Updated at: 20-03-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao” chuẩn nhất 04/2024.

Dàn ý Phân tích hình ảnh người phụ nữ Việt Nam

I. Mở bài

– Giới thiệu về hình tượng người phụ nữ trong thơ ca trung đại: đã đi vào thơ văn của các tác giả trung đại với niềm cảm thông sâu sắc

– Giới thiệu nữ sĩ Hồ Xuân Hương và hình tượng người phụ nữ trong Tự tình (II): Hồ Xuân Hương đặc biệt bởi bà được mệnh danh là “nhà thơ nữ viết về phụ nữ”, trong bài thơ, Tự tình (II), hình tượng người phụ nữ với bi kịch tình yêu, hạnh phúc hay rộng ra là bi kịch thân phận đã được khắc họa rõ nét

II. Thân bài

a. Hình tượng người phụ nữ với tình cảnh lẻ loi, cô đơn

• Người phụ nữ với tình cảnh lẻ loi giữa:

– Thời gian: Đêm khuya (quá nửa đêm) → Yên tĩnh, con người đối diện với chính mình, sống thật với mình

– Không gian: Yên tĩnh vắng lặng (nghệ thuật lấy động tả tĩnh)

– Âm thanh: “Văng vẳng” → từ láy miêu tả âm thanh từ xa vọng lại (nghệ thuật lấy động tả tĩnh) ⇒ gợi nhắc con người về bước đi của thời gian

“Trống canh dồn” → tiếng trống dồn dập, liên hồi, vội vã

⇒ Người phụ nữ một mình trơ trọi, đơn độc trước không gian rộng lớn:

• Người phụ nữ với nỗi cô đơn, buồn tủi và bẽ bàng về duyên phận

– “Trơ”: Trơ trọi, lẻ loi, cô đơn nhưng đồng thời cũng là trơ lì -> thách thức bền gan

  • Kết hợp từ “Cái hồng nhan”: vẻ đẹp của người phụ nữ bị rẻ rúng
  • Nghệ thuật đảo ngữ → nhấn mạnh vào sự trơ trọi nhưng đầy bản lĩnh của người phụ nữ ⇒ điều này càng làm tăng sự xót xa, chua chát
  • Hình ảnh tương phản: cái hồng nhan >< nước non

=> Nỗi cô đơn khủng khiếp của con người.

b. Hình tượng người phụ nữ với nỗi niềm buồn tủi

– Chén rượu hương đưa: Người phụ nữ buồn tủi tìm đến rượu để giải sầu trong đêm

– Say lại tỉnh: Vòng luẩn quẩn không lối thoát

=> Người phụ nữ càng say lúc tỉnh càng đớn đau cho số phận mình.

– Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn: Hiện tượng thiên nhiên nhưng đồng thời nói lên nỗi buồn khi tuổi xuân sắp qua đi mà hạnh phúc vẫn còn chưa trọn vẹn.

=> Thân phận hẩm hiu của người phụ nữ.

c. Hình tượng người phụ nữ với niềm phẫn uất và sự phản kháng trước số phận hẩm hiu

– Người phụ nữ với bản lĩnh không cam chịu, như muốn thách thức số phận được bộc lộ thông qua những hình ảnh thiên nhiên:

  • Rêu: không chịu mềm yếu mà “xiên ngang” mặt đất
  • Đá: phản kháng mạnh mẽ mà “đâm toạc chân mây”
  • Động từ mạnh xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ ngang, toạc: thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh
  • Nghệ thuật đối, đảo ngữ -> Sự phản kháng mạnh mẽ dữ dội, quyết liệt

=> Sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng

=> Sự phản kháng mãnh liệt của người phụ nữ, một sức sống mãnh liệt ngay trong những tình huống bi thảm nhất.

d. Hình tượng người phụ nữ cuối cùng quay trở lại với tâm trạng chán trường trước số phận hẩm hiu

– Bi kịch của người phụ nữ ở chỗ: Họ phản kháng, không cam chịu thua cuộc nhưng kết quả lại thua cuộc.

  • Ngán: ngán ngẩm, chán chường
  • Xuân đi xuân lại lại: Mùa xuân trôi qua rồi mùa xuân quay trở lại nhưng tuổi xuân người phụ nữ trôi qua sẽ không bao giờ quay trở lại được nữa.

=> Người phụ nữ ngán ngẩm lẽ đời éo le khiến bản thân phải chịu số phận hẩm hiu, sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân.

– Nghịch cảnh của người phụ nữ càng éo le hơn bởi:

  • Mảnh tình: vốn đã là tình cảm không trọn vẹn
  • San sẻ tí con con: Vậy mà phải san sẻ để cuối cùng chỉ còn “tí con con” -> xót xa, tội nghiệp

=> Đây có thể là tâm trạng của một người mang thân đi làm lẽ

=> Nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa khi với họ “tình yêu là một chiếc chăn quá hẹp”.

III. Kết bài

– Khái quát những nét đặc sắc nghệ thuật góp phần thể hiện thành công hình tượng người phụ nữ với bi kịch cá nhân: ngôn ngữ điêu luyện, khả năng sử dụng hình ảnh giàu sức tạo hình, đảo ngữ, đối…

– Trình bày suy nghĩ bản thân về hình tượng người phụ nữ trong xã hội cũ và liên hệ thực tế.

Phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao – Mẫu số 1

Từ thuở xa xưa cho đến ngày nay, ca dao dường như đã trở thành một nét đẹp văn hóa luôn ngự trị trong tâm hồn của mỗi người con đất Việt. Những câu ca dao trong lời ru à ơi ngọt ngào của mẹ, của bà, nơi đó có cánh cò trắng phau, có lũy tre làng xanh mướt, có cả cánh đồng mỗi buổi chăn trâu, có hoa sen thơm ngọt trong đầm, có hình ảnh những người lao động chân chất thật thà,… Tất cả đã theo những lời ru êm đềm, chắp cánh bay vào tâm hồn của mỗi một con người từ thuở còn trong nôi, khi mà “Con chưa biết con cò, nhưng trong lời mẹ hát, có cánh cò đang bay”. Những câu ca dao giản dị, dân dã ấy chứa đựng nhiều thứ tình cảm quý giá như tình nghĩa vợ chồng muối mặn gừng cay, tình cảm gia đình tha thiết gắn bó, rồi cả tình mẫu tử thiêng liêng, nó cho ta thấy được vẻ đẹp của quê hương đất nước, vẻ đẹp của những con người lao động chân tay chân chất thật thà. Và có lẽ xuyên suốt trong kho tàng ca dao Việt Nam hiện lên nhiều nhất vẫn là hình ảnh người phụ nữ với biết bao vẻ đẹp đáng trân trọng cùng thân phận đầy đắng cay, vất vả của họ.

Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ vốn không có chỗ đứng trong xã hội, không có tiếng nói, phải chịu kiếp “ba chìm bảy nổi”, mặc số phận cho người ta quyết định, và điều đó thường đẩy người phụ nữ vào hoàn cảnh đau thường, khổ cực. Ví như trong những câu ca dao dưới đây, ta có thể phần nào thấu hiểu được nỗi đau thân phận khi ấy:

– “Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

– “Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”

– “Thân em như chổi đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân

Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”

Họ tự ví mình như tấm lụa đào, đẹp đẽ mềm mại, nhưng lại phải chịu cảnh long đong, chẳng khác chi món hàng tầm thường nơi phố chợ, ai cũng có thể tiện tay mua bán. Rồi thì thân phận người phụ nữ cũng tựa hạt mưa sa, nếu may mắn thì vào lầu son gác tía (ý chỉ cuộc sống hạnh phúc đủ đầy), nếu bất hạnh lại phải chịu cảnh khổ nhục, đày ải (ở đây chỉ kiếp vợ lẽ, hay kiếp sống bần hàn). Đôi lúc còn rẻ rúng hơn nữa khi phải chịu kiếp “chổi đầu hè”, là thứ cho đàn ông chà đạp, đến một chút tự tôn cũng không thể có được. Xét lại nguồn cơn của tất cả những bất hạnh đến với người phụ nữ ấy chính là sự bảo thủ, lạc hậu của chế độ phong kiến, nơi ấy đàn ông là trời, tư tưởng trọng nam khinh nữ còn đầy ắp trong tâm trí của con người, kể cả trong tâm trí của những người phụ nữ. Họ buộc phải sống và cam chịu cái cảnh chồng chung, tuân thủ những lề lối khắt khe, “công dung ngôn hạnh”, “tam tòng, tứ đức”, họ cả đời chỉ thấy chữ hi sinh, nhẫn nhịn mà không biết thế nào là chữ hạnh phúc, được yêu thương, trân trọng.

