhân vật này. Đây là điều khác nhau cơ bản giữa Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh và Hoạn Thư trong Kim Vân Kiều truyện.
Từ việc thay đổi tính cách của Hoạn Thư, Nguyễn Du đã làm thay đổi số phận của nhân vật này. Bước sang Đoạn trường tân thanh, Hoạn Thư đã trở thành một nhân vật bi kịch và để làm được điều này, Nguyễn Du đã thay đổi tính chất mối quan hệ giữa Hoạn Thư và Thúc Sinh, Hoạn Thư với Thúy Kiều.
Quan hệ vợ chồng giữa Thúc Sinh và Hoạn Thư không hề bình thường bởi trước hết đây là mối quan hệ mang tính đẳng cấp. Thúc Sinh chưa bao giờ là một người chồng theo đúng nghĩa của nó mà trong tay Hoạn Thư, trước sau anh ta cũng chỉ là một con rối, một thằng hề mà thôi. Sự đối lập – tương phản về tính cách giữa vợ chồng Thúc – Hoạn chưa phải là bi kịch lớn nhất của Hoạn Thư mà ở nàng còn một nỗi đắng cay hơn nhiều: đó là bi kịch của người đàn bà có chồng mà không được chồng yêu, lại bị chồng lừa dối và phụ bạc.
Dưới ngòi bút Nguyễn Du, cuộc tình Kiều – Thúc càng say đắm, nồng nàn và đẹp đẽ bao nhiêu thì tình cảm vợ chồng Thúc – Hoạn lạt lẽo, vô vị bấy nhiêu. Đoạn Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều thể hiện rõ nhất tình cảm hai người dành cho nhau và đây có thể coi là một trong những đoạn thơ vào loại hay nhất Đoạn trường tân thanh:
Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Kiều – Thúc chia tay trong một tâm trạng ngổn ngang, rối bời. Nỗi buồn trong Kiều da diết mà sâu lắng. Có thể nói, đây là cuộc chia tay đầy nước mắt. Phải về quê thăm vợ đối với Thúc Sinh là một việc “vạn bất đắc dĩ”. Nếu như Nguyễn Du đã dành biết bao câu thơ hay để đặc tả mối tình Kiều – Thúc thì tình cảm vợ chồng Thúc – Hoạn sau bao ngày gặp lại chỉ được ông miêu tả trong một dòng lục bát:
Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
Tình cảm Thúc Sinh dành cho Hoạn Thư chỉ có bấy nhiêu. So với Thúy Kiều, Hoạn Thư quả thực rất thiệt thòi. Vì thông minh và nhạy cảm, Hoạn Thư lại ý thức rất rõ điều này và đó trở thành một nỗi đau thường trực trong nàng. Thúc Sinh yêu Kiều bao nhiêu thì điều đó càng chứng tỏ chàng phụ bạc Hoạn Thư bấy nhiêu. Khi từ biệt Kiều để về thăm vợ chàng bịn rịn, đau khổ bao nhiêu thì khi chia tay với Hoạn Thư chàng vui mừng, hạnh phúc bấy nhiêu:
Được lời như cởi tấc son,
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Trong tâm trạng ấy, khung cảnh thiên nhiên trước mắt Thúc Sinh bỗng trở nên rất đẹp và nên thơ:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Thật tội nghiệp cho Hoạn Thư!
Như vậy, trong mối tình tay ba Kiều – Thúc – Hoạn, Nguyễn Du dựng nên nhiều sự đối lập và sự đối lập ấy đã làm tăng tính chất bi kịch ở Hoạn Thư.
Ở đoạn Kiều báo ân, báo oán, bằng cách lược bỏ một số chi tiết trong nguyên tác, Nguyễn Du đã đẩy bi kịch của Hoạn Thư lên tới đỉnh điểm. Đó là bi kịch của người đàn bà trong hoạn nạn bị chồng bỏ rơi. Trong Kim Vân Kiều truyện, sau khi được Kiều báo ân, Thúc Sinh đã chủ động xin Thúy Kiều tha cho vợ mình: “Kính bẩm phu nhân! Con vợ ngu xuẩn của tôi dù muôn lần chết cũng là đáng tội. Xong Thúc Thủ này đã được phu nhân ân xá, vậy đối với vợ tôi, cũng xin rộng lòng từ bi, mở cho một con đường sống”.
Khi bị Thúy Kiều căn vặn, Thúc Sinh còn dám nhắc lại ơn cũ của vợ mình dành cho Thúy Kiều để hi vọng cứu được vợ: “Gác Quan Âm viết kinh, phu nhân quên rồi à?”. Như thế, dù sao chàng Thúc trong Kim Vân Kiều truyện vẫn còn nhớ đến tình nghĩa vợ chồng, đến trách nhiệm làm chồng của mình. Lời nói của Thúc Sinh vẫn còn hàm chứa tình cảm đối với Hoạn Thư.
Trong Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du đã dựng nên một chàng Thúc khúm núm, sợ hãi đến thảm hại khi được Kiều đền ơn:
Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run.
Khi nghe Kiều nói sẽ trị tội vợ mình:
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Thúc Sinh chẳng những không dám mở mồm xin cho vợ một câu mà chỉ còn biết sợ hãi: “Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm”. Hoạn Thư phải một mình đối phó với Kiều. Hành động này của Thúc Sinh chứng tỏ chàng không những là người hèn kém, nhu nhược mà còn là kẻ bạc tình, bạc nghĩa. Thúc đã bỏ rơi Hoạn vào lúc gian nguy nhất của cuộc đời nàng. Hoạn Thư có chồng mà cũng như không. Ông tơ đã xe duyên cho nàng cùng chàng Thúc cũng là bắt nàng phải gánh chịu một số phận nghiệt ngã. Có người chồng như Thúc quả là điều đau đớn đối với Hoạn Thư. Bằng cách xây dựng lại mối quan hệ vợ chồng Thúc – Hoạn trong Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du đã chứng tỏ Hoạn Thư là một nhân vật bi kịch. Trong Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du từng viết:
Đau đớn thay, phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Đó chính là lời khẳng định, sự tổng kết đầy đau xót của Nguyễn Du về số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Với hình tượng nhân vật Hoạn Thư trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã chứng minh quy luật ấy là đúng với bất kì ai. Hoạn Thư là người rất hiểu Kiều, thông cảm cho hoàn cảnh của Kiều song không thể đối xử khác với Kiều. Nhà nghiên cứu Đông Hồ từng khẳng định trong Đoạn trường tân thanh, nhân vật tri kỉ nhất của Kiều chính là Hoạn Thư, Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải chỉ là những người tương đắc với Thúy Kiều còn người tri kỉ thực sự với Kiều chỉ có mình Hoạn Thư. Hoạn Thư và Thúy Kiều chính là “hai người bạn tri kỉ” trong Truyện Kiều. Họ rất thông cảm và chia sẻ với nhau vì đều là những người đàn bà chịu kiếp chồng chung. Xét riêng về mặt này thì cả hai đều là nạn nhân. Và trong vai trò của người vợ cả, Hoạn Thư thực sự thấu hiểu tình cảnh ấy. Chính vì vậy, nàng luôn dành cho Kiều những tình cảm tốt đẹp và cách đối xử tốt nhất có thể.
Từ chỗ tri kỉ, Hoạn Thư đã có sự tri ngộ, gia ân với nàng Kiều. Hiểu rõ một người, trong lòng lại chất chứa đầy sự cảm thông và yêu mến người ấy mà vẫn phải hành xử với nhau như kẻ thù. Tri ngộ, gia ân nhưng bề ngoài phải tỏ ra lạnh lùng và tàn nhẫn, Hoạn Thư không được sống đúng là mình, luôn phải kìm nén, phải giết chết những tình cảm thật trong lòng mình. Đó chính là bi kịch của Hoạn Thư trong mối quan hệ với Thúy Kiều. Trong những giờ phút được sống thật với mình, sống đúng là mình với Kiều, ta thấy giữa Hoạn Thư và Thúy Kiều quả có mối tri ngộ.
Nếu như sự sáng tạo của các tác giả trung đại thường tập trung ở những tình tiết thì việc Kiều tha bổng cho Hoạn Thư trong đoạn báo ân, báo oán mà không hề đánh đập, khảo tra tiếp tục khẳng định điều đó. Đây không phải một kết thúc bất ngờ mà là kết quả của sự tri kỉ, tri ngộ giữa hai người. Theo dõi mối quan hệ Hoạn Thư – Thúy Kiều trong toàn bộ tác phẩm và xâu chuỗi lại, ta thấy nhận xét trên không phải là thiếu căn cứ. Nguyễn Du đã chuẩn bị rất kĩ cho kết cục này.
Từ đoạn để cho Hoạn Thư xuất hiện trong suy nghĩ của Kiều, Nguyễn Du đã cho thấy Kiều rất hiểu Hoạn Thư. Tình tiết Hoạn Thư để cho Kiều ở nhà Hoạn bà rồi sau đó mới mang Kiều về làm người hầu cũng chứng tỏ Hoạn Thư rất hiểu Kiều. Rồi sau đó, Kiều luôn được Hoạn Thư gia ân trong nhiều tình tiết như không bắt Kiều hầu ngủ, cho Kiều ra Quan Âm các, không truy nã khi Kiều bỏ trốn…
Ngay trong đoạn Kiều hầu rượu, hầu đàn thì rõ ràng, mục đích của việc đánh ghen là nhằm vào Thúc Sinh chứ không phải là nhằm vào Thúy Kiều. Vì vậy, cách hành xử của Hoạn Thư với Kiều mang đầy sự bao dung, độ lượng chứ không tàn độc như nguyên mẫu trong Kim Vân Kiều truyện. Để cho Kiều tha Hoạn Thư cũng là gián tiếp thừa nhận sự gia ân mà trước đây Hoạn Thư đã dành cho Kiều. Việc Kiều tri ân đối với Hoạn Thư là điều hoàn toàn đúng và hợp lôgic bởi nàng đã hiểu sự tri ngộ, gia ân của Hoạn Thư với mình. Hầu như tất cả các nhân vật trong Đoạn trường tân thanh dính dáng đến Thúy Kiều đều bị định mệnh của nàng làm cho bị “vạ lây”. Hoạn Thư cũng vậy.
Tuy nhiên, nếu như các quan hệ khác của Kiều đều kết thúc trong bi kịch (kể cả quan hệ của nàng với Kim Trọng) thì quan hệ Hoạn Thư – Thúy Kiều lại được giải quyết một cách tốt đẹp. Bởi dù sao, Hoạn Thư và Kiều đều là “phận đàn bà” có chung một “lời bạc mệnh” và đáng quý hơn là cả hai người đều thấu hiểu điều đó. Nguyên nhân chính dẫn đến cách ứng xử trên của Kiều không phải là tài biện hộ của Hoạn Thư mà do tấm lòng liên tài, sự xót thương cho những kẻ đồng cảnh ngộ nơi nàng. Toàn bộ sự chuẩn bị của Nguyễn Du đến từng chi tiết ở trên sẽ trở nên vô nghĩa nếu Kiều trong Đoạn trường tân thanh cũng hành động như Kiều trong Kim Vân Kiều truyện. Kết thúc mối quan hệ giữa hai kẻ “tình địch” như vậy, Nguyễn Du đã đạt được nhiều mục đích mà quan trọng nhất là đã xây dựng được một mối dây liên hệ giữa hai con người tưởng như “không đội trời chung” để từ đó khắc sâu bi kịch của họ, đặc biệt là bi kịch của Hoạn Thư.
Dựa vào một nguyên mẫu trong nguyên tác, với một ý đồ sáng tạo mới, Nguyễn Du đã làm thay đổi bản chất của nhân vật Hoạn Thư – đặc biệt ở phương diện tính cách và số phận nhân vật. Từ một điểm nhìn trần thuật mới, ông đã thực hiện một cuộc “lột xác” cho Hoạn Thư. Đúng như Trần Đình Sử nhận xét: “Nhân vật vay mượn có thể được miêu tả theo những trọng tâm, điểm nhấn khác và trở thành nhân vật khác”. Hoạn Thư từ một con người đạo lí, một nhân vật hành động đã trở thành nhân vật tâm trạng với đời sống nội tâm phong phú, đa dạng. Trong Đoạn trường tân thanh, ta bắt gặp một Hoạn Thư tỉnh táo, lí trí hơn song luôn giằng xé với những trăn trở, đớn đau. Ở Hoạn Thư luôn có sự tồn tại, đấu tranh của con người giai cấp và con người cá nhân. Càng thông minh bao nhiêu, càng sắc sảo bao nhiêu thì số phận của nàng lại càng đắng cay và nghiệt ngã bấy nhiêu. Nàng vừa là tội nhân, vừa là nạn nhân.
Bằng các biện pháp nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Du đã xây dựng một nhân vật Hoạn Thư khác hẳn so với nguyên tác. Từ một nhân vật đơn nhất và phản diện trong nguyên tác, bằng cách miêu tả con người nội tâm nhiều chiều và thêm, cắt bỏ và lược đi một số chi tiết, Nguyễn Du đã biến Hoạn Thư trở thành một nhân vật đa diện với một số phận bi kịch trong Đoạn trường tân thanh. Chỉ riêng điều này cũng giúp ta có thể khẳng định tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Du. Cùng với những thành công khác của Đoạn trường tân thanh, nghệ thuật xây dựng nhân vật đã góp phần đưa tác phẩm lên hàng kiệt tác.
Bài mẫu số 2: Phân tích nhân vật Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du chi tiết nhất
Truyện Kiều luôn là niềm tự hào của văn học Việt Nam, được coi là quốc hồn, quốc túy của dân tộc. Tác phẩm đi vào lòng người bởi lời thơ giản dị, bởi tấm lòng thiết tha với những số phận con người của tác giả. Đọc Đoạn Trường tân thanh ta không khỏi đau đớn, khắc khoải, cảm thương trước số phận lênh đênh chìm nổi của nàng Kiều, yêu thương, khâm phục trước một Kim Trọng tình nghĩa thủy chung. Tự hào trước chí lớn bốn phương của người anh hùng Từ Hải, căm phẫn trước một mụ Tú bà độc ác, tham lam. Đọc Đoạn trường Tân Thanh ta còn ngậm ngùi, trước một Hoạn Thư khôn khéo, tinh tế, nhưng cuộc đời cũng không mấy phần may mắn.
Hoạn Thư không phải là một nhân vật lí tưởng mà Nguyễn Du xây dựng, trái lại, cô mang những nét tính cách của một người bình thường, là một con người của cuộc sống đời thường được hình dung qua lăng kính của nhà văn. Hoạn Thư là vợ của Thúc Sinh, một người vốn dòng dõi quý tộc nhưng lại lấy Thúc Sinh làm chồng. Hai bên gia đình tuy không môn đăng hộ đối, hôn nhân cũng không xuất phát từ tình yêu đích thực, nhưng Hoạn Thư không lấy đó làm cái cớ để cho phép mình tự cao, tự đắc, trái lại nàng luôn tôn trọng chồng của mình, đối xử tử tế với hôn phu, chưa bao giờ tỏ ra là kẻ quyền quý, danh gia vọng tộc. Nhưng, ngờ đâu Thúc Sinh lại có tình cảm yêu thương với Kiều, một mối tình mặn nồng tha thiết dành cho nàng. Là người phụ nữ, chắc chắn không ai muốn chịu kiếp chồng chung. Hoạn Thư cũng vậy, nàng không thể nào không đau lòng, cào xé ruột gan khi chia sẻ chồng mình với người khác. Dù biết chuyện giữa Kiều và Thúc nhưng nàng không hề muốn nổi trận lôi đình cho thiên hạ biết, cũng không lựa chọn việc đánh ghen trả thù mà muốn giữ cho gia thất được yên ấm. Đó là một sự khéo léo trong cách xử lí sự việc thông minh của Hoạn Thư. Hoạn Thư mong Thúc Sinh có thể tự thú nhận sự thật nhưng kẻ như nhược ấy lại không làm vậy mà giấu kín như bưng, điều này khiến Hoạn Thư rất tức giận khi đã phạm vào giá quy mà vẫn cố tình giấu giếm.
Hai người gặp gỡ sau bao ngày xa cách cũng không còn chút mặn nồng, trái lại là sự trách hờn vô tận bên trong tâm can mà Hoạn Thư dành cho Thúc Sinh dù được bao biện bằng vẻ bề ngoài. Sâu thẳm bên trong là nỗi đau tột cùng của một người phụ nữ không có được trái tim người đàn ông của mình. Thúc Sinh về được chưa bao lâu thì vội vàng ra đi, vì tình yêu của Thúc luôn dành cho Kiều, một lòng hướng về Kiều. Hoạn Thư biết rất rõ điều đó nhưng không ngăn cản chàng. Vì tình yêu, vì nỗi trách hờn một người chồng phụ bạc, Hoạn Thư đã dùng cách bắt cóc Kiều để dày vò Thúc Sinh, đưa trở về làm người hầu ở nhà nàng. Hoạn Thư nhằm mượn Kiều để khiến Thúc Sinh phải đau đớn khôn nguôi, khiến chàng phải hồn lạc phách xiêu, khi đó Hoạn Thư mới thoả cơn ghen tức. Hoạn Thư không lựa chọn cách hành hạ thân xác để đánh ghen mà dùng tinh thần để làm cho Thúc Sinh phải chịu cay đắng nhất, tuyệt vọng nhất.
Là người rất thông minh, đủ sắc sảo và bản lĩnh khi không dùng cách lấy mạng Kiều để trả thù. Lại là người bao dung khi cho Kiều chép kinh ở Quan Âm các cũng như rất trân trọng tài năng của Kiều, tạo điều kiện cho Kiều chạy trốn, thoát nạn. Khi bị Thúy Kiều gọi lên để xét xử, Hoạn Thư tỏ ra mình là một người vô cùng sắc sảo, khôn ngoan, có phần tinh ranh, quỷ quái, biết đưa ra lí lẽ để gỡ tội cho chính mình:
” Rằng : Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình
Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”
Đồng thời với lời cầu xin thực tâm, chân thành cùng tấm rộng khoan dung của Kiều đã giúp Hoạn Thư thoát tội.
Hoạn Thư có khá nhiều nỗi oái ăm, bi kịch trong cuộc đời đặc biệt bi kịch lớn nhất là bi kịch tình yêu, sống mà không có được tình yêu của chồng mình, đó là một nỗi đau tột cùng của người phụ nữ trong mọi thời đại. Qua nhân vật Hoạn Thư, tác giả đã nói lên tiếng nói cảm thông với người phụ nữa xưa chịu nhiều thiệt thòi; ca ngợi vẻ đẹp trí tuệ, sắc sảo nhưng đồng thời cũng lên tiếng phê phán thói ghen tuông mù quáng đã góp phần làm cho cuộc đời của người khác chịu nhiều đau khổ, sóng gió.
Bài mẫu số 3: Phân tích nhân vật Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du cụ thể nhất
“Đoạn trường tân thanh” hay “truyện Kiều” là một thiên tuyệt bút mà Nguyễn Du để lại cho đời. Tác phẩm đã miêu tả cuộc sống của biết bao số phận con người trong đó có Hoạn Thư. Nếu như Kiều là một hồng nhan bạc phận, là người mà khiến cho bao người đọc phải thương cảm thì Hoạn Thư, nhắc đến, người ta chỉ thấy có sự tàn ác, nanh nọc, ghen tuông. Thế nhưng, phải đọc hết cả tác phẩm, hiểu nó thì mới biết được Nguyễn Du cũng đã cảm thông và trân trọng người phụ nữ này thế nào!
Mỗi khi nói về Hoạn Thư, người ta chỉ thấy toàn những lời mỉa mai, cay độc cho thói ghen tuông đến tàn ác của nàng. Nhắc đến Hoạn Thư, người ta nghĩ ngay tới lúc nàng đối xử với Kiều, ghen tuông với Kiều ra sao, đã hành hạ Kiều như thế nào. Có lẽ đây là điều gây ấn tượng đặc biệt nhất của nhân vật này mà người đời sau đều nhớ tới. Thế nhưng, ở Hoạn Thư, nếu như đọc kĩ tác phẩm, ta còn thấy nàng là một con người luôn biết đặt hạnh phúc gia đình lên hàng đầu, biết giữ gìn danh dự cho chồng, đến phút cuối cũng không “cạn tàu ráo máng” với tình địch mà còn có lòng vị tha, bao dung cho Kiều rồi trước hoàn cảnh hiểm nguy không hề tỏ ra nao núng mà khôn ngoan, bình bĩnh thoát chết trong gang tấc. Có thể nói Hoạn Thư là một nhân vật với đầy đủ những phẩm chất của một con người từ hiện thực cuộc sống bước vào trang sách.
Khi đọc truyện Kiều, trước hết, ta thấy ngay Hoạn Thư là một người phụ nữ có máu ghen tuông thật khủng khiếp, đến nỗi sự ghen tuông của nàng đã trở thành một giai thoại khi ai nhắc tới cũng phải khiếp sợ. Hoạn Thư vốn là một tiểu thư danh giá “họ Hoạn danh gia”, “ con quan Lại bộ” nhưng nàng lại chọn Thúc Sinh để lấy làm chồng. Cuộc hôn nhân này vốn chẳng môn đăng hộ đối, khi chàng Thúc chỉ là một con nhà buôn, không thể sánh ngang với nhà quan lại. Lấy Hoạn Thư nhưng Thúc Sinh lại chẳng biết phận mình, vẫn là một kẻ háo sắc, “quen thói bốc rời” rồi dính tới chuyện dan díu với Kiều:
“Từ khi vườn mới thêm hoa
Miệng người đã lắm, tin nhà thì không”
Thử hỏi xem, một người đàn bà khi biết chồng mình dan díu với kẻ khác sẽ như thế nào? Chẳng phải sẽ vừa ghen tức vừa đau lòng hay sao? Dù biết trong xã hội xưa, trai năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình, thế nhưng thiếp phải được cưới hỏi về đàng hoàng, trước mặt thê tử phải nhận làm phận lẽ, có thưa có gửi chứ không phải lén lút, vụng trộm sau lưng, nhất là khi Hoạn Thư lại là con nhà danh gia vọng tộc. Thế mà Thúc Sinh lại không hề báo cho Hoạn Thư lấy một tiếng, cứ im lặng lén lút mà dan díu với người phụ nữ khác bên ngoài, thử hỏi xem, liệu ai có thể cầm lòng không ghen tuông cho được? Hoạn Thư cũng chỉ là một người phụ nữ với một lòng yêu chồng, lo cho gia đình. Một người phụ nữ như thế thấy chồng mình có nhân tình bên ngoài thì liệu có cầm lòng được chăng? Thử hỏi có một người chồng trăng hoa như thế, ruột gan người vợ nào mà không như xát muối, liệu có ai không đau lòng? Thế nên Hoạn Thư mới thấy:
“Lửa tâm càng dập càng nồng
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa”
Tuy ghen tuông đến thế, nhưng Hoạn Thư lại chẳng như kẻ khác. Nàng ghen đấy, giận đấy nhưng lại im hơi lặng tiếng để chờ xem chàng Thúc kia lên tiếng tỏ bày. Nàng lặng lẽ chờ đợi, không đáng ghen, không làm ầm ĩ như thói thường tình, nàng chờ Thú Sinh tỏ bày với nàng, nàng sẽ bao dung. Thế nhưng chàng Thúc kia quá hèn nhát để mà thú tội, vậy nên Kiều bị đem ra làm lá chắn hi sinh để đe dọa Thúc Sinh.