Người phụ nữ xưa có lẽ chữ chuẩn xác nhất để nói về cuộc đời đầy bất hạnh của họ là chữ “tủi nhục”, thật vậy, vừa chịu những tủi hờn lại còn ngậm đắng nuốt cay sống trong nhục nhã, chỉ vì là phận đàn bà. Ngay khi còn trong vòng ta cha mẹ, người con gái cũng chẳng có bao nhiêu phân lượng, bởi quan niệm xưa con gái mai sau lấy chồng cũng là bát nước hắt đi, thế nên họ phải chịu những bất công từ khi còn nhỏ:

“Cô kia cắt cỏ đồng màu
Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bày chia ba
Phận cô là gái được là bao nhiêu”

Đến khi lấy chồng, người con gái lại chịu nỗi buồn tủi khi xa gia đình, đôi khi là xa cả quê hương, nỗi đau ấy thấm thía trong từng câu hát ca dao:

– “Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

Rồi cảnh mẹ chồng nàng dâu, vốn xưa nay khác máu tanh lòng, người phụ nữ mang phận làm dâu phải nhẫn nhịn cay đắng để làm vừa lòng nhà chồng, đặc biệt đớn đau hơn nếu vô phúc gặp phải kẻ vũ phu, mẹ chồng cay nghiệt thì đời không còn gì khổ ải hơn thế nữa.

“Trách cha, trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau
Thực vàng chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”

Vẫn chưa hết nếu nói nỗi khổ thân xác đã khiến người phụ nữ phải nhiều phen vật vã thì nỗi đau tinh thần trong kiếp chồng chung lại càng khiến người ta phải xót xa thêm nữa. Những ganh ghét đố kỵ của phụ nữ với nhau, sự cay nghiệt ấy còn ác liệt hơn nhiều nỗi đắng cay khác, họ phải chịu cảnh thiếu thốn tình cảm vợ chồng, những nỗi buồn phiền khi chồng đầu ấp tay gối với kẻ khác nào ai có thấu chăng?

“Lấy chồng làm lẽ khổ thay
Đi cấy đi cày chị chẳng kể công
Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu, nằm không chuồng bò
Mong chồng chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống, gà o o gáy dồn
Chém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồn
Để tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con”

Và trong những bất công đầy đớn đau ấy người phụ nữ vẫn có những khao khát của riêng mình, khao khát được vượt lên số phận, bước qua định kiến của xã hội, mang đến cho mình một cuộc sống hạnh phúc như:

-“Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”

– “Chồng con là cái nợ nần
Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm”.

Tuy nhiên khao khát mãi chỉ là khát khao, liệu dưới chế độ phong kiến hà khắc, có người phụ nữ nào thực sự dám đứng lên đấu tranh? Hay lại là những lời phỉ nhổ, bàn ra tán vào, khiến họ mất lòng tin vào cuộc sống? Nhưng dù cuộc sống có đày ải, chèn ép người phụ nữ đến mức nào đi chăng nữa thì những vẻ đẹp xuất phát từ tâm hồn của họ vẫn mãi trường tồn với thời gian.

Đó là tấm lòng thủy chung son sắt, thương yêu lẫn nhau, đồng chồng đồng vợ, chia ngọt sẻ bùi, đầy ấm áp yêu thương, không liếc ngang dọc, đứng núi này trông núi nọ.

– “Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm, sông hương mặc người”

– “Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”

Họ sống có tình có nghĩa, trong tình yêu người phụ nữ đề cao sự chung thủy, tính nhẫn nại, lòng nhân hậu, thật thà, chất phác, chịu thương chịu khó, không tham phú mà phụ bần.

– “Trăng tròn chỉ một đêm rằm
Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi”

– “Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đạo cương thường chớ đổi đừng thay
Dẫu có làm nên danh vọng hay rủi có ăn mày ta cũng theo nhau”

Đôi khi ta còn thấy người phụ nữ trong ca dao xưa hiện lên với những vẻ đẹp thật hồn nhiên trong sáng, không câu nệ tiểu tiết, họ thoải mái bày tỏ tình cảm, tâm trạng của mình trong những câu ca dao.

– “Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”

– “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

-“Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”

Đôi khi lại thấy những vẻ đẹp thật ý nhị, dịu dàng, tinh tế trong tâm hồn những cô gái trẻ.

“Sáng ngày tôi đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn

Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu

Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn

Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người”

Có thể thấy qua cao dao Việt Nam xưa hình ảnh người phụ nữ hiện lên với đủ mọi cung bậc cảm xúc từ những bất công, khổ hạnh do thân phận đàn trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Thế nhưng dù có biết bao khổ ải, bất hạnh thì những vẻ đẹp trong tâm hồn của người phụ nữ xưa chưa một lúc nào thôi tỏa sáng, trái lại chúng càng ngày càng rực rỡ hơn, đó là những phẩm chất tốt đẹp như lòng thủy chung son sắt, tấm lòng nhân hậu, tinh thần chịu thương chịu khó, biết đồng cam cộng khổ, cùng những vẻ đẹp tinh tế, ý nhị khác.

phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao- Mẫu số 2

Trong thế giới ca dao chứa đựng muôn sắc màu tình cảm và nỗi niềm tâm tư, những câu ca viết về đề tài người phụ nữ chiếm một vị trí quan trọng với số lượng phong phú và đa dạng. Khi những câu ca đó cất lên, chúng ta có thể thấy được bức chân dung toàn diện về người phụ nữ với số phận lênh đênh, chìm nổi cũng như vẻ đẹp cùng sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ của họ.

Xã hội phong kiến xưa với những định kiến hà khắc đã dẫn đến những hệ lụy tất yếu của chế độ trọng nam khinh nữ. Những quan niệm thuộc phạm trù Nho giáo như: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” trở thành sợi dây vô hình trói buộc người phụ nữ: “Phận gái tứ đức vẹn tuyền/ Công, dung, ngôn, hạnh giữ gìn chớ sai”, khiến họ bị tước đoạt đi mọi quyền lợi:

“Em như con hạc đầu đình
Muốn bay không cất nổi mình mà bay”

Trong hoàn cảnh bị trói buộc, người phụ nữ muốn cất cánh bay cao bay xa nhưng không thể nào vượt thoát. Bởi vậy, họ tìm đến ca dao để giãi bày những tâm tư nỗi niềm trong những lúc tủi thân tủi phận. Người phụ nữ ý thức được sự mâu thuẫn, đối lập giữa vẻ đẹp và số phận, tự thương lấy mình thông qua những câu ca dao than thân để tâm sự, giãi bày cảnh ngộ:

“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Hay như:

“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”

Những câu ca than thân cất lên với những cung bậc cảm xúc phong phú, đa dạng. Đó có thể là nỗi niềm của người nông dân chân lấm tay bùn, có thể là tiếng ca của những người có số phận bất hạnh,… Và trong bức tranh của những thân phận bé nhỏ, người phụ nữ xuất hiện với cách diễn đạt quen thuộc qua mô-típ “Thân em”- những tín hiệu thẩm mĩ mang trong mình những nội dung nhất định. Người phụ nữ được ví với những sự vật tốt đẹp như “tấm lụa đào”, “hạt mưa sa” nhưng lại không được trân trọng, bởi trong xã hội phong kiến xưa, giá trị của họ không hề được coi trọng và họ không thể làm chủ số phận của mình. Những định kiến khắt khe khiến cho số phận của người phụ nữ rơi vào vòng xoáy của sự lênh đênh, chìm nổi: “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” và phụ thuộc vào sự may rủi: “Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”. Họ trở thành nạn nhân của chế độ nam quyền, người đàn ông có thể “năm thê bảy thiếp”, nhưng người phụ nữ thì “chuyên chính một chồng”. Đắng cay làm sao thân phận làm lẽ:

“Lấy chồng làm lẽ khổ thay
Đi cấy đi cày chị chẳng kể công”

Sống trong cảnh chồng chung, người phụ nữ phải chịu đựng những thiệt thòi về vật chất cũng như những ấm ức về tinh thần. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương – bà Chúa thơ Nôm cũng đã từng viết: “Chém cha cái kiếp chồng chung” để cất lên tiếng nói đầy căm phẫn về phận làm lẽ. Như vậy, trong xã hội phong kiến xưa, mẫu số chung của người phụ nữ là sự lênh đênh, chìm nổi và không làm chủ được số phận của mình.

Tuy sống trong xã hội đầy rẫy những bất công của tư tưởng trọng nam khinh nữ: “Anh như chỉ óng thuê cờ/ Em như rau má mọc bờ giếng khơi” và rơi vào vòng xoáy lênh đênh, chìm nổi nhưng người phụ nữ vẫn gìn giữ những phẩm chất tốt đẹp. Đó trước hết là vẻ đẹp của sự thủy chung son sắt và luôn làm tròn bổn phận của mình:

“Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười chúm chím thưa anh giận gì?