Hoạn Thư cho bắt Kiều về nhà quan Lại Bộ, ở đây, nàng ta đã khiến Kiều phải hứng chịu một cơn mưa gió tan tành:
“ Hoa trôi nước chảy đã yên
Biết đâu địa ngục là miền trần gian”
Hoạn Thư đã đánh đập Kiều tới mức Kiểu tưởng rằng nơi đây chính là địa ngục chứ chẳng phải trần gian nàng sống. Hành hạ thể xác của Kiều, không chỉ thế, Hoạn Thư còn đày đọa tinh thần Kiều khi bắt nàng làm thị tì, trở thành con hầu trong phủ của Hoạn Thư. Nàng ta còn bắt Kiều ngồi đánh đàn, ca hát, khoan nhặt cung đàn, quỳ tận tay tận mặt mà mời rượu Thúc Sinh. Còn gì tàn ác bằng khi bắt tình nhân của chồng trở thành con hầu, hành hạ cô ta thể xác, đày đọa cô ta về mặt tinh thần khiến cho cô ta không thể nào ngẩng đầu lên được? Chắc hẳn trong tất cả những cái ghen của người đàn bà trong văn học xưa, chẳng ai có cái ghen tuông sâu cay mà thâm độc như Hoạn Thư cả. Hoạn Thư đã khiến Kiều phải hồn xiêu phách lạc, gan héo ruột gầy, dày vò Kiều tới mức đau khổ, nhục nhã nhất.
Có thể nói cái ghen của Hoạn Thư đã đạt tới đỉnh điểm của cái ghen lòng dạ đàn bà. Nào ai có thể nghĩ tới cái ghen khiến cho tình nhân của chồng vừa phải chịu đau đớn, nhục nhã ê chề lại khiến chồng phải e sợ, khiếp gan. Có lẽ điều này chỉ có Hoạn Thư mới làm được, mới cao tay đến thế được.
Thế nhưng, nếu bỏ qua cái ghen tuông kinh khủng mà độc ác của Hoạn Thư, ta thấy đây là một con người hết lòng vì chồng vì gia đình. Biết chồng có nhân tình bên ngoài, nàng ta chẳng hề vội vã làm ầm ĩ ghen tuông mà chỉ chọn cách lặng lẽ để chồng quay đầu. Đến khi chồng nàng chẳng biết hối cải, nàng mới ra tay tuy thế nàng vẫn trừ một lối danh dự cho chồng.
“Tiểu thư nổi giận đùng đùng
Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi
Chồng tao nào phải như ai
Điều này hẳn miếng những người thị phi
Vội vàng xuống lệnh ra uy
Đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng”
Chồng dan díu là thế, nàng giận là thế nhưng nàng vẫn quyết giữ kín chuyện nhà, không để lọt ra ngoài mà làm chồng xấu hổ. Quả là một người phụ nữ đáng nể phục, khéo xử việc nhà! Nàng là người bị phụ tình nhưng vẫn muốn giữ cho gia đình trong ấm ngoài êm. Đó là điều mà chẳng phải người phụ nữ nào cũng có thể làm được. Nàng đã bảo vệ chồng khỏi điều tiếng, đè nén lòng mình để chờ đợi thái độ của chồng. Nàng chỉ cần chồng hối cải, nàng sẽ bao dung mà tha thứ. Có phải người vợ nào cũng làm được như vậy đâu? Thế nhưng, vì sự hèn nhát của Thúc Sinh mà khiến cho Hoạn Thư suốt đời mang một tiếng ghen tuông cay nghiệt khó giải còn Kiều rơi vào cảnh đau đớn, ê chề.
Có thể thấy, Hoạn Thư tuy là một con người với sự ghen tuông kinh khủng nhưng lại là một người vợ biết lo cho chồng, cho gia đình và hơn thế, nàng cũng có lòng bao dung khi nàng đã cố tình mở lại cho Kiều một con đường sống. Biết Kiều là nhân tình của chồng, tuy có đánh đập Kiều, đày ải tinh thần Kiều nhưng đó chẳng qua chỉ là một đòn giận cá mà chém thớt của Hoạn Thư mà thôi. Bởi đến cuối, Hoạn Thư vẫn để Kiều ra ở Quan Âm các mà chép kinh Phật. Thậm chí, Hoạn Thư còn lên tiếng khen Kiều trước mặt Thúc Sinh rằng: “ So ra với thiếp Lan Đình nào thua” rồi thì :
“ Ví chăng có số giàu sang
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên”.
Thử hỏi có mấy người đàn bà nào có bản lĩnh khen tình địch trước mặt chồng như thế chăng? Và nếu Hoạn Thư thực sự là một người đàn bà có tâm địa độc ác hoàn toàn thì Kiều liệu có được khen, có được cơ hội để sống sót trước đòn ghen của Hoạn Thư. Nàng cay nghiệt đấy nhưng chẳng phải đó là cái cay nghiệt thường tình của một người đàn bà hay sao?
Không chỉ vậy, ta còn thấy, Hoạn Thư là một kẻ biết nhu biết cương, trước bờ vực nguy hiểm cận kề vẫn tỏ ra khôn ngoan mà thoát chết. Tình cảnh đó xảy ra khi Hoạn Thư gặp lại Kiều ở tình thế đảo ngược: Kiều báo ân báo oán. Giờ đây, chẳng còn là kiếp chủ tớ, Kiều đã lên thành vị phu nhân cao quý bên Từ Hải, được chàng giúp để nàng báo ân báo oán. Giờ đây, Kiều nắm trong tay sinh sát của Hoạn Thư. Thế nhưng, bằng sự khôn khéo, biết chừng biết mực của mình, Hoạn Thư đã thoát khỏi án tử hình.
Kiều gặp lại Hoạn Thư với tâm thế chuẩn bị sẵn, với ý đồ báo oán với những gì Hoạn Thư đã gây ra cho nàng:
“Thoắt trông nàng đã chào thưa
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt đời này mấy tay
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”.
Đặt mình vào tình thế này, chắc hẳn Hoạn Thư cũng run sợ như bao người khác. Thế nhưng, nàng ta đã khôn khéo mà tự bào chữa cho mình. Nàng rằng:
“Rằng: “Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”.
Hoạn Thư tự biện bạch rằng, sự ghen tuông kia chẳng qua là thói thường của người đàn bà có chồng mà thôi, vậy nên vì sự ghen ấy mà gây ra tội âu cũng là sự lẽ thường, đáng được minh xét là vô tội. Sự biện bạch ấy của Hoạn Thư đã tác động tới Kiều, khiến Kiều phải suy nghĩ vì chính nàng cũng là phận đàn bà. Nhận thấy sự thay đổi của Kiều, Hoạn Thư mới tiếp lời:
“Nghĩ cho khi các viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo
Lòng riêng riêng những kính yêu
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai
Trót đã gây việc chông gai
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?”
Đến đây, Hoạn Thư kể ra một loạt những hành động ân nghĩa của mình đã làm với Kiều. Hoạn Thư đã âm thầm nhắc Kiều rằng chính Hoạn Thư đã mở đường cho Kiều để Kiều có một cơ hội, đây chính là công trạng mà Hoạn Thư đối với Kiều.
Những lời nói của Hoạn Thư với Kiều vừa có nhu lại vừa có cương, vừa kể tội bản thân nhưng cũng vừa kể công trạng của mình để Kiều phải suy ngẫm. Đến cuối, Hoạn Thư đã hạ mình, tôn Kiều lên làm “lượng bể”, người bề trên. Nếu đến thế mà Kiều còn cố chấp xử Hoạn Thư thì chẳng phải Kiều là người bề trên không biết rộng lượng hay sao? Những lời nói của Hoạn Thư đã khiến Kiều phải khâm phục tha bổng cho nàng ta và thốt lên rằng: “Làm ra thì cũng con người nhỏ nhen”. Có thể nói Hoạn Thư trong “Kiều báo ân báo oán” là một con người khôn ngoan biết chừng nào?
Tóm lại, có thể thấy Hoạn Thư trong truyện Kiều hiện lên là một con người với cái ghen tuông độc ác, ghi dấu trong nền văn học, vừa là một người phụ nữ biết vì gia đình, là một con người khôn khéo. Tất cả những chi tiết đó được Nguyễn Du thể hiện thật đặc sắc, thật tuyệt diệu. Có chăng, nếu không có Hoạn Thư, truyện Kiều đã chẳng hoàn hảo đến thế?
Chỉ xuất hiện trong vài đoạn thơ ngắn ngủi, nhưng Hoạn Thư đã in dấu ấn thật đậm nét trong lòng người đọc. Nguyễn Du đã xây dựng lên một Hoạn Thư thật tinh tế, hoàn hảo mà khi nhắc tới tên ai cũng có thể nhớ ngay tới nàng. Có thể nói, nàng – Hoạn Thư chính là một trong những nhân vật tạo được dấu ấn đậm nét nhất, ấn tượng trong truyện Kiều.
Bài mẫu số 4: Phân tích nhân vật Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du chuẩn nhất
Đoạn trường tân thanh – một tác phẩm sống mãi với thời gian của đại thi hào dân tộc Việt Nam – Nguyễn Du, trong tác phẩm của mình, ông đã xây dựng bao hình tượng độc đáo và để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả. Chắc hẳn cũng có rất nhiều người ấn tượng với nhân vật người phụ nữ trong câu chuyện vừa tài giỏi thông minh, giàu có nhưng lại có số phận bất hạnh, đó chính là Hoạn Thư một nhân vật được coi như là nhân vật phản diện của tác phẩm nhưng ẩn sâu trong “ vai diễn” ấy, nàng lại là một người có tình cảnh éo le không mấy gì khác Kiều.
Trong “Kim Vân Kiều truyện”, Hoạn Thư nổi lên với một nhân vật phản diện điển hình tàn độc gian ác thì trong “Đoạn trường tân thanh”, Nguyễn Du đã tạo nên một nhân vật vừa gian ác và vừa đáng thương. Đúng vậy, vì thế có hai luồng ý kiến đối với nhân vật Hoạn Thư của ông. Về một phía, Hoạn Thư được gây dựng nên để gây “rối” cho cuộc đời của nàng Kiều, cô là điển hình của người phụ nữ ghen tuông, sẵn sàng chà đạp người khác để trả thù. Và sang một khía cạnh khác, thì lại cũng có rất người đồng cảm, thương xót nàng, nàng cũng chỉ là một bi kịch, chịu cảnh chồng chung, lại không được chồng yêu thương. Phải thật khâm phục tài năng miêu tả tính cách nhân vật con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Hoạn Thư được miêu tả là người con gái “cành vàng lá ngọc”, sống trong từ bé trong nhung lụa và được nuông chiều, tính cách của cô thì ngang bướng, hống hách và coi thường người khác.
“Bề ngoài thơn thớt nói cười
Bên trong nham hiểm giết người không dao.”
Vì vậy khi phát hiện ra người chồng của mình đã chuộc Kiều-một người con gái khác vừa xinh đẹp lại tài năng, lòng cô không khỏi đố kỵ ghen ghét. Và cũng từ đó mà cuộc sống của nàng Kiều càng trở nên bất hạnh, Hoạn Thư trả thù bằng mọi cách từ thể xác lẫn tinh thần, gây cho nàng bao đau khổ. Có thể thấy cách miêu tả nhân vật tạo nên tính cách của Nguyễn Du thật độc đáo, một lối nghệ thuật hay trong nhân vật này. Cô cư xử khôn khéo, “gian xảo” khi cô biện hộ cho chính sự độc ác của mình với Kiều trong buổi xét xử:
“Rằng: “Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”.
Phải nói rằng Hoạn Thư là một người phụ nữ rất thông minh, biết lấy cớ để thanh minh cho hành động của mình. Cô còn kể công với Kiều những điều cô đã bắt Kiều làm, đã từng “đày đọa” nàng, rằng cô cũng đối xử tốt với nàng, cho nàng chép kinh chứ không bắt nàng làm tì nữ, biết nàng bỏ trốn nhưng không bắt lại. Bằng sự khôn ngoan trong từng câu chữ, chính Kiều cũng phải công nhận “khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”, Hoạn Thư đã lật ngược được tình thế từ thế bị động lo sợ trước khi bị xử tội và thành thế chủ động khi kể công ơn của mình. Hoạn Thư thật sắc sảo, thông minh khi biết nhìn nhận về hoàn cảnh cũng như lòng người, và ở đây chính là nàng Kiều, cô hiểu rất rõ lòng Kiều.
Sự ghen tuông, sự tàn ác của Hoạn Thư cũng phải có lí do, và đó chính là vì người chồng của mình đã ngoại tình. Thử hỏi ai, một người phụ nữ nào có thể chịu đựng được cảnh đó. Nguyễn Du đã phơi bày rõ nghịch cảnh của Hoạn Thư khi không được chồng yêu thương qua những câu thơ của mình. Trong buổi chia tay với nàng Kiều thì tâm trạng tấm lòng của Thúc day dứt, bịn rịn, nhớ thương nhưng khi chia tay người vợ danh chính môn thuận của mình thì lòng chàng ta lại thấy thoải mái, vui vẻ:
“Được lời như cởi tấc son
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người”.
Không chỉ có mình Kiều trong tác phẩm có số phận bi đát mà số phận chung của người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Phải chăng , Hoạn Thư cũng thương cảm cho số phận của nàng Kiều nên mới tha cho nàng, không bắt nàng khi bỏ trốn.
Nguyễn Du đã miêu tả hình tượng nhân vật Hoạn Thư rất thành công, sự thành công của tác phẩm thật không thể thiếu nhân vật này. Một con người phải diễn trong mình lối “đa diện”, vừa là một người phụ nữ độc ác mà vừa là người đáng thương. Bằng sự tinh tế trong từng câu chữ của mình, Nguyễn Du khiến độc giả của mình có cái nhìn đa chiều về từng nhân vật mà ông tạo ra, đó là những giọng điệu sắc sảo, những lồng ghép tâm lí của nhân vật, về con người thực sự của nhân vật.
Bài mẫu số 5: Phân tích nhân vật Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du hay nhất
Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) có sức thu hút đặc biệt đối với giới nghiên cứu, phê bình văn học trong và ngoài nước. Bởi trong kiệt tác này, Nguyễn Du đã tái hiện được cả một thế giới với những nhân vật thật hơn cả người thật. Hoạn Thư là một trong số đó. Sự phức tạp và tính đa diện của nhân vật này có phải là mâu thuẫn trong thế giới quan, nhân sinh quan của tác giả?
Đã có rất nhiều nhận xét, đánh giá khác nhau và nhiều khi mâu thuẫn, đối lập nhau về Hoạn Thư. Nhìn chung, những nghiên cứu này có thể chia làm hai hướng.
Thứ nhất, Hoạn Thư được nhìn nhận như là một nhân vật phản diện và cùng với các nhân vật phản diện khác, Hoạn Thư là nguyên nhân làm cho Kiều phải gánh chịu bao nỗi bất hạnh. Như vậy thì về cơ bản, Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh chỉ là một bản sao từ Kim Vân Kiều truyện. Các tác giả đều thống nhất với nhau rằng, Hoạn Thư là biểu tượng của cái ghen khủng khiếp, một con người lắm mưu, nhiều kế, một kẻ ác độc đến tàn nhẫn, sẵn sàng chà đạp lên phẩm giá con người để trả mối tư thù.
Ngược lại với cách nhìn trên, có một số nhà nghiên cứu lại coi Hoạn Thư cũng chỉ là một nhân vật bi kịch, một nạn nhân trong tác phẩm. Điều này được họ chứng minh khi chỉ ra sự sáng tạo của Nguyễn Du trong các tình tiết, sự thay đổi tính chất mối quan hệ giữa Hoạn Thư, Thúy Kiều và Thúc Sinh trong Đoạn trường tân thanh.
Đặc biệt, giữa Hoạn Thư và Thúy Kiều không tồn tại mối quan hệ đối lập mà họ là những người “tri âm, tri kỉ” của nhau. Như thế, bước sang Đoạn trường tân thanh, Hoạn Thư đã trở thành một con người mới. Nguyễn Du đã thể hiện tài năng xuất sắc của mình trong việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật này. Vậy thì cuối cùng, Hoạn Thư là nhân vật phản diện hay bi kịch? Và điều đó có ý nghĩa như thế nào khi nghiên cứu Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du trong tương quan so sánh với Kim Vân Kiều truyện? Thiển nghĩ, đó là câu hỏi không dễ trả lời trong một bài viết.
Con người không thể tồn tại tách rời xã hội, nói cách khác con người luôn phải sống trong một môi trường nhất định và bản chất con người luôn được bộc lộ thông qua những mối quan hệ trong môi trường ấy. Mác nói: “Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Nghĩa là, khi ta muốn tìm hiểu bản chất một con người cụ thể thì cần phải xem xét đến những mối quan hệ xã hội của con người đó.
Con người trong văn học cũng luôn được đặt trong những mối quan hệ phong phú, phức tạp và qua đó, nhà văn sẽ xây dựng cho nhân vật của mình những cuộc đời, số phận và tính cách khác nhau. Trong Đoạn trường tân thanh, bên cạnh Thúy Kiều, Hoạn Thư là một nhân vật có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng.
Nhà nghiên cứu Đông Hồ từng nhận xét, nếu không có Hoạn Thư thì Đoạn trường tân thanh sẽ “sụt đi hết nửa phần giá trị”. Ông khẳng định Hoạn Thư là “một nhân vật lạ lùng kì tuyệt phi thường” và “ví phỏng không có vai trò của Hoạn Thư thì quyển Truyện Kiều là một câu chuyện nhạt quá”. Nghiên cứu về thân phận của Hoạn Thư thì không gì bằng đặt nhân vật này trong mối quan hệ với Kiều và Thúc Sinh.
Để làm thay đổi tính cách của Hoạn Thư, trước hết Nguyễn Du đã làm thay đổi tính cách của Thúc Sinh. Sang đến Đoạn trường tân thanh, chàng Thúc không còn một chút chí khí nào (dù cũng là ít ỏi) như trong Kim Vân Kiều truyện. Một chàng Thúc có đôi lúc cương cường biến mất để nhường chỗ cho một Thúc Sinh trí tuệ thấp kém, đớn hèn và bạc nhược. Vì vậy, Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh trở nên bản lĩnh, thông minh, sắc sảo, “thiệp thế biết điều” hơn rất nhiều so với Hoạn Thư trong nguyên tác. Việc lược bớt, đảo và thêm vào một số chi tiết cũng làm thay đổi tính cách của Hoạn Thư.
Đến Đoạn trường tân thanh, một Hoạn Thư nanh nọc và tàn ác đã được thay thế bởi một Hoạn Thư vị tha, độ lượng. Với việc lược đi một số tình tiết biểu hiện sự ghê gớm, tàn độc của Hoạn Thư, Nguyễn Du đã chứng tỏ ông rất đề cao tấm lòng liên tài, sự tri ngộ, biết cảm thông, chia sẻ ở nhân vật này. Đây là điều khác nhau cơ bản giữa Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh và Hoạn Thư trong Kim Vân Kiều truyện.
Từ việc thay đổi tính cách của Hoạn Thư, Nguyễn Du đã làm thay đổi số phận của nhân vật này. Bước sang Đoạn trường tân thanh, Hoạn Thư đã trở thành một nhân vật bi kịch và để làm được điều này, Nguyễn Du đã thay đổi tính chất mối quan hệ giữa Hoạn Thư và Thúc Sinh, Hoạn Thư với Thúy Kiều.
Quan hệ vợ chồng giữa Thúc Sinh và Hoạn Thư không hề bình thường bởi trước hết đây là mối quan hệ mang tính đẳng cấp. Thúc Sinh chưa bao giờ là một người chồng theo đúng nghĩa của nó mà trong tay Hoạn Thư, trước sau anh ta cũng chỉ là một con rối, một thằng hề mà thôi. Sự đối lập – tương phản về tính cách giữa vợ chồng Thúc – Hoạn chưa phải là bi kịch lớn nhất của Hoạn Thư mà ở nàng còn một nỗi đắng cay hơn nhiều: đó là bi kịch của người đàn bà có chồng mà không được chồng yêu, lại bị chồng lừa dối và phụ bạc.
Dưới ngòi bút Nguyễn Du, cuộc tình Kiều – Thúc càng say đắm, nồng nàn và đẹp đẽ bao nhiêu thì tình cảm vợ chồng Thúc – Hoạn lạt lẽo, vô vị bấy nhiêu. Đoạn Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều thể hiện rõ nhất tình cảm hai người dành cho nhau và đây có thể coi là một trong những đoạn thơ vào loại hay nhất Đoạn trường tân thanh:
READ: Em hãy tả dòng sông mùa lũ
Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Kiều – Thúc chia tay trong một tâm trạng ngổn ngang, rối bời. Nỗi buồn trong Kiều da diết mà sâu lắng. Có thể nói, đây là cuộc chia tay đầy nước mắt. Phải về quê thăm vợ đối với Thúc Sinh là một việc “vạn bất đắc dĩ”. Nếu như Nguyễn Du đã dành biết bao câu thơ hay để đặc tả mối tình Kiều – Thúc thì tình cảm vợ chồng Thúc – Hoạn sau bao ngày gặp lại chỉ được ông miêu tả trong một dòng lục bát:
Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
Tình cảm Thúc Sinh dành cho Hoạn Thư chỉ có bấy nhiêu. So với Thúy Kiều, Hoạn Thư quả thực rất thiệt thòi. Vì thông minh và nhạy cảm, Hoạn Thư lại ý thức rất rõ điều này và đó trở thành một nỗi đau thường trực trong nàng. Thúc Sinh yêu Kiều bao nhiêu thì điều đó càng chứng tỏ chàng phụ bạc Hoạn Thư bấy nhiêu. Khi từ biệt Kiều để về thăm vợ chàng bịn rịn, đau khổ bao nhiêu thì khi chia tay với Hoạn Thư chàng vui mừng, hạnh phúc bấy nhiêu:
Được lời như cởi tấc son,
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Trong tâm trạng ấy, khung cảnh thiên nhiên trước mắt Thúc Sinh bỗng trở nên rất đẹp và nên thơ:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Thật tội nghiệp cho Hoạn Thư!