Thưa anh anh giận chi em
Muốn lấy vợ bé thì em lấy cho”

 Người vợ trong câu ca trên hiện lên trong vẻ đẹp về cách ứng xử. Người phụ nữ vô cùng khéo léo khi bông đùa một cách tinh tế để xoa dịu cơn giận của chồng. Dù trong ở bất cứ hoàn cảnh nào thì họ vẫn giữ trọn tấm lòng thủy chung son sắt: “Chồng em áo rách em thương/ Chồng người áo ấm xông hương mặc người”.

Như vậy, qua thế giới ca dao phong phú, đa dạng, chúng ta có thể thấy được thân phận lênh đênh, chìm nổi của người phụ nữ trong vòng xoáy của sự lênh đênh, chìm nổi và đầy rẫy những bất công. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh nào, họ vẫn ngời sáng với những phẩm chất tốt đẹp.

phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao- Mẫu số 3

Chúng ta ai cũng lớn lên bởi những câu ca dao, những câu hát à ơi của bà, của mẹ. tiếng hát qua những câu ca dao như đi qua lũy tre làng, thấm được trong từng ngõ nhỏ của cuộc sống, những cánh cò  bay lả lơi, nơi nuôi ta khôn lớn qua từng năm tháng. Và có lẽ, ca dao đã trở thành những điều không thể thiếu trong cuộc sống của những đứa trẻ lớn lên bởi tình thương yêu nơi nông thôn. Có lẽ ai cũng sẽ nhớ tới hình ảnh của những người phụ nữ đã xuất hiện trong những câu thơ, câu ca dao. Đó là hình ảnh của những người phụ nữ, ngày ngày vất vả, chịu đựng hi sinh miếng cơm manh áo cho chồng cho con những luôn mang trong mình những đức tính trong sáng, thiện tâm, giàu đức hi sinh. Nơi đó, ta không thể quên được hình ảnh những con cò thân gầy ngày ngày lặn lội.

Trong nền văn học nói chung và trong những bài ca dao xưa, hình ảnh của những người phụ nữ có lẽ đã là những hình ảnh không thể quên và tiêu biểu cho một kiếp người trong xã hội. Trong xã hôi phong kiến, người phụ nữ có địa vị thấp nhất trong xã hội, họ phải chịu những định kiến hà khắc trong xã hội, những tư tưởng mà tưởng chừng đơn giản nhưng chúng lại giam hãm cả cuộc đời của người phụ nữ.

Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày

Hay

Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ ngoài chợ biết vào tay ai

Người phụ nữ khi ấy phải theo quan niệm|” tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. bởi vậy, họ không có quyền quyết định cuộc sống cho chính bản thân mình. Khi chưa đi xuất giá, họ phải nghe theo tất cả sự chỉ đạo của người làm cha. Người cha ấy mà có yêu thương, bảo vệ họ hay không còn tùy theo từng hoàn cảnh. Có những khi những người con gái cũng chỉ có thể là công cụ cho những người làm cha, làm chú trao đổi lợi ích của chính mình. Khi xuất giá, theo quan điểm” cha mẹ đặt đâu con nằm đó” có những lúc chính những người con gái ấy lại không thể biết ai mới là người mà mình sẽ chung sống suốt đời. thời kì phong kiến, không hiếm những người con gái không hề biết mặt chồng của mình như thế nào chứ không nói  đến được tìm hiểu về nhân phẩm, tính cánh. Thế mới nói, đó chính là cái bi ai của những người phụ nữ. bởi vì thế, họ luôn khóc thầm cho cuộc sống vợ chồng mà không tình yêu của mình. Ai may mắn, gặp được người chồng yêu mình tha thiết, họ được sống như một “ tiểu thư đài các”, được yêu thương, che chở. Thế nhưng nếu như không may mắn, cuộc đời của họ như bước vào những góc tối mà chính bản thân họ cũng không thể phản kháng lại được.  bởi vậy thời kì này, không thiếu những câu ca dao nói về sự đau đớn, tủi nhục của người phụ nữ. họ luôn ngóng trông ngày trở về quê mẹ:

Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về với mẹ mà không có đò
Hay chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Mỗi khi nhớ nhà, nhớ mẹ mà không thể làm như thế  nào. Những người làm con phải đi lấy chồng có khi phải xuất giá từ lúc còn rất nhỏ. Có lẽ chính các nàng cũng không biết, lấy chồng là như thế nào. ấy vậy mà nàng phải chịu đựng sự khắt khe của mẹ chồng và cả gia đình của chồng. Mỗi bước đi đầy chông gai, khó khăn. Bởi  vậy mà đã có những câu thơ” bưng bát nhà giàu nước mắt chứa chan”. trong chế độ cũ, người mẹ chồng thường là “nỗi sợ” của những người con gái mới về làm dâu trong gia đình bởi quan niệm họ đã “mua “ những người con dâu về để phụ giúp gia đình nhà chồng cũng như người làm trong gia đình họ chứ đó đâu có phải là tình yêu thương của con người với con người với nhau. Đây cũng không còn là tình yêu đôi lứa được chấp nhận nữa mà chỉ là sự mua bán, trao đổi của hai bên  mà thôi. Và người phải chịu thiệt thòi, không ai khác chính là những người phụ nữ đáng thương không về có sức phản kháng ấy.

Con cò lặn lội bờ sông
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Hay ông ơi ông vớt tôi nào
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Chớ xáo nước đục đau lòng cò con

Hình ảnh của con cò có lẽ là hình ảnh phản ánh rõ nét nhất hình ảnh của những người phụ nữ. những con cò luôn mang tấm thân gầy guộc, phải đi kiếm ăn trong những đêm lạnh vắng mà không có ai ở bên cạnh. Có những khi, họ phải tất bận với công việc, vì chồng, vì con. Thế nhưng dù có phải chịu cuộc sống đau khổ như thế nào thì những con người ấy vẫn luôn giữ được tấm lòng son sắt. “có xáo thì xáo nước trong”. Tấm lòng của họ như lay động cả những người đọc như chúng ta. Dù có phải chịu cuộc sống khắc nghiệt tới đâu, thế nhưng người phụ nữ vẫn kiên quyết giữ trọn phẩm giá của mình. Đó  là một trong những đặc tính tốt đẹp nhất của người phụ nữ việt nam. Đẻ rồi, khi có con, họ lại cố gắng vun đắp cho con cái có được cái ăn, cái chữ dù cuộc sống của mình có vất cả tới đâu đi chẳng nữa.

Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Thật khó để có thể đong được tình cha nghĩa mẹ và những đứa hi sinh của cha mẹ đã dành cho chúng ta

Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày thức đủ năm canh

Hình ảnh người mẹ có lẽ cũng đã ghi sâu vào lòng người như vậy. những câu ca dao như khắc họa lại cuộc đời của những người phụ nữ  từ khi còn ở nhà tới lúc đi lấy chồng và có con. Tuy vất cả nhưng không  ai có thể phủ định tình yêu thương, sự nhẫn nại và cam chịu của những người con, người vợ, người mẹ. Bởi vậy, hình ảnh của người phụ nữ là hình ảnh đẹp nhất trong suy nghĩ của mỗi con người bây giờ và mãi mãi về sau.

Phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao- Mẫu số 4

Thần thoại Hi Lạp kể rằng: “Thượng đế đã lấy vẻ đầy dặn của mặt trăng, đường uốn cong của loài dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa, nét mềm mại của loài lau cói, màu rực rỡ của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của chiếc lá, cảm giác tinh vi của vòi voi, cái nhìn dăm chiêu của mắt hươu, cái xúm xít của đàn ông, ánh rực rỡ của mặt trời, nỗi xót xa của tầng mây, luồng biến động của cơn gió, tính nhút nhát của con hươu rừng, sắc lộng lẫy của con chim công, chất cứng rắn của ngọc kim cương, vị ngọt ngào của đường mật, khí lạnh lẽo của băng tuyết, đức trung trinh của chim uyên ương, đem mọi thứ ấy hỗn hợp lại nặn thành người phụ nữ”.

Phụ nữ là linh hồn của cuộc sống muôn loài. Hình tượng người phụ nữ là một trong những đề tài lớn có sức hấp dẫn của Văn học thế giới. Trong Văn học Việt Nam, hình tượng người phụ nữ chứa đựng nhiều vẻ đẹp kỳ diệu, đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ trong ca dao Việt Nam. Có thể nói rằng, ca dao đã làm tròn sứ mệnh của nó trong việc lưu giữ những nỗi lòng của người phụ nữ bình dân và mang đến cho ta cái nhìn toàn diện về họ, trong khổ đau cũng như những vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng.