Như vậy, trong mối tình tay ba Kiều – Thúc – Hoạn, Nguyễn Du dựng nên nhiều sự đối lập và sự đối lập ấy đã làm tăng tính chất bi kịch ở Hoạn Thư.
Ở đoạn Kiều báo ân, báo oán, bằng cách lược bỏ một số chi tiết trong nguyên tác, Nguyễn Du đã đẩy bi kịch của Hoạn Thư lên tới đỉnh điểm. Đó là bi kịch của người đàn bà trong hoạn nạn bị chồng bỏ rơi. Trong Kim Vân Kiều truyện, sau khi được Kiều báo ân, Thúc Sinh đã chủ động xin Thúy Kiều tha cho vợ mình: “Kính bẩm phu nhân! Con vợ ngu xuẩn của tôi dù muôn lần chết cũng là đáng tội. Xong Thúc Thủ này đã được phu nhân ân xá, vậy đối với vợ tôi, cũng xin rộng lòng từ bi, mở cho một con đường sống”.
Khi bị Thúy Kiều căn vặn, Thúc Sinh còn dám nhắc lại ơn cũ của vợ mình dành cho Thúy Kiều để hi vọng cứu được vợ: “Gác Quan Âm viết kinh, phu nhân quên rồi à?”(3). Như thế, dù sao chàng Thúc trong Kim Vân Kiều truyện vẫn còn nhớ đến tình nghĩa vợ chồng, đến trách nhiệm làm chồng của mình. Lời nói của Thúc Sinh vẫn còn hàm chứa tình cảm đối với Hoạn Thư.
Trong Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du đã dựng nên một chàng Thúc khúm núm, sợ hãi đến thảm hại khi được Kiều đền ơn:
Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run.
Khi nghe Kiều nói sẽ trị tội vợ mình:
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Thúc Sinh chẳng những không dám mở mồm xin cho vợ một câu mà chỉ còn biết sợ hãi: “Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm”. Hoạn Thư phải một mình đối phó với Kiều. Hành động này của Thúc Sinh chứng tỏ chàng không những là người hèn kém, nhu nhược mà còn là kẻ bạc tình, bạc nghĩa. Thúc đã bỏ rơi Hoạn vào lúc gian nguy nhất của cuộc đời nàng. Hoạn Thư có chồng mà cũng như không. Ông tơ đã xe duyên cho nàng cùng chàng Thúc cũng là bắt nàng phải gánh chịu một số phận nghiệt ngã. Có người chồng như Thúc quả là điều đau đớn đối với Hoạn Thư. Bằng cách xây dựng lại mối quan hệ vợ chồng Thúc – Hoạn trong Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du đã chứng tỏ Hoạn Thư là một nhân vật bi kịch. Trong Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du từng viết:
Đau đớn thay, phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Đó chính là lời khẳng định, sự tổng kết đầy đau xót của Nguyễn Du về số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Với hình tượng nhân vật Hoạn Thư trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã chứng minh quy luật ấy là đúng với bất kì ai. Hoạn Thư là người rất hiểu Kiều, thông cảm cho hoàn cảnh của Kiều song không thể đối xử khác với Kiều. Nhà nghiên cứu Đông Hồ từng khẳng định trong Đoạn trường tân thanh, nhân vật tri kỉ nhất của Kiều chính là Hoạn Thư, Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải chỉ là những người tương đắc với Thúy Kiều còn người tri kỉ thực sự với Kiều chỉ có mình Hoạn Thư. Hoạn Thư và Thúy Kiều chính là “hai người bạn tri kỉ” trong Truyện Kiều. Họ rất thông cảm và chia sẻ với nhau vì đều là những người đàn bà chịu kiếp chồng chung. Xét riêng về mặt này thì cả hai đều là nạn nhân. Và trong vai trò của người vợ cả, Hoạn Thư thực sự thấu hiểu tình cảnh ấy. Chính vì vậy, nàng luôn dành cho Kiều những tình cảm tốt đẹp và cách đối xử tốt nhất có thể.
READ: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Từ chỗ tri kỉ, Hoạn Thư đã có sự tri ngộ, gia ân với nàng Kiều. Hiểu rõ một người, trong lòng lại chất chứa đầy sự cảm thông và yêu mến người ấy mà vẫn phải hành xử với nhau như kẻ thù. Tri ngộ, gia ân nhưng bề ngoài phải tỏ ra lạnh lùng và tàn nhẫn, Hoạn Thư không được sống đúng là mình, luôn phải kìm nén, phải giết chết những tình cảm thật trong lòng mình. Đó chính là bi kịch của Hoạn Thư trong mối quan hệ với Thúy Kiều. Trong những giờ phút được sống thật với mình, sống đúng là mình với Kiều, ta thấy giữa Hoạn Thư và Thúy Kiều quả có mối tri ngộ.
Nếu như sự sáng tạo của các tác giả trung đại thường tập trung ở những tình tiết thì việc Kiều tha bổng cho Hoạn Thư trong đoạn báo ân, báo oán mà không hề đánh đập, khảo tra tiếp tục khẳng định điều đó. Đây không phải một kết thúc bất ngờ mà là kết quả của sự tri kỉ, tri ngộ giữa hai người. Theo dõi mối quan hệ Hoạn Thư – Thúy Kiều trong toàn bộ tác phẩm và xâu chuỗi lại, ta thấy nhận xét trên không phải là thiếu căn cứ. Nguyễn Du đã chuẩn bị rất kĩ cho kết cục này.
Từ đoạn để cho Hoạn Thư xuất hiện trong suy nghĩ của Kiều, Nguyễn Du đã cho thấy Kiều rất hiểu Hoạn Thư. Tình tiết Hoạn Thư để cho Kiều ở nhà Hoạn bà rồi sau đó mới mang Kiều về làm người hầu cũng chứng tỏ Hoạn Thư rất hiểu Kiều. Rồi sau đó, Kiều luôn được Hoạn Thư gia ân trong nhiều tình tiết như không bắt Kiều hầu ngủ, cho Kiều ra Quan Âm các, không truy nã khi Kiều bỏ trốn…
Ngay trong đoạn Kiều hầu rượu, hầu đàn thì rõ ràng, mục đích của việc đánh ghen là nhằm vào Thúc Sinh chứ không phải là nhằm vào Thúy Kiều. Vì vậy, cách hành xử của Hoạn Thư với Kiều mang đầy sự bao dung, độ lượng chứ không tàn độc như nguyên mẫu trong Kim Vân Kiều truyện. Để cho Kiều tha Hoạn Thư cũng là gián tiếp thừa nhận sự gia ân mà trước đây Hoạn Thư đã dành cho Kiều. Việc Kiều tri ân đối với Hoạn Thư là điều hoàn toàn đúng và hợp lôgic bởi nàng đã hiểu sự tri ngộ, gia ân của Hoạn Thư với mình. Hầu như tất cả các nhân vật trong Đoạn trường tân thanh dính dáng đến Thúy Kiều đều bị định mệnh của nàng làm cho bị “vạ lây”. Hoạn Thư cũng vậy.
Tuy nhiên, nếu như các quan hệ khác của Kiều đều kết thúc trong bi kịch (kể cả quan hệ của nàng với Kim Trọng) thì quan hệ Hoạn Thư – Thúy Kiều lại được giải quyết một cách tốt đẹp. Bởi dù sao, Hoạn Thư và Kiều đều là “phận đàn bà” có chung một “lời bạc mệnh” và đáng quý hơn là cả hai người đều thấu hiểu điều đó. Nguyên nhân chính dẫn đến cách ứng xử trên của Kiều không phải là tài biện hộ của Hoạn Thư mà do tấm lòng liên tài, sự xót thương cho những kẻ đồng cảnh ngộ nơi nàng. Toàn bộ sự chuẩn bị của Nguyễn Du đến từng chi tiết ở trên sẽ trở nên vô nghĩa nếu Kiều trong Đoạn trường tân thanh cũng hành động như Kiều trong Kim Vân Kiều truyện. Kết thúc mối quan hệ giữa hai kẻ “tình địch” như vậy, Nguyễn Du đã đạt được nhiều mục đích mà quan trọng nhất là đã xây dựng được một mối dây liên hệ giữa hai con người tưởng như “không đội trời chung” để từ đó khắc sâu bi kịch của họ, đặc biệt là bi kịch của Hoạn Thư.
Dựa vào một nguyên mẫu trong nguyên tác, với một ý đồ sáng tạo mới, Nguyễn Du đã làm thay đổi bản chất của nhân vật Hoạn Thư – đặc biệt ở phương diện tính cách và số phận nhân vật. Từ một điểm nhìn trần thuật mới, ông đã thực hiện một cuộc “lột xác” cho Hoạn Thư. Đúng như Trần Đình Sử nhận xét: “Nhân vật vay mượn có thể được miêu tả theo những trọng tâm, điểm nhấn khác và trở thành nhân vật khác”. Hoạn Thư từ một con người đạo lí, một nhân vật hành động đã trở thành nhân vật tâm trạng với đời sống nội tâm phong phú, đa dạng. Trong Đoạn trường tân thanh, ta bắt gặp một Hoạn Thư tỉnh táo, lí trí hơn song luôn giằng xé với những trăn trở, đớn đau. Ở Hoạn Thư luôn có sự tồn tại, đấu tranh của con người giai cấp và con người cá nhân. Càng thông minh bao nhiêu, càng sắc sảo bao nhiêu thì số phận của nàng lại càng đắng cay và nghiệt ngã bấy nhiêu. Nàng vừa là tội nhân, vừa là nạn nhân.
Bằng các biện pháp nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Du đã xây dựng một nhân vật Hoạn Thư khác hẳn so với nguyên tác. Từ một nhân vật đơn nhất và phản diện trong nguyên tác, bằng cách miêu tả con người nội tâm nhiều chiều và thêm, cắt bỏ và lược đi một số chi tiết, Nguyễn Du đã biến Hoạn Thư trở thành một nhân vật đa diện với một số phận bi kịch trong Đoạn trường tân thanh. Chỉ riêng điều này cũng giúp ta có thể khẳng định tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Du. Cùng với những thành công khác của Đoạn trường tân thanh, nghệ thuật xây dựng nhân vật đã góp phần đưa tác phẩm lên hàng kiệt tác.
Bài mẫu số6 : Phân tích nhân vật Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du mới nhất
Thúy Kiều báo ân báo oán là một đoạn trích hay và có vị trí quan trọng trong tác phẩm kinh điển Truyện Kiều, bộc lộ một cách sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn cao thượng, tấm lòng vị tha nhân hậu và sống ân tình thủy chung của Thúy Kiều. Bên cạnh đó còn thể hiện khát khao về một xã hội công bằng, công lý được thực thi từ chính bàn tay của những con người chịu nhiều đau thương. Ở đoạn trích này ngoài việc khắc họa một cách sâu sắc tính cách của Thúy Kiều, thì nhân vật Hoạn Thư cũng được Nguyễn Du dành khá nhiều câu từ để phác họa, người phụ nữ đã để cho Thúy Kiều khốn khổ với những ngày tháng tỳ nữ tên “Hoa Nô” trong cửa nhà quan.
Trong quãng đời lưu lạc 15 năm của mình thì có lẽ Thúc Sinh là đấng nam nhi duy nhất mà nàng gặp có một phong thái đời thường nhất, chàng không hề được Nguyễn Du tô vẽ quá nhiều như Kim Trọng, Từ Hải và một số nhân vật khác trong tác phẩm. Sở dĩ có cuộc gặp gỡ duyên nợ với Thúy Kiều cũng bởi Thúc Sinh tuy là một thư sinh nhưng cũng lại là một vị khách phong lưu nổi tiếng, đã mến mộ danh tiếng tuyệt sắc, tài năng của Thúy Kiều bấy lâu. Sau vài lần gặp gỡ Thúc Sinh đã có ý muốn đón Thúy Kiều về làm vợ, tuy nhiên gặp phải sự phản đối của gia đình, Thúc ông đã kiện Thúy Kiều lên quan, khiến nàng phải chịu tra hình. Tuy nhiên may mắn vị quan kia cũng là người nhân từ, thấy đôi uyên ương số khổ nên đã cho Kiều làm một bài thơ tỏ rõ nỗi lòng, sau khi nghe thơ Thúy Kiều thì vị quan này đã khiến Thúc ông nên chấp nhận nàng, lại cho sính lễ để rước Kiều về. Thúc ông cũng đã hiểu được tiết hạnh, tài sắc của Kiều nên cũng đành chấp nhận cho nàng vào cửa, vợ chồng Thúc Sinh – Thúy Kiều chung sống hạnh phúc êm đềm với nhau được một năm tròn. Nhưng với thân phận thiếp thất, lại có tấm lòng thông cảm với vợ cả của chồng là Hoạn Thư, người vợ chính đã vào cửa lâu nhưng chưa có nổi mụn con, nên Kiều đã khuyên chồng mình về thăm. Thúc Sinh nghe lời Kiều cũng sắp sửa lên đường về thăm Hoạn Thư, từ đây cuộc đời Kiều lại bước vào nỗi đau khổ khác, Hoạn Thư là người đàn bà lắm mưu mô chước quỷ, lợi dụng lúc Thúc Sinh đi đường đã cho người đốt nhà Thúy Kiều, rồi chuốc thuốc mê bắt nàng về phủ họ Hoạn, bắt nàng làm thị tỳ hầu hạ, dưới cái tên Hoa Nô, đồng thời hành hạ, đánh đập nàng đủ đường. Còn về phía gia đình Thúc Sinh những tưởng Thúy Kiều đã chết sau trận hỏa hoạn, thế nên chàng Thúc đành quay về nhà vợ cả, ở đây gặp lại Thúy Kiều dưới thân phận tỳ nữ, chàng đã hết sức ngỡ ngàng. Hoạn Thư vốn là người cay nghiệt, bắt Thúy Kiều phải hầu hạ hai vợ chồng, đánh đàn, quạt mát, dọn cơm,… Thúy Kiều nhục nhã không nói nên lời, cứ khóc mãi. Thúc Sinh nén đau đớn bảo Hoạn Thư cho Thúy Kiều viết một tờ khai kể rõ ngọn nguồn. Kiều kể về cuộc đời mình, rồi xin được vào chùa đi tu, cuối cùng Hoạn Thư chấp nhận để Kiều đến gác Quan m sau nhà mình chép kinh thư. Như vậy có thể nói rằng trước mặt Thúc Sinh, Hoạn Thư vẫn sắm vai một người phụ nữ đoan trang, nhưng sau lưng lại ngấm ngầm tìm cách chia rẽ mối duyên một cách khéo, khiến cho Thúy Kiều phải tự nguyện ra mà Thúc Sinh không thể nói lời nào.
Lại kể rằng khi chép kinh ở gác Quan m, thì Kiều đã lén trốn đi, rồi không may một lần nữa nàng lại bị lừa bán vào lầu xanh lần hai, ở đây nàng gặp được Từ Hải, bậc anh hùng cái thế, hai người mau chóng phải lòng nhau. Từ Hải chuộc Kiều về nhà riêng, cả hai chung sống hạnh phúc được nửa năm, thì Từ Hải lại đi chính chiến sa trường, sau khi chiến thắng trở về, Từ Hải đã đem sính lễ và cưới nàng làm chính thất. Trong lúc đương vui thì Kiều nhớ những năm tháng hàn vi, nảy ý muốn trả ân báo oán. Hoạn Thư là một trong những nhân vật được Kiều nhắm đến để báo oán.
Ở trong trích đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán, Thúy Kiều sau khi trả nghĩa cho Thúc Sinh xong xuôi, thì cho người giải Hoạn Thư vào diện kiến. Kiều lúc này ở trên bậc cao công đường, cao cao tại thượng, cũng nóng lòng muốn gặp lại kẻ khi xưa đã gây ra cho nàng biết bao đau khổ, thế nên vừa thấy bóng Hoạn Thư nàng đã lập tức buông lời mỉa mai châm chích “Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây”, cùng với những lời đay nghiến khiến đối phương không khỏi giật mình nhìn lại nàng Kiều giờ đây đã khác khi xưa, trở nên mạnh mẽ, quyền thế, chứ không phải một thiếp thất tùy người chà đạp. Đặc biệt là ở câu nói “Càng oan nghiệt lắm càng ngang trái nhiều” đã nhấn mạnh sự trả thù của Kiều, cùng với biết bao đớn đau uất ức trong trái tim nàng. Hoạn Thư, khi gặp lại Thúy Kiều, thì lòng không khỏi sợ hãi, người phụ nữ khi xưa cũng được xem là có quyền thế, nhà cửa gia nhân tấp nập, phong thái tiểu thư cao quý, lại có một bụng dạ sâu cay, nay gặp cảnh này cũng trở nên hoảng hốt “hồn lạc phách xiêu”. Còn đâu phong thái ghê gớm, mạt sát và những đòn ghen cay nghiệt “nhẹ như bấc, nặng như chì” khi xưa, chỉ thấy Hoạn Thư nhát gan, vội vàng thức thời “khấu đầu dưới trướng” mà lòng thì lo “liệu điều kêu ca”. Chỉ với bấy nhiêu biểu hiện ta cũng có thể nhận thấy rằng Hoạn Thư là một người phụ nữ rất thông minh, gặp nguy dẫu sợ nhưng đầu óc đã nhanh chóng tính kế xoay chuyển, tìm đường thoát thân. Ngay từ câu “Tôi chút phận đàn bà/Ghen tuông thì cũng là chuyện người ta thường tình”, đã có thể thấy Hoạn Thư là người mồm mép nhanh nhạy, giỏi lươn lẹo ứng biến, lấy cái lý lẽ thường tình trong cuộc đời để lấp liếm cho những chuyện ác mà bản thân mình làm ra. Rồi lại nghe nàng ta nhắc về chuyện “Nghĩ cho khi gác viết kinh/ Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo” , hoàn toàn bỏ qua chuyện nàng ta từng cho người bắt cóc Thúy Kiều, ép nàng thị tỳ, lại đánh đập không thương tiếc, sau còn tìm cách làm nhục nàng trước mặt Thúc Sinh, ngấm ngầm phá hoại tình cảm của của Thúc Sinh – Thúy Kiều. Mà chỉ nhắc về cái trò đạo đức giả trước mặt Thúc Sinh là cho Kiều đi tu, lại để cho nàng chạy trốn, nhưng ngẫm lại, một người đang có cuộc sống êm đềm lại ép đến mức người ta phải đi tu để trốn chạy những đòn ghen hiểm độc. Thêm vào nữa chuyện Thúy Kiều chạy trốn khỏi gác Quan m có lẽ cũng có sự tình gì trong đây, phải chăng vì Thúc Sinh vẫn ngày đêm mong nhớ, thế nên Hoạn Thư mới giở thủ đoạn khiến Kiều không thể chịu đựng được nữa mà chọn cách trốn đi biệt tích. Qua bấy nhiêu chuyện ta có thể thấy rằng, cách ghen của Hoạn Thư cũng rất mực thông minh và không kém phần cay nghiệt, khiến cho Thúy Kiều không chỉ đớn đau về thể xác mà cả tâm hồn cũng phải chịu những giày vò khủng khiếp. Nào có người phụ nữ nào chịu được cảnh chồng mình ân ái với người phụ nữ khác, còn bản thân phải cam chịu làm tỳ nữ hầu hạ, không thể ngẩng đầu, trái lại đớn đau hơn là Thúc Sinh giờ đây cũng lộ ra vẻ nhu nhược, hèn nhát trước mặt vợ cả, không dám đứng lên bảo vệ nàng. Từ đó trái tim vốn ham sống, yêu đời của Kiều mới được cứu về hơn năm trước vì sự trân trọng yêu thương hết mực của chàng Thúc nay lại như tro tàn.
Sự thông minh và giảo hoạt của Hoạn Thư còn thể hiện ở nghệ thuật nắm bắt tâm lý con người, rõ ràng rằng nàng ta nắm thóp được Thúy Kiều bên ngoài mạnh mẽ thế thôi nhưng sâu thẳm trong nàng vẫn là một trái tim yếu đuối và trong sáng, dễ cảm thông. Thế nên khi Hoạn Thư nhắc “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”, đã khơi gợi nên trong lòng Kiều sự thông cảm cho thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, Hoạn Thư cũng như mình, phận đàn bà lại chung chồng, hẳn chuyện ghen tuông là không thể tránh khỏi. Bởi chính bản thân Kiều cũng nếm trải nỗi đau chung chồng dưới thân phận thiếp thất, những đắng cay ấy nàng lại là người hiểu rõ hơn bao giờ hết, từ đó việc thông cảm cho Hoạn Thư là điều tất yếu. Không chỉ vậy việc Hoạn Thư khéo léo nhắc việc “chung chồng” tức cũng ngầm ám chỉ rằng chuyện khi xưa một phần lỗi cũng là tại do Thúy Kiều, đang không lại trở thành người chen ngang hạnh phúc gia đình của Hoạn Thư khiến nàng ta phải chịu sự ghẻ lạnh của chồng suốt một quãng thời gian. Chuyện này đối với Thúy Kiều cũng là một sự đả kích, khơi gợi lên trong lòng nàng sự day dứt, áy náy với Hoạn Thư. Không chỉ vậy việc Hoạn Thư lần lượt đưa ra những lý lẽ từ việc ghen tuông là lẽ thường tình, đến ơn nghĩa với Kiều, rồi đến nỗi khổ chung chồng đã đưa Kiều vào thế khó xử “Tha ra thì cũng may đời/Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”. Có thể nhận định rằng Hoạn Thư biết chắc rằng với tấm lòng lương thiện và lối sống cao cả cũng như sự đồng cảm của mình Thúy Kiều sẽ xá tội cho nên nàng ta mới lươn lẹo, lý lắc như thế. Và cuối cùng nhờ đầu óc nhanh, khả năng ứng biến và sự khéo léo của mình quả thật Hoạn Thư đã thoát khỏi sự báo oán của Thúy Kiều.
Tóm lại qua tác phẩm Truyện Kiều Hoạn Thư hiện lên là một nhân vật cay nghiệt, lắm mưu mô chước quỷ khiến Thúy Kiều nhiều lần phải chịu thiệt thòi, đau khổ, khiến nàng phải chấp nhận dứt duyên với Kim Trọng, rồi lần nữa rơi vào lầu xanh. Thế nhưng nói đi cũng phải nói lại, Hoạn Thư cũng là một nhân vật đáng thương điển hình trong chế độ phong kiến xưa. Dù thông minh, sắc sảo có thừa, gia thế tốt đẹp nhưng lại có một người chồng nhu nhược, lại phong lưu, khiến nàng ta nhiều lần gánh nỗi khổ ghen tuông, sau là nỗi đau chung chồng, bị lạnh bạc biết bao ngày tháng. Ở trong trích đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán thì sự thông minh, lươn lẹo, giỏi ứng biến của Hoạn Thư lại là cái làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của Thúy Kiều, bộc lộ sự nhân hậu, tấm lòng vị tha, lối sống cao thượng, sẵn sàng từ bỏ những ân oán khi xưa để bắt đầu một cuộc sống mới của nhân vật Thúy Kiều.