Nói đến phụ nữ Việt Nam, trước hết phải nói đến lòng hiếu thảo đối với mẹ cha và tiết hạnh đối với bản thân. Không phải chỉ có một nàng Kiều của cụ Nguyễn Du mới biết báo hiếu mà bất cứ người con gái Việt Nam nào cũng đều nhớ đến ơn sinh thành, công lao nuôi dưỡng bao la của đấng song thân:

Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Đó là đối với cha mẹ, còn đối với bản thân thì:
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trao mình.

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao hiện lên với nét đẹp thanh tao, duyên dáng, một nét đẹp Á Đông đầy đức hạnh, chân thực, gần gũi. Hình ảnh đẹp ấy lẽ ra phải được nâng niu, trân trọng, nhưng trái lại cuộc sống của người phụ nữ lúc bấy giờ trăm đắng, ngàn cay bởi chế độ phong kiến thối nát.

Có ai đó đã nói, nếu dùng một từ để nói về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến thì đó là “tủi nhục”. Quãng thời gian họ sống trên đời được đong đếm bằng những nỗi đau khổ mà họ phải gánh chịu. Khi còn nhỏ, sống trong gia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công của quan niệm “trọng nam khinh nữ”:

 “Cô kia cắt cỏ đồng màu

Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha

Giàu thì chia bảy chia ba

Phận cô là gái được là bao nhiêu”

Hay: “Em như quả bí trên cây

Dang tay mẹ bứt những ngày còn non”

Đến khi trưởng thành họ là những thiếu nữ duyên dáng, đẹp cả hình thức bên ngoài lẫn tâm hồn bên trong, nét đẹp của họ được ví như “hoa ngâu”, như “tấm lụa đào”:

“Nụ cười như thể hoa ngâu,

Cái khen đội đầu như thể hoa sen”.

Hay : “Trúc xinh trúc mọc đầu đình

       Em xinh, em đứng một mình cũng xinh”

Họ luôn phải rèn luyện để có những phẩm chất tốt đẹp, làm nên giá trị của con người. Đặc biệt quan trọng với người phụ nữ là phải đạt đến “tứ đức

“Phận gái tứ đức vẹn tuyền

Công, dung, ngôn, hạnh, giữ gìn chớ sai”.

Họ đẹp gần như toàn vẹn nhưng họ không có quyền bình đẳng, quyền lựa chọn hạnh phúc trăm năm cho mình, cũng như quyền làm một con người đúng nghĩa. Khi đến tuổi cập kê thì hôn nhân của họ là do “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, giá trị người con gái bị đem lên bàn cân vật chất:

“Mẹ em tham gạo, tham gà

Bắt em để bán cho nhà cao sang”.

Hay:  “Mẹ em tham thúng xôi rền

Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng

Em đã bảo mẹ rằng đừng

Mẹ hấm, mẹ hứ mẹ bưng ngay vào

Bây giờ chồng thấp, vợ cao

Như đôi đũa lệch so sao cho bằng”.

Số phận của người phụ nữ trong xã hội còn bọt bèo, lênh đênh, vô định, họ không biết số phận của mình rồi sẽ ra sao, đi đâu, về đâu khi mang theo mình một địa vị thấp bé, hèn mọn trong xã hội:

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”,

“Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”,

Hay: “Thân em như chổi sau hè

Phòng khi mưa gió đi về chùi chân”.

Người phụ nữ suốt đời mang theo ba chữ “tòng”, hạnh phúc đối với họ thật quá mong manh, theo chồng thì chết cũng làm ma nhà chồng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Tuy cuộc sống bất công “Trai năm thê, bảy thiếp. Gái chính chuyên chỉ có một chồng” nhưng người phụ nữ luôn son sắt, thủy chung, một lòng một dạ yêu thương chồng.

“Trăng tròn chỉ một đêm rằm

Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi”,

“Chồng em áo rách em thương

Chồng người áo gấm, xông hương mặc người”,

Hay: “Có xấu cũng thể chồng ta

Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người”

Họ luôn đồng cam, cộng khổ cùng chồng, luôn làm một người vợ hiền, chung thủy, dù chân trời, góc bể, khó khăn cũng không sờn lòng:

“Đi đâu cho thiếp theo cùng

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cũng cam”.

Biết bao người vợ không quản gian nan “ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương”, nuôi chồng ăn học, công thành danh toại:

“Em thời canh cửi trong nhà

Nuôi anh đi học đăng khoa bảng vàng

Trước là vinh hiển tổ đường

Bỏ công đèn sách, lưu phương đời đời”,

Trong cuộc sống vợ chồng cũng có những lúc “cơm không lành, canh không ngọt” thì người phụ nữ cũng luôn biết cách ứng xử khôn khéo để cửa nhà yên vui:

“Chồng giận thì vợ làm lành

Miệng cười hớn hở hỏi anh giận gì

Thưa anh anh giận em chi

Muốn cưới vợ bé, em thì cưới cho”

Thái độ thật vui vẻ, hài hước, biết tự kiềm chế bản thân để giữ hòa khí trong gia đình ấy thật đáng khâm phục:

“Chồng giận thì vợ bớt lời

Cơm sôi nhỏ lửa, một đời không khê”.

Tình yêu đối với chồng thì son sắt như thế, còn đối với đứa con yêu quý của mình thì tình mẫu tử thật thiêng liêng, dành trọn những gì tốt đẹp nhất cho con:

“Nuôi con chẳng quản chi thân

Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”.

Người phụ nữ là người mẹ, người vợ tuyệt vời với bao nhiêu tình yêu thương, sự hy sinh là thế nhưng xã hội bất công có bao giờ thấu hết được nỗi lòng người phụ nữ. Họ không những chịu vất vả về thể xác mà còn bị tổn thương về tinh thần khi mà “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”, thân phận thấp bé, không có tiếng nói trong xã hội, bị chồng ruồng bỏ.

“Ngày nào anh bủng anh beo

Tay cất chén thuốc tay đèo múi chanh

Bây giờ anh khỏe anh lành

Anh mê nhan sắc, anh tình phụ tôi”,

Hay: “Gió đưa bụi chuối sau hè

Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ”.

Dưới chế độ phong kiến hủ tục lạc hậu người phụ nữ phải chịu cảnh làm vợ lẻ, chịu sự thiệt thòi, không có quyền hưởng hạnh phúc, hạnh phúc đơn thuần đáng có được của một người vợ và còn chịu sự đối xử bất công của vợ lớn:

“Lấy chồng làm lẻ khổ thay

Đi cấy, đi cày chị chẳng kể công

Tối tối chị giữ mất chồng

Chị cho manh chiếu nằm không chuồng bò

Mong chồng chồng chẳng xuống cho

Đến khi chồng xuống, gà o o gáy dồn”

Hay: “Thân em làm lẻ chẳng nề

Có như chính thất ngồi lê giữa đường”.

Khao khát của người phụ nữ ở đây không phải là cái khao khát mang tính chất bản năng thuần tuý mà là những khát khao hạnh phúc chính đáng nhất của một con người. Vì thế họ đã nhắn nhủ nhau:

– “Đói lòng ăn nắm lá sung

Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”

– “Chồng con là cái nợ nần

Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm”.

Và khi người phụ nữ đã theo chồng thì không được quay về nhà, dù cho có nhớ mẹ, thương cha thì cũng phải cam chịu, khiến bao người phụ nữ xa quê phải ngậm ngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn khi nghĩ về quê mẹ:

“Chiều chiều ra đứng bờ sông

Muốn về với mẹ mà không có đò”,

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.

Nhớ nhà không được về với cha mẹ mà còn phải chịu sự cay đắng của nhà chồng, đặc biệt là mẹ chồng:

“Tiếng đồn cha mẹ anh hiền

Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ tan”

Hay: “Trách cha, trách mẹ nhà chàng

Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau

Thật vàng chẳng phải thau đâu

Đừng đem lửa thử mà đau lòng vàng”.