Bài mẫu số7 : Phân tích nhân vật Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du mới nhất
Trong bài viết này, tôi sẽ đi vào phân tích, bình, luận về nhân vật Hoạn Thư, một phụ nữ có tính cách rất đặc biệt. Lâu nay, vì yêu mến Thúy Kiều mà người đời ghét bỏ Hoạn Thư, cho rằng Hoạn Thư nanh nọc, đáo để, ghen tuông khủng khiếp. Vì thế, nói đến Hoạn Thư là người đời mặc định cái sự ghen và có thể nói, câu “Ghen như ghen Hoạn Thư” đã trở thành thành ngữ.
Hoạn Thư được sinh ra trong một gia đình có cha họ Hoạn, quyền thế dưới một người nhưng trên vạn người – quan thượng thư Lại bộ, đứng đầu các quan trong triều đình – nên được giáo dục đàng hoàng tử tế theo thuần phong mỹ tục và đạo đức của Nho giáo Khổng Tử. Do một duyên may hiếm có mà Thúc Sinh được kết duyên với Hoạn Thư: “Duyên đằng thuận nẻo gió đưa/ Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày”. Thúc Sinh vốn ở huyện Vô Tích (Thường Châu, Giang Tô, Trung Quốc), theo cha đến mở ngôi hàng buôn bán ở huyện Lâm Tri (Thanh Châu, Sơn Đông, Trung Quốc), cũng thuộc dòng dõi nhà có học. Thúc Sinh mến mộ tiếng tăm hoa khôi Kiều nhi ở lầu xanh của Tú bà nên không tiếc tiền để mua vui – “Trăm nghìn đổ một trận cười như không” – và “Sớm đào tối mận lân la” để chinh phục Thúy Kiều. Ban đầu, chàng Thúc đến với nàng Kiều chỉ là trăng gió chơi bời, dần dà hai người tâm đầu ý hợp – say sưa uống rượu, xướng họa thơ, chơi cờ, gảy đàn nên ngày càng cảm mến nhau và dan díu tình – rồi chàng tính kế lừa Tú bà, chuộc nàng khỏi lầu xanh và sống chung như vợ chồng.
Ta hãy xem Hoạn Thư ứng xử thế nào khi biết chồng có vợ lẽ. Như những phụ nữ khác, Hoạn Thư cũng “ngứa ghẻ hờn ghen”, “lửa tâm càng dập càng nồng” và giận chồng ra lòng trăng hoa. Nhưng rồi Hoạn Thư cũng bình tâm nghĩ lại: “Ví bằng thú thật cùng ta/ Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên”. Khi hai gia nhân mách tin rằng ông chủ (Thúc Sinh) có vợ lẽ, ý muốn tâng công, Hoạn Thư liền nổi giận đùng đùng, mắng: “Gớm! Chẳng qua là chuyện thêu dệt để trêu ngươi thôi. Chồng ta đâu phải là người trăng hoa như ai, điều này chắc hẳn là từ miệng của những người thị phi phao tin”. Thế rồi Hoạn Thư ra lệnh: Người thì bị vả miệng, người thì bẻ răng. Thế là không còn ai dám nói năng một lời nên chuyện được giữ kín trong, ngoài.
Có ba sự việc quan trọng mà tôi nghĩ cần phải nói rõ, vì nó sẽ chi phối thái độ và tình cảm của chúng ta đối với Hoạn Thư. 1/ Hoạn Thư chỉ là người lên kế hoạch bắt cóc Thúy Kiều, không hề nhiếc móc, đánh đập Thúy Kiều như nhiều người vẫn nghĩ. Khi Thúc Sinh vừa lên ngựa về Lâm Tri thăm cha sau một năm xa cách theo gợi ý của vợ, hai gia nhân là Khuyển, Ưng được lệnh Hoạn Thư, liền dẫn theo bọn côn đồ đi tắt đường biển bằng thuyền, nhằm đến sớm để kịp thời hành sự trước khi Thúc Sinh về tới nhà. Bọn chúng đánh thuốc mê Thúy Kiều, buộc chân, tay bằng dây xích rồi vực nàng lên ngựa đưa xuống thuyền về Vô Tích. 2/ Có nhiều người hiểu lầm rằng bọn Khuyển, Ưng chỉ làm theo lệnh của bà chủ, là đốt nhà của vợ chồng Thúc Sinh – Thúy Kiều, sau khi đã bắt cóc Thúy Kiều, nên chúng không đáng bị xử tội chết trong sự kiện Thúy Kiều báo ân báo oán sau này, thật ra không phải thế. Khi bọn Khuyển, Ưng bắt gặp một thây người vô chủ bên sông, chúng nảy ra “sáng kiến” ngoài kịch bản của bà chủ – đem xác đó vào nhà Thúc Sinh “lận sòng” là xác Thúy Kiều rồi phóng hỏa đốt nhà. Thúc ông (cha Thúc Sinh) có nhà ở gần đó, trông thấy nhà của con bị cháy thì thất kinh rụng rời, thầy và tớ vội chạy tới dập lửa, thấy một xác người cháy tàn thì đinh ninh là xác Thúy Kiều, ông thương xót đem về mai táng rồi lập bàn thờ. Thúc Sinh về tới nhà, nhìn thấy nhà mình bị cháy hết, sang nhà cha thấy bài vị của vợ trên bàn thờ, chàng đau đớn vật vã vì cũng đinh ninh là Thúy Kiều đã chết. 3/ Về tới Vô Tích, bọn Khuyển, Ưng đưa Thúy Kiều đến trình diện Hoạn bà (mẹ Hoạn Thư). Hoạn bà đã tra hỏi, mắng nhiếc Thúy Kiều: “Con này chẳng phải thiện nhân/ Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng/ Ra tuồng mèo mả gà đồng/ Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào/ Đã đem mình bán cửa tao/ Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này”. Thế rồi Hoạn bà ra lệnh người giữ việc chấp hành gia pháp đánh Thúy Kiều ba mươi roi dằn mặt, đổi tên thành Hoa Nô và bắt làm thị tỳ. Sự việc này xảy ra ở nhà Hoạn bà, không có mặt và nằm ngoài kịch bản của Hoạn Thư.
Kịch bản của Hoạn Thư được tiếp diễn như sau: Khi Hoạn Thư về thăm mẹ, sau màn thăm hỏi trò chuyện với con gái, Hoạn bà cho gọi Thúy Kiều ra dạy lời: “Nhà Tiểu thư thiếu người, cho ngươi về bên ấy hầu hạ”. Về nhà Hoạn Thư rồi, Thúy Kiều phải giữ phận con hầu nên sớm, khuya chu đáo công việc của mình. Biết Thúy Kiều có tài chơi đàn, một hôm Hoạn Thư yêu cầu nàng chơi đàn. Tiếng đàn nỉ non thánh thót làm say lòng người, Hoạn Thư nghe mà nể mà thương tài Thúy Kiều, qua đó cũng bớt đi mấy phần khuôn uy của chủ nhà đối với con ở.
Phàm ở đời, theo lẽ thường, khi biết chồng có vợ lẽ hay người tình, nói chung người phụ nữ sẽ thóa mạ, đánh ghen tình địch ầm ĩ; đay nghiến, nhiếc móc chồng. Hoạn Thư không như thế, vẫn cười nói ngọt ngào với chồng và Thúy Kiều. Thúc Sinh đi Lâm Tri thăm cha trở về nhà, sau khi thăm hỏi gần xa, Hoạn Thư truyền gọi Thúy Kiều ra lạy mừng ông chủ, rồi mở tiệc tẩy trần cho chồng. Trong bữa tiệc, Hoạn Thư đã bắt tình địch túc trực bên cạnh để hầu rượu, và đánh đàn mua vui cho hai vợ chồng, vờ như không hề biết mối quan hệ của hai người. Trong khi đó, Thúy Kiều và Thúc Sinh thì cay đắng xót xa: “Cùng trong một tiếng tơ đồng/ Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm”. Hoạn Thư đã cao tay “hành hạ” để trả thù Thúy Kiều và chồng dám giấu giếm, qua mặt mình một cách vụng về trẻ con: “Làm chi những thói trẻ ranh nực cười”, “Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho!”. Về mặt pháp luật, Thúy Kiều và Thúc Sinh đã là vợ chồng, do vị quan “mặt sắt đen sì” xử kiện vì cảm mến tài thơ của Thúy Kiều nên chủ động tác hợp, sai người sắm sửa lễ công và đích thân làm chủ hôn, với sự chứng kiến của Thúc ông. Thế mà giờ đây trước mặt Hoạn Thư, mối quan hệ giữa hai người lại là ông chủ – con hầu. Thúy Kiều và Thúc Sinh đều biết Hoạn Thư đang diễn kịch nhưng đành ngậm bồ hòn làm ngọt, thật là trớ trêu làm sao! Cái ghen của Hoạn Thư thật khác người: màn “tra tấn” tình địch của Hoạn Thư là bắt Thúy Kiều hầu đàn, bắt bẻ lời ăn tiếng nói và quỳ dâng rượu thôi: “Bắt khoan bắt nhặt đến lời/ Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay”. Hoạn Thư cảm thấy hả hê tâm đắc vì “Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay!”. Đúng là cái ghen vô tiền khoáng hậu, đạt đến trình độ… nghệ thuật. Người ta nói nhà sư, nhà giáo, nhà báo, nhà văn…; ngày trước Nguyễn Công Trứ gọi các kép đàn, đào hát là “một lũ nhà tơ ngồi chờ quan lớn”, còn dưới bút Nguyễn Du thì Hoạn Thư là một nhà ghen. Vốn dòng họ Hoạn “ghen” gia/ Con quan Lại bộ, tên là Hoạn Thư. Là một “ghen gia” thật đi chứ, như một pháp gia, luật gia, văn gia…; đã thành “nhà” rồi, có thể lập ra môn phái… Cái thể thức ghen của Hoạn Thư thật là sáng tạo…” (Xuân Diệu – Chung quanh từ ngữ Truyện Kiều).
Để thoát cảnh trớ trêu, bẽ bàng, khi phải làm con hầu cho vợ chồng Thúc – Hoạn, Thúy Kiều đã xin Hoạn Thư xuất gia (tu tại gia), ra ở ngoài Quan Âm các (am có gác thờ Bồ tát Quân Âm), trong khuôn viên nhà Hoạn Thư để giữ chùa, chép kinh. Một hôm, Hoạn Thư giả vờ về nhà thăm mẹ. Hoạn Thư vừa đi khỏi, thừa cơ, Thúc Sinh vội lẻn ra Quan Âm các để gặp Thúy Kiều. Đi được một lúc, Hoạn Thư quay lại, đến ngay Quan Âm các, rón chân đứng nép hồi lâu nghe hết lời hai người dốc bầu tâm sự, giãi bày nỗi niềm. Theo lẽ thường, khi bắt được tận tay, day tận mặt chồng và con hầu đang tư tình với nhau, nói chung người vợ sẽ nổi cơn tam bành lao vào chửi rủa, đánh ghen tình địch, bởi “Máu ghen ai cũng chau mày, nghiến răng”. Hoạn Thư không như thế, vẫn ung dung bước vào, cười nói ngọt ngào, hỏi Thúc Sinh: “Chàng mới ở đâu lại chơi?”. Chàng Thúc đành phải liệu lời dối quanh: “Tôi đi ngắm hoa, vui chân quá bước nên vào xem người viết kinh”. Hoạn Thư làm ra vẻ không biết chuyện gì vừa xảy ra, tâm đắc khen Thúy Kiều chép kinh với bút pháp tinh thông, ung dung uống cạn chén thiền trà hồng mai rồi thong dong sánh bước Thúc Sinh về buồng đọc sách. Hoạn Thư đã thực hiện xong phép thử, qua đó đánh giá được mức độ tình cảm của chồng và Thúy Kiều vẫn rất sâu đậm, thắm thiết, đồng thời cũng là thông điệp ngầm nhắn gửi đến Thúy Kiều: Tôi đã biết tất cả, cô liệu mà trốn đi! Thật là bản lĩnh! Thúy Kiều chột dạ, hỏi lại con hầu thì được biết, bà chủ đến đã lâu, nghe hết rồi nên vô cùng kinh hãi. Thúy Kiều nghĩ: Người ta đã thực tang bắt được thế này thì giận dữ là dạ bình thường, cười nói mới là điều khôn lường hiểm sâu… Thôi, ta phải liệu mà trốn đi”. Rồi Thúy Kiều quyết định canh ba hôm đó trốn khỏi nhà Hoạn Thư, đành phải lấy trộm chuông vàng, khánh bạc trong Quan Âm các, mang theo để làm kế sinh nhai.