Quên đi những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống lao động, những người phụ nữ bình dân ấy cũng có những phút giây sống cho cảm xúc riêng tư, cũng trải qua các cung bậc nhớ nhung của một trái tim mới yêu:

– “Gió sao gió mát sau lưng

Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”

– “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Có cô gái hồn nhiên, tinh nghịch hơn thì:

Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”

Ở thời nào cũng vậy, vẻ đẹp của người phụ nữ như một hằng số, bất biến ngàn đời. Đó là sự nhẫn nại, cam chịu, là sự thuỷ chung son sắt. Dù bao khổ đau, bất hạnh vẫn không thể vùi lấp được những vẻ đẹp đó. Nó như những “viên ngọc thô” mà thời gian, những bất hạnh khổ đau là chất xúc tác mài giũa, càng ngày càng toả sáng lấp lánh. Nhưng chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để góp phần làm nên giá trị vô cùng to lớn cho văn học dân gian nói riêng cũng như văn chương Việt Nam nói chung, và Ca dao Việt Nam đã trở thành viên ngọc quý óng ánh trong kho tàng văn học dân gian dân tộc”. 

Phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao- Mẫu số 5

Khi đề cập đến phụ nữ Việt Nam, ai ai cũng đều thừa nhận rằng từ ngàn xưa cho đến nay họ là những người đàn bà dịu hiền, thùy mị, đoan trang, đảm đang, trung trinh tiết hạnh, giàu lòng hi sinh.và tất cả những vẻ đẹp ấy đã đi vào ca dao và lưu truyền qua ngàn đời. Cùng Văn mẫu tìm hiểu phân tích Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua ca dao.

Bài Phân tích bài ca dao: Thân em như củ ấu gai... ngọt bùi Chọn lọc - Dàn  ý - Bài Văn mẫu lớp 10 hay nhất - VnDoc.com
Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua ca dao

Trong gia đình thì hiếu thảo với cha mẹ, tảo tần lo cho chồng con, ra ngoài là những bậc anh thư liệt nữ. Chính những đức tính đẹp nầy đã nâng cao phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam:

Phụ nữ Việt Nam trung trinh tiết hạnh,

Trang điểm cuộc đời muôn cánh hoa thơm.

Ra ngoài giúp nước, giúp non,

Về nhà tận tụy chồng con một lòng.

Trong suốt chiều dài của dòng lịch sử và chiều sâu của lòng dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã liệt oanh viết nên những trang sử vàng son làm vẻ vang giống nòi như Bà Trưng, Bà Triệu; nữ tướng Bùi Thị Xuân của Quang Trung; Cô Giang, Cô Bắc của Việt Nam Quốc Dân Đảng… Còn về thi văn, ta có Bà Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Bà Hồ Xuân Hương, Bà Sương Nguyệt Ánh… đều là những nữ sĩ tài hoa, nức tiếng trên văn đàn, là những cánh hồng tươi thắm trong vườn hoa văn học. Ngoài ra, còn có biết bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác sống một cuộc sống bình thường, thầm lặng nơi thôn trang, xóm làng mà những nét đẹp về tâm hồn của họ được dân gian ca tụng bằng những áng văn, những vần thơ, điệu hát, câu hò hay qua những vần ca dao phong phú.

Đề cập đến văn chương, chúng ta không thể nào bỏ qua nền thi ca bình dân mà ca dao là một trong những thể loại quen thuộc nầy. Từ lâu, ca dao đã đi vào lòng dân tộc và lạc vào rừng ca dao của kho tàng văn học, ta sẽ bắt gặp hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam qua những đức tính cao quý của họ:

Nói đến phụ nữ Việt Nam, trước hết phải nói đến lòng hiếu thảo đối với mẹ cha và tiết hạnh đối với bản thân. Không phải chỉ có một nàng Kiều của cụ Nguyễn Du mới biết báo hiếu mà bất cứ người con gái Việt Nam nào cũng đều nhớ đến ơn sinh thành, công lao nuôi dưỡng bao la của đấng song thân:

Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ, kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Đó là đối với cha mẹ, còn đối với bản thân thì:

Trai thời trung hiếu làm đầu,

Gái thời tiết hạnh làm câu trao mình.

Người phụ nữ Việt Nam, ngay từ lúc còn ẵm ngửa cho đến khi biết lật, biết bò lớn dần trong nhịp võng đưa qua tiếng hát của bà ru cháu, mẹ ru con, chị ru em:

Nhà Bè nước chảy chia hai,

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.

Hay qua điệu hát ầu ơ:

Ầu ơ… Bao giờ Chợ Quán hết vôi,

Thủ Thiêm hết giặc, em thôi đưa đò.

Bắp non mà nướng lửa lò,

Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm.

Hoặc qua điệu ru ạ ờ:

Ạ ờ… Cái ngủ mày ngủ cho lâu,

Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về.

Bắt được con cá rô, trê,

Tròng cổ lôi về cho cái ngủ ăn…

Những vần ca dao mộc mạc, bình dị đã đưa em bé gái Việt Nam vào giấc ngủ an bình và từ ngày này qua ngày khác, tiếng ru lắng đọng, thẩm thấu vào tiềm thức của em bé nên sau nầy lớn lên thành chị, thành mẹ, thành bà lại hát để ru em, ru con, ru cháu theo nhịp võng đưa kẽo kẹt đều đều.

Hát ru em, hát ầu ơ, ạ ờ là một điệu hát thông dụng được phổ biến từ thôn xóm, làng mạc cho đến thị thành. Hát ru em là một bản trường ca bất tận của kho tàng văn chương Việt Nam. Vào những buổi trưa vắng lặng hay những đêm khuya yên tĩnh, cùng với tiếng võng đưa, giọng hát ầu ơ, ạ ờ dịu dàng, trìu mến của bà, của mẹ, của chị vang mãi trong lòng đứa trẻ ấu thơ. Tiếng võng đưa kẽo kẹt đều đều cùng với tiếng hát đã văng vẳng từ bao thề hệ trên đất nước Việt Nam theo dòng sinh mệnh của dân tộc. Trải qua bao nhiêu thế hệ, trong mọi gia đình, nghèo cũng như giàu, cái nhịp đều đều của tiếng võng đưa không bao giờ dứt. Không có người Việt Nam nào không từng hơn một lần nằm võng và tiếng võng đưa hòa cùng tiếng trẻ khóc, tiếng hát ru đã trở thành điệu nhạc muôn đời của dân tộc ta.

Những câu "Ca dao than thân" hay nhất của văn học Việt Nam - Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua ca dao
Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua ca dao

Thấm thoát, em bé gái Việt Nam nho nhỏ ngày nào nay đã lớn dần và có thể giúp đỡ mẹ những công việc lặt vặt. Một đôi khi lầm lỗi trong công việc bị mẹ quở mắng hay đánh đòn, em không bao giờ dám oán trách mẹ. Nếu bị quở mắng thì nhỏ nhẹ rằng:

Đọc thêm  Văn mẫu lớp 9: Nghị luận Có công mài sắt có ngày nên kim Dàn ý & 6 bài văn nghị luận lớp 9 hay nhất

Mẹ ơi đừng mắng con hoài,

Để con bẻ lựu, hái xoài mẹ ăn.

Còn nếu bị đánh đòn, nàng chỉ thỏ thẻ:

Mẹ ơi đừng đánh con đau,

Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ.

Theo thời gian, cô bé Việt Nam bây giờ đã trở thành thiếu nữ dậy thì, trước khi lấy chồng, một đôi lúc ngồi nhìn những hạt mưa rơi, nàng nghĩ vẩn vơ:

Thân em như hạt mưa rào,

Hạt sa xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

Hay bâng khuâng tự hỏi:

Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Ngồi cành trúc, tựa cành mai,

Đông đào, tây liễu biết ai bạn cùng?

Đến tuổi dậy thì, phụ nữ Việt Nam trổ mã, đẹp dần lên. Mỗi nàng một vẻ đẹp riêng, người thì đẹp qua đôi mắt, người khác đẹp ở mái tóc, có cô đẹp qua nụ cười, cô khác đẹp bằng hai má lúm đồng tiền, có người đẹp với chiếc eo thon thon, dáng đi yểu điệu, có người đẹp trừu tượng qua tâm hồn… Tóm lại, mỗi người một vẻ để làm rung động hay làm xao xuyến con tim của người khác phái.

Những phụ nữ có đôi mắt lá răm, lông mày lá liễu được ca dao khen rằng:

Những người con mắt lá răm,

Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền.

Hay những người có làn da trắng nõn, má lại hồng hồng, môi đỏ thắm:

Ai xui má đỏ, môi hồng,

Để anh nhác thấy đem lòng thương yêu.

Đã đẹp mặt mà còn đẹp về vóc dáng nữa thì “chim phải sa, cá phải lặn” cho nên những phụ nữ có chiếc eo thon thon:

Những người thắt đáy lưng ong,

Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.

Mái tóc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc trang điểm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam:

Tóc em dài em cài bông hoa lý,

Miệng em cười anh để ý anh thương.

Mái tóc dài, đẹp còn làm xao xuyến lòng người:

Tóc đến lưng vừa chừng em bới,

Để chi dài bối rối dạ anh.