Cũng theo lẽ thường ở đời, người ta chỉ nói xấu tình định chứ có ai khen bao giờ? Nhưng Hoạn Thư không như thế, ngược lại là người khen Thúy Kiều nhiều nhất. Chúng ta thống kê xem những ai đã khen Thúy Kiều. 1/ Kim Trọng khen hai lần: lần 1 – “Khen tài nhả ngọc phun châu,/ Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này”; lần 2 – “Rằng hay thì thật là hay,/ Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”. 2/ Vị quan mặt sắt xử kiện khen một lần: “Khen rằng giá đáng thịnh Đường,/ Tài này, sắc ấy nghìn vàng chưa cân”. 3/ Từ Hải khen hai lần: lần 1 – “Khen cho con mắt tinh đời,/ Anh hùng đoán giữa trần ai mới già”; lần 2 – “Anh hùng mới biết anh hùng,/ Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”. 4/ Vãi Giác Duyên khen một lần: “Người sao hiếu nghĩa đủ đường”. 5/ Tam Hợp đạo cô khen một lần: “Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,/ Vô duyên là phận hồng nhan đã đành/ Lại mang lấy một chữ tình,/ Khư khư mình buộc lấy mình vào trong”. 6/ Hồn ma Đạm Tiên Khen hai lần: Lần 1 – “Xem thơ nức nở khem thầm,/ Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường/ Ví đem vào tập Đoạn Trường,/ Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai”; Lần 2 – “Một niềm vì nước vì dân”. 7/ Hoạn Thư khen 4 lần: Lần 1 – “Tiểu thư xem cũng thương tài,/ Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân” – khi Thúy Kiều mới từ nhà Hoạn bà về nhà Hoạn Thư, một hôm Hoạn Thư bảo Thúy Kiều chơi đàn, tiếng đàn nỉ non thánh thót đã làm Hoạn Thư xiêu lòng, nể phục, nên dường như cái khuôn uy của chủ nhà đối với con ở cũng bớt đi mấy phần; Lần 2 – “Rằng Hoa Nô đủ mọi tài,/ Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe” – Trong bữa tiệc mừng Thúc Sinh về thăm nhà, Hoạn Thư đã khen Hoa Nô có nhiều tài và yêu cầu chơi đàn hầu rượu hai vợ chồng; Lần 3 – “Rằng: Tài nên trọng, mà tình nên thương/ Ví chăng có số giàu sang,/ Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên/ Bể trần chìm nổi thuyền quyên,/ Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời” – đó là lời khen, cũng là lời sẻ chia, thông cảm của Hoạn Thư về một cô Kiều tài hoa nhưng lận đận, sau khi đọc xong tờ giấy của Thúy Kiều trình bày nguyện vọng được đi tu; Lần 4 – “Khen rằng bút pháp đã tinh,/ So vào với Thiếp Lan Đình nào thua/ Tiếc thay lưu lạc giang hồ,/ Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài” – Khi xem Thúy Kiều chép kinh ở Quan Âm các, Hoạn Thư khen bút pháp đã tinh, không thua gì bút pháp của Vương Hi Chi thời nhà Tấn, trong bài tựa có tên Thiếp Lan Đình của một tập thơ, được đời sau truyền làm chữ tốt, kiểu mẫu. Rõ ràng ta thấy, không những Hoạn Thư là người khen Thúy Kiều nhiều nhất mà còn đánh giá rất cao tài năng của nàng.
Ở trên ta đã thấy Hoạn Thư thể hiện tình cảm, lý trí và bản lĩnh hơn người như thế nào trong việc kiềm chế cảm xúc bản thân và ứng xử có văn hóa mối quan hệ tay ba phức tạp, nhạy cảm Hoạn Thư – Thúc Sinh – Thúy Kiều. Nhưng lý trí, bản lĩnh và cả tài năng, sắc sảo của Hoạn Thư mới được thể hiện đến đỉnh cao trong sự kiện Thúy Kiều báo ân báo oán. Sau khi trở thành phu nhân của đại vương Từ Hải, Thúy Kiều đã ân đền oán trả sòng phẳng. Trong danh sách thủ phạm của Thúy Kiều, Hoạn Thư – người đàn bà “quỷ quái tinh ma” – là người đầu tiên. Thúy Kiều hả hê đắc thắng: “Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau”. Ta có thể đọc được suy nghĩ của Thúy Kiều: Phải xử Hoạn Thư thật nặng, cho bõ ghét, cho hả dạ, để bù đắp những ngày phải chịu cảnh bẽ bàng, tủi hờn, ấm ức chất chứa trong lòng mà không thể chia sẻ với ai, đó là: bị Hoạn bà miệt thị, đánh ba mươi roi dằn mặt, bị Hoạn Thư bắt khoan bắt nhặt lời nói, hầu đàn và quỳ dâng rượu đến tận canh ba…
Trước pháp trường gươm tuốt nắp ra, Hoạn Thư đã hồn lạc phách xiêu, khấu đầu, kêu ca. Đó là phản xạ tự nhiên – cái sợ bản năng của con người, bản năng giành giật lấy sự sống trước cái chết cận kề. Tuy nhiên, người đàn bà “dễ có mấy tay” này cũng kịp thời trấn tĩnh để bào chữa cho mình bằng những lời gan ruột: “Rằng tôi chút dạ đàn bà/ Ghen tuông thì cũng người ta thường tình/ Nghĩ cho khi gác viết kinh/ Đến khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo/ Lòng riêng, riêng những kính yêu/ Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai” và với thái độ ăn năn: “Chót đà gây việc chông gai/ Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?”
Cái lý, cái tình trong thông điệp tự bào chữa của Hoạn Thư như sau: “Tôi chút dạ đàn bà, chuyện ghen tuông cũng là “nữ nhi thường tình” của người ta ở đời. Mong cô nghĩ lại cho chuyện gì khi ở Quan Âm các chép kinh, và khi cô trốn đi, tôi không đuổi theo bắt lại. Trong thâm tâm, tôi “lòng riêng, riêng những kính yêu” cô, nhưng “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. “Ý tại ngôn ngoại”, cái ẩn ý “Nghĩ cho khi gác viết kinh” trong lời bào chữa là Hoạn Thư tế nhị nhắc khéo, không tiện nói rõ ra để giữ thể diện cho Thúy Kiều trước mặt mọi người. Là người thông minh và nhạy cảm, Thúy Kiều hiểu rằng Hoạn Thư muốn nói tới việc không truy cứu, kết tội nàng đã lấy trộm chuông vàng, khánh bạc trong Quan Âm các để trốn đi.
Tuy Hoạn Thư không kể lể dài dòng thêm nhưng Thúy Kiều rất hiểu và ghi nhận thiện chí của Hoạn Thư: Trong thời gian ở nhà Hoạn Thư, nàng không hề bị ai dằn hắt, miệt thị, hành hung mà ngược lại còn được bà chủ không tiếc lời khen, đánh giá cao văn tài và bút pháp. Nàng cũng được bà chủ chiếu cố cho ra Quan Âm các trong vườn nhà – nơi có phong cảnh hữu tình, thanh tịnh – để giữ chùa và chép kinh, một việc làm nhẹ nhàng, tao nhã.
Tựu trung, động cơ hành động của Hoạn Thư chỉ là để bảo vệ hạnh phúc của mình trước một Thúy Kiều nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, vì “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai” – chuyện của “muôn đời và trên khắp chốn” (Xuân Diệu – Chung quanh từ ngữ Truyện Kiều). Thúy Kiều cũng hiểu rằng, suy cho cùng, nguyên nhân sâu xa do mình là kẻ thứ ba xen vào hạnh phúc của người ta. Chẳng phải Hồ Xuân Hương cũng đã cay đắng thốt lên rằng “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” đó sao? Hoạn Thư chỉ tìm cách làm cho Thúy Kiều cảm thấy lo lắng bất an mà trốn đi và mục đích, kế hoạch ấy đã thành công mà vẫn giữ được thể diện cho ba người trong cuộc tình tay ba. Lời bào chữa của Hoạn Thư đã điểm trúng “huyệt” Thúy Kiều – đó là lòng trắc ẩn, dễ cảm thông chia sẻ với người khác; đó là “một chữ tình” mà nàng “Khư khư mình buộc lấy mình vào trong”, như lời của đạo cô Tam Hợp. Thúy Kiều đã bị thuyết phục, khen Hoạn Thư “khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”, rồi tha bổng. Rõ ràng ta thấy, Thúy Kiều và Hoạn Thư rất hiểu nhau. Nếu họ gặp nhau ở bối cảnh khác, tôi tin rằng hai người sẽ là bạn tốt. Chỉ gói gọn trong 8 câu thơ (từ câu 2365 đến 2372), Hoạn Thư đã dùng những lời lẽ hùng biện thấu tình, đạt lý, khéo léo và đầy tự tin để bào chữa thành công cho mình, chuyển từ tình thế nghìn cân treo sợi tóc thành chiến thắng ngoạn mục. Một cái kết có hậu và rất nhân văn.
Nguyễn Du cũng đánh giá rất cao và tóm gọn tính cách của Hoạn Thư bằng hai câu “Ở, ăn thì nết cũng hay/ Nói điều ràng buộc thì tay cũng già”. Cũng như Thúy Kiều, Hoạn Thư thông minh, sắc sảo, chỉn chu nền nếp gia phong, biết người biết ta và rộng lượng. Nhưng hơn hẳn Thúy Kiều, Hoạn Thư có cái đầu lạnh và trái tim nóng đặt đúng chỗ trong… lồng ngực – đó là bản lĩnh hơn người: biết làm chủ cảm xúc bản thân và làm chủ hoàn cảnh. Đến đây, ta có thể thấy chân dung tính cách của nhân vật Hoạn Thư hiện lên khá đầy đủ và sinh động. Rõ ràng, người đời đã quá yêu mến, bênh vực Thúy Kiều mà thành kiến, thiếu công bằng với Hoạn Thư. Hoạn Thư không xấu xí như nhiều người vẫn nghĩ. Chúng ta có thể đòi hỏi gì hơn ở một Hoạn Thư “Ở ăn thì nết cũng hay” và có thể phê phán được gì ở người phụ nữ “Nói điều ràng buộc thì tay cũng già” này? Kể từ đây, tôi trân trọng thêm chữ “nàng” trước chữ Hoạn Thư: nàng Hoạn Thư.
Kết luận
Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “phân tích nhân vật Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.
Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 12/2024!