Nụ cười là nét duyên dáng, nét quyến rũ của người phụ nữ. Từ xưa cho đến nay có rất nhiều đàn ông đã chết vì nụ cười của phái đẹp:

Trăng rằm mười sáu trăng nghiêng,

Thương em chúm chím cười duyên một mình.

Cũng thế, ta thường nghe ai đó ngâm hai câu ca dao:

Nàng về nàng nhớ ta chăng,

Nàng về ta nhớ hàm răng nàng cười.

Và ca dao cũng không quên ca tụng nét đẹp tâm hồn của phụ nữ Việt Nam:

Chim khôn hót tiếng rảnh rang,

Người khôn ăn nói dịu dàng dễ thương.

Ca dao than thân, yêu thương, tình nghĩa

Phụ nữ Việt Nam vốn cháu con Quốc Mẫu Âu Cơ, dòng dõi tiên nên nhu mì, thùy mị được tiếng là đẹp, rất đẹp, nhất là trong chiếc áo dài tha thướt với vành nón lá che nghiêng nghiêng mái tóc xõa bờ vai. Có biết bao nhiêu chàng trai đã trồng cây si ở cổng trường Trưng Vương, Gia Long, Đồng Khánh, Sương Nguyệt Ánh, Bùi Thị Xuân… vì những tà áo dài thướt tha nầy và mái trường đã từng là chứng nhân của những mối tình đẹp tựa bài thơ, đẹp như đêm trăng huyền ảo. Trước cái đẹp của phụ nữ Việt Nam, mấy ai thuộc phái nam đã không từng cất giấu trong tim một bóng hồng của thời yêu thương ướt át:

Một thương tóc bỏ đuôi gà,

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.

Ba thương má lúm đồng tiền,

Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.

Năm thương cổ yếm đeo bùa,

Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.

Bảy thương nết ở khôn ngoan,

Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.

Chín thương em ở một mình,

Mười thương con mắt đưa tình với anh.

Nét đẹp của phụ nữ Việt Nam còn làm cho trái tim nhà vua đập sai nhịp vì bị “tiếng sét ái tình”:

Kim Luông có gái mĩ miều,

Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi…

Dân tộc Việt Nam là dân tộc hiền hậu, hiếu hòa, cần cù nhẫn nại lại trọng đạo lý cho nên khi con cái vừa lớn khôn thì được gia đình, nhà trường, xã hội dạy những bài học luân lý về cung cách ở đời, ăn ở có nhân có nghĩa theo đạo lý làm người và phụ nữ Việt Nam cũng được giáo huấn:

Con ơi mẹ bảo con này,

Học buôn, học bán cho tày người ta.

Con đừng học thói điêu ngoa,

Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.

Nhờ được giáo huấn cho nên phụ nữ Việt Nam đoan trang, thùy mị, nết na:

Sáng nay tôi đi hái dâu,

Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn.

Hai anh đứng dậy hỏi han,

Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu?

Thưa rằng tôi đi hái dâu,

Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn.

Thưa rằng bác mẹ tôi răn,

Làm thân con gái chớ ăn trầu người.

Đọc thêm  Kể lại kỉ niệm mà em không bao giờ quên – Văn mẫu lớp 9

Và xa hơn nữa:

Ở nhà còn mẹ, còn cha,

Lẽ đâu tôi dám nguyệt hoa cùng người.

Phụ nữ Việt Nam khi đến tuổi bước vào con đường yêu đương thì yêu nhẹ nhàng, kín đáo. Nhẹ nhàng đến nỗi tình yêu của nàng len lén len lỏi vào tim hồi nào mà chàng trai không hay:

Vói tay ngắt lấy cọng ngò,

Thương anh muốn chết giả đò ngó lơ.

E thẹn, giả đò ngó lơ, len lén ngó mà không dám ngó lâu là những cử chỉ yêu đương nhẹ nhàng, kín đáo rất dễ thương của người phụ nữ Việt Nam:

Ngó anh không dám ngó lâu,

Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi.

Nhưng khi đã yêu thì phụ nữ Việt Nam yêu một cách đứng đắn, yêu đậm đà, tha thiết với tất cả con tim mình:

Qua đình ghé nón trông đình,

Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.

Tình yêu của nàng còn sâu đậm hơn nữa:

Yêu chàng lắm lắm chàng ôi,

Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than.

Khi yêu, ngoài tình yêu đậm đà, tha thiết, phụ nữ Việt Nam lại còn chung tình:

Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,

Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền.

Và chung tình cho đến chết vẫn còn chung tình:

Hồng Hà nước đỏ như son,

Chết thì chịu chết, sống còn yêu anh.

Trước khi lấy chồng, phụ nữ Việt Nam cũng có thừa thông minh để lựa chọn ý trung nhân:

Lấy chồng cho đáng tấm chồng,

Bõ công trang điểm má hồng lâu nay.

Hay mượn những vần ca dao nhắn nhủ với giới mày râu rằng muốn kết duyên vợ chồng, gá nghĩa trăm năm với phụ nữ Việt Nam thì:

Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ,

Đèn Mĩ Tho ngọn tỏ, ngọn lu.

Anh về học lấy chữ nhu,

Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.

Đến ngày bước lên xe hoa về nhà chồng, phụ nữ Việt Nam không quên lạy tạ ơn sinh thành của cha mẹ:

Lạy cha ba lạy, một quỳ,

Lạy mẹ bốn lạy, con đi lấy chồng.

Khi cất bước ra đi về làm dâu nhà chồng, một lần cuối nàng cố ghi lại những kỉ niệm của thời thơ ấu vào tâm khảm:

Ra đi ngó trước, ngó sau,

Ngó nhà mấy cột, ngó cau mấy buồng.

Rồi lúc đã có chồng, người phụ nữ Việt Nam luôn luôn tâm niệm:

Chưa chồng đi dọc, đi ngang,

Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi.

Hay:

Đã thành gia thất thì thôi,

Đèo bòng chi lắm tội Trời ai mang.

Lấy chồng, người phụ nữ Việt Nam đẹp duyên cùng chồng:

Trầu vàng ăn với cau xanh,

Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.

Và có hình ảnh nào đẹp hơn vợ chồng hạnh phúc trong cảnh thanh bần:

Râu tôm nấu với ruột bầu,

Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.

Dù nghèo, thanh bần nhưng phụ nữ Việt Nam học theo triết lý an phận, vẫn chung tình với chồng, không đứng núi nầy trông núi nọ:

Chồng ta áo rách ta thương,

Chồng người áo gấm, xông hương mặc người.

Tinh thần chịu khó, chịu cực và khuyến khích chồng ăn học cho thành tài được diễn đạt qua những vần cao dao làm nổi bật đức tính hi sinh của phụ nữ Việt Nam:

Canh một dọn cửa, dọn nhà.

Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.

Canh tư bước sang canh năm,

Anh ơi dậy học chớ nằm làm chi.

Mốt mai chúa mở khoa thi,

Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh.

Bõ công cha mẹ sắm sanh,

Sắm nghiên, sắm bút cho anh học hành.

Đã có chồng con, người phụ nữ Việt Nam lại càng đảm đang, vừa lo cho con vừa lo toan mọi công việc nhà chồng:

Có con phải khổ vì con,

Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

Hoặc:

Có con phải khổ vì con,

Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay.

Có con, người phụ nữ Việt Nam lại gánh thêm trách nhiệm làm mẹ với tình mẫu tử thiêng liêng:

Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,

Năm canh chầy thức đủ năm canh.

Tình mẫu tử của những bà mẹ Việt Nam bao la như trời bể, luôn luôn bảo bọc, che chở cho con:

Nuôi con chẳng quản chi thân,

Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.

Ngoài ra, phụ nữ Việt Nam còn phải đối diện với cảnh làm dâu nhà chồng. Trước đây, xã hội ta đã quan niệm sai lầm rằng người con dâu phải phục vụ gia đình nhà chồng gần như một người đầy tớ và một số bà mẹ chồng rất khắc nghiệt với nàng dâu gây nên nhiều cảnh thương tâm cho người phụ nữ Việt Nam. Tự Lực Văn Đoàn đã đưa ra nhiều cuốn tiểu thuyết luận đề để đả phá quan niệm sai lầm nầy và ca dao ta cũng lên tiếng thở than thay cho các nàng dâu Việt Nam:

Làm dâu khổ lắm ai ơi,

Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than.

Còn nếu đất nước gặp thời chinh chiến, người phụ nữ Việt Nam không bịn rịn mà hăng hái khuyến khích chồng hành trang lên đường trả nợ núi sông:

Đọc thêm  Bình luận câu tục ngữ: Lá lành đùm lá rách

Anh đi em ở lại nhà,

Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ.

Lầm than bao quản muối dưa,

Anh đi anh liệu chen đua với đời.

Phụ nữ Việt Nam, ngoài những đức tính đảm đang, giàu lòng hi sinh, nết na, thùy mị còn là người con rất mực hiếu thảo:

Ơn cha nặng lắm ai ơi,

Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang,

Lòng nhớ công ơn cha mẹ sinh thành, nuôi dưỡng của người phụ nữ Việt Nam còn được diễn đạt qua mấy câu:

Ân cha lành cao như núi Thái

Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi.

Dù cho dâng trọn một đời,

Cũng không trả hết ân người sinh ta.

Những món quà nho nhỏ như buồng cau, đôi giày nhưng nói lên lòng hiếu thảo, lòng nhớ ơn công cha nghĩa mẹ của người phụ nữ Việt Nam:

Ai về tôi gởi buồng cau,

Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy

Hay là:

Ai về tôi gởi đôi giày,

Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.

Khi phải đi xa hay lấy chồng xa, người phụ nữ Việt Nam luôn luôn tưởng nhớ về mẹ cha:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau,

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Phụ nữ Việt Nam còn gắn liền với dân tộc và lịch sử vì thế khi tổ quốc lâm nguy, khi sơn hà nguy biến người phụ nữ Việt Nam hăng hái đưa vai gánh vác giang sơn như trường hợp Bà Trưng, Bà Triệu và những vị anh hùng liệt nữ khác.

Hai chị em Bà Trưng là Trưng Trắc và Trưng Nhị, quê quán làng Cổ Lai, đất Mê Linh. Lúc ấy nước nhà đang bị người Tàu cai trị bằng chính sách hà khắc khiến dân ta vô cùng khốn khổ. Rồi vào năm 40, sau Tây Lịch, Thái Thú Tô Định lại bắt giết ông Thi Sách, chồng Bà Trưng Trắc làm cho nợ nước chồng chất thêm thù nhà cho nên Bà Trưng Trắc cùng em là Bà Trưng Nhị đứng lên chiêu tập binh mã, anh hùng hào kiệt khắp nơi để đánh đuổi quân xâm lăng bạo tàn. Quân binh của Hai Bà chiến đấu rất dũng mãnh, chiếm được 65 thành, đánh đuổi quân Tô Định chạy về Tàu. Sau khi đánh đuổi được quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, dân chúng tôn Bà Trưng Trắc lên làm Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Đến năm 42, vua Tàu là Quang Vũ nhà Đông Hán sai Mã Viện kéo quân qua phục thù. Trước địch quân hùng hậu, quân ta chống cự không lại nên Hai Bà đã gieo mình xuống dòng Hát Giang tuần tiết.

Không có hình ảnh nào vừa hào hùng, vừa lãng mạn cho bằng hình ảnh của hai vị liệt nữ anh hùng gieo mình xuống dòng nước trả nợ núi sông và để lại gương “Thiên thu thanh sử hữu anh thư”. Hai Bà Trưng làm vua được 3 năm, từ năm 40 đến năm 43. Khi vua Tự Đức đọc đoạn sử Hai Bà Trưng, ngài đã ngự phê: “Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách”. Và Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca đã ghi lại công nghiệp của Hai Bà bằng những vần ca dao lịch sử:

Bà Trưng quê ở Châu Phong,

Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên.

Chị em nặng một lời nguyền,

Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.

Ngàn Tây nổi áng phong trần,

Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên,

Hồng quần nhẹ bước chinh yên,

Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành.

Còn Bà Triệu, tên thật là Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa vào năm 248, sau Tây Lịch để chống lại quân xâm lăng Đông Ngô của Tàu. Bà còn trẻ nhưng rất can đảm, Bà thường nói: “Tôi muốn cỡi gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém kình ngư ở biển đông, quét sạch bờ cõi để cứu dân cứu nước chứ không thèm bắt chước người đời còng lưng làm tì thiếp người ta”. Ra trận Bà cỡi voi mặc giáp vàng trông rất oai phong làm quân Ngô khiếp sợ. Nghĩa binh tôn Bà là Nhụy Kiều Tướng Quân. Bà Triệu đã anh dũng đền nợ nước khi Bà mới có 23 tuổi:

Ru con, con ngủ cho lành,

Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.

Muốn coi lên núi mà coi,

Có Bà Triệu Tướng cỡi voi bành vàng.

Bà Trưng, Bà Triệu là những bậc nữ lưu anh hùng đầu tiên trong lịch sử thế giới nổi lên sớm nhất chống ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc. Rất lâu về sau nầy nước Pháp mới có nữ anh hùng Jeanne D’ Arc nhưng sự nghiệp của Bà Jeanne D’ Arc cũng không lẫm liệt bằng công nghiệp to lớn, lẫy lừng của Bà Trưng, Bà Triệu.

Thật xứng đáng:

Phấn son tô điểm sơn hà,

Làm cho tỏ mặt đàn bà Việt Nam!

Phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao- Mẫu số 6

Không phải quá tự hào, nhưng có lẽ trên thế giới, hiếm có dân tộc nào kiên cường bất khuất, mà lại nặng tình, nặng nghĩa như người dân Việt. Vó ngưa Nguyên Mông dẵm nát đất Trung Nguyên nhưng bao lần đến Việt Nam đều phải quay về. Giặc Pháp, giặc Mĩ hiện đại thiện chiến cũng đành thất bại.

Trung Quốc đất rộng người đông, dùng bao thủ đoạn âm mưu thâm độc chưa thành công. Cả ngàn năm Bắc thuộc không làm đồng hóa được người dân Việt. Có thể nói dòng máu Lạc Hồng luôn nóng ấm ân tình, chảy trong tâm hồn những con người bé nhỏ nghèo khó ấy, đã cho họ một sức sống anh dũng phi thường. Dòng máu ấy không chỉ làm nên một Việt Nam anh hùng, mà còn làm nên một Việt Nam mượt mà tình cảm qua những làn điệu dân ca, ca dao.

2. NỘI DUNG

Không ai có thể thống kê hết những sắc màu tình cảm trong muôn ngàn những mối quan hệ của người dân Việt. Bao thế hệ đi qua đã để lại một khối lượng lớn ca dao dân ca ăm ắp ân tình làm nên trái tim ấm áp trong lòng văn hóa Đại Việt. Trong muôn ngàn những ân tình; Tình yêu lứa đôi, tình yêu quê hương đất nước, yêu lao động…thì số lượng những câu ca dao nói về tình cảm gia đình cha con, chồng vợ… chiếm một vị trí rất quan trọng và vô cùng phong phú.

Vốn dĩ mang dòng dõi con Lạc cháu Hồng, người Việt rất yêu quý tổ tông, nòi giống, vì thế tình cảm gia đình yêu thương gắn bó chính là nét truyền thống muôn đời của người Viêt.

Trong gia đình Việt Nam có khi lên đến “Tứ đại đồng đường”, nó chính là một Xã hội thu nhỏ. Chính các mối quan hệ rắc rối, chằng chịt của nó, cùng với tâm hồn dạt dào tình cảm của người dân Việt làm cho ca dao dân ca về tình cảm gia đình vô cùng phong phú, nhiều màu sắc. Ca dao dân ca thể hiện rất hoàn hảo nét đẹp cao quý của tình cảm thiêng liêng này.

Nói đến nhân tố đầu tiên, cốt tỷ làm nên gia đình, phải nói đến vợ chồng. Tình cảm vợ chồng yêu thương gắn bó, chính là cơ sở của một gia đình tốt đẹp, là một tế bào lành mạnh của xã hội.

Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.

Vợ chồng hòa thuận chính là sức mạnh cho họ cùng vượt qua khó khăn gian khổ, làm lợi ích cho xã hội.

Họ có thể cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng xây dựng mái ấm, nuôi dưỡng con cái tốt, khiến xã hội giàu mạnh an vui.

Nhưng không phải lúc nào cũng “Phu sướng phụ tùy” đẹp đôi tốt lứa, trong ấm ngoài êm. Trong những gia đình phong kiến ngày xưa, truyền thống gia đình “tam đại”, “tứ đại”, hay năm thê bảy thiếp, thì sẽ có nhiều xung đột tình cảm giữa các mối quan hệ xảy ra. Nhưng nó chỉ làm cho các cung bậc tình cảm của con người thêm phong phú, làm cho ca dao dân ca thêm nhiều màu sắc, có khi hóm hỉnh cười ra nước mắt.

Sống với chồng họ hết lòng chăm lo cho chồng, cho con và gia đình chồng.

Lấy chồng từ thuở mười ba,
Đến khi mười tám thiếp đà năm con.
Ra đường người tưởng còn son,
Về nhà thiếp đã năm con với chàng.

Cho dù cha mẹ anh em nhà chồng có phụ rẫy, họ cũng phải vì chồng vì con mà cam chịu.

Bởi vì con heo nên phải đèo khúc chuối,
Bởi vì con muỗi nên phải thả màn loan.
Bởi vì chàng nên thiếp phải chịu đòn oan,
Phụ mẫu nhà đay nghiến, thế gian chê cười.

Nhưng rồi thì “năm tháng trôi đi lòng người thay đổi”, đến cả người chồng mình chăm sóc yêu thương cũng thay dạ đổi lòng.
Ngày xưa anh bủng anh xanh,

Tay tôi nâng chén thuốc, tay tôi đèo múi chanh.
Bây giờ anh khỏi anh lành,
Anh mê nhan sắc, anh tình phụ tôi.
Nhưng vì con cái họ lại một lần nữa cam chịu hẩm hiu.
Chàng ơi phụ thiếp làm chi,
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.

Ca dao dân ca trở thành người bạn tâm tình cho họ thở than nỗi lòng. Nhưng chỉ là thở than cho khuây khỏa mà thôi, còn cả tâm tư hi vọng, hạnh phúc của họ đều dành cho con cái.

Có thể nói trong đề tài ca dao tình cảm gia đình thì mảng thiêng liêng cao đẹp nhất chính là tình cảm cha mẹ và con cái. Trong đó không có gì đẹp bằng tình mẫu tử. Con ơi con ngủ cho yên,

Hết gạo hết tiền mẹ kiếm mẹ nuôi.
Công trình kể biết mấy mươi,
Mai sau con lớn con đền bồi mẹ cha.

Hình tượng người mẹ Việt nam chính là vẻ đẹp tuyệt vời của ca dao tình cảm gia đình.

Mẹ già như áng mây trôi,
Như sương trên cỏ, như lời hát ru.
Lời hát ru vi vu trong gió,
Sương trên cỏ khó vỡ dễ tan.
Con dẫu lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con

Mẹ chính là nhịp cầu ân tình cho con gắn bó yêu thương với mọi người trong gia đình. Mẹ chính là nhân tố nền tảng tạo lập tính cách nhân phẩm đầu đời cho con. Mẹ thổi vào tâm hồn thơ bé của con những tình cảm yêu thương trong sáng ngọt ngào nhất.

“Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn.” Mẹ ru rằng:

Cái cò đi đón cơn mưa,
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về.
Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha thăm mẹ cò về thăm anh.
Cò bay xuống vũng trâu đằm,
Lấy rơm làm tổ cho con cò nằm.

Trong lời ru của mẹ chứa đựng tất cả những thăng trầm nắng mưa, những hoàn cảnh xã hội. Mẹ vẽ vào tâm hồn con mình từ cảnh sắc non sông gấm vóc đến những ước mơ khát vọng sống.

Thời giờ ngựa chạy, tên bay,
Hết trưa lại tối, hết ngày lại đêm.
Đông qua Xuân lại đến liền,
Hè về rực rỡ, êm đềm Thu sang.
Giờ con chăm học, chăm làm,
Thì mai sau sẽ giỏi dang giúp đời.
Nước nhà mong đợi con ơi,
Hãy luôn ghi nhớ những lời thầy khuyên.

Lời mẹ ru con thấu tình đạt lý, mong muốn con hướng tới đời sống tinh thần tốt đẹp hơn…

3. KẾT LUẬN

Qua những bài dân ca-ca dao về tình cảm gia đình, cho chúng ta thấy người phụ nữ, người mẹ là nhân vật trữ tình nhất và cũng là nhân vật chịu đựng nhất, quan trọng nhất. Người phụ nữ là hạt nhân trung tâm gánh vác mọi mối quan hệ trong gia đình. Họ chính là những người vợ đảm đang, là người con dâu hiếu thảo, là người chị chăm chỉ, là người mẹ dịu hiền. Tục ngữ có một câu rất chí tình dành cho họ: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm.” Có thể nói nếu không có họ thì không hình thành nên gia đình, cũng không có tổ ấm yêu thương với những đứa con tương lai cho đất nước. Đặc biệt là nếu không có họ thì không có ca dao dân ca phong phú truyền tải cho đến hôm nay và mai sau.

Phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao- Mẫu số 7

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao có vẻ đẹp thanh tao, duyên dáng, một nét đẹp chân thực và hết sức gần gũi. Vẻ đẹp đó được thể hiện rõ trên nhiều phương diện:

A. Khi còn con gái.

1. Vẻ đẹp ở hình thức.

a. Vẻ đẹp nhan sắc:

Khi còn con gái, người thiếu nữ Việt Nam sống êm đềm dưới gối cha mẹ để chờ ngày xuất giá vu qui. Đây là thời (gian) kỳ thơ mộng nhất, nàng được cha mẹ yêu thương rất mực và dạy bảo, khuyên răn đủ điều về nữ công, nữ hạnh để trở thành một người thiếu nữ hoàn toàn: Phận gái tứ đức vẹn tuyền / Công dung ngôn hạnh là tiên phàm trần! Lại nhờ có nhan sắc, nàng được nhiều chàng thanh niên để ý săn đón, yêu thương :

Vì cam cho quít đèo bồng
Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương

Hay tiến xa hơn nữa :

Vào vườn hái quả cau non
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên.

Mỗi người thiếu nữ đều có một cái duyên, một sự hấp dẫn riêng để làm say đắm lòng người khác pháị. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài những điều vừa được ca dao truyền tụng: Có nàng đẹp nhờ mái tóc rậm dài bồng bềnh, và đôi chân mày cong vòng như viền trăng non:

Chân mày vòng nguyệt có duyên
Tóc mây gợn sóng đẹp duyên tơ hồng.

Hay có cặp lông mày thanh mướt như lá liễu và khuôn mắt thuôn dài như dáng lá rau răm :

Những người con mắt lá răm
Đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền.

Có nàng đẹp nhờ hai con mắt to tròn đen láy, trông hiền lành, ngây thơ như mắt chim bồ câu:

Cổ tay em trắng như thể gương tàu
Đôi mắt bồ câu làm cho phải khổ.

Hay sáng ngời, lấp lánh như ánh sao khuya :

Nhấp nhánh là nhấp nhánh ơi
Mắt người lấp lánh như sao trên trời.

Có nàng lại đẹp nhờ hai má có hai lúm đồng tiền, mỗi khi nói nói, cười cười tạo nên một cái duyên hấp dẫn là thường :

Hai má có hai đồng tiền
Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng.

Hay vì có nước da trắng nõn, đôi gò má đỏ au, đôi môi hồng đào, khiến nét mặt trở nên tươi thắm vô ngần, nhiều cậu vừa thoáng thấy vừa phải chú ý rồi đem lòng trộm dấu, thầm yêu:

Ai xui má đỏ ,môi hồng
Để anh nhác thấy đem lòng thương yêụ.

và :

Nước trong ai chẳng rửa chân
Cái má trắng ngần ai chẳng muốn hôn.

Tuy nhiên nụ cười vẫn là vẻ đẹp quyến rũ nhất của người thiếu nữ, một nụ cười tươi gây nên bao nỗi nhớ, niềm thương :

Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười,
Trăm quan mua lấy miệng cười
Nghìn quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.

Sau hết phải kể tới vóc dáng. Người con gái đẹp là người có thân hình thỏn thả, thanh tú:

Người thanh tiếng nói cũng thanh
Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêụ.

Người thanh tất nhiên không phải là người béo, cũng không phải là người gầy, vì người đẹp phải là người có da, có thịt, cổ tay phải tròn lẳn, mềm mại kia:

Gối chăn gối chiếc không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em.

Đã thế, người đẹp còn phải có eo thon, tạo nên sự cân đối và làm nổi bật được những đường nét yêu kiều cho vóc dáng:

Những người thắt đáy lưng on
Vừa khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con.

Tóm lại, người thiếu nữ Việt Nam xưa được kể là đẹp phải thuộc vào hạng những người có nước da trắng trẻo hồng hào, mái tóc rậm dài tha thướt, nét mặt tươi thắm hồn nhiên, dáng vóc thanh tú cân đối mềm mạị. Người đẹp như thế thì đứng đâu cũng đẹp :

Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

Đã vậy, theo bản tính tự nhiên, người thiếu nữ Việt Nam xưa cũng biết cách làm tăng thêm vẻ đẹp sẵn có của mình. Nàng được bác mẹ dạy “cái răng cái tóc, một góc con người” nên hằng cố gắng trau chuốt. Nàng còn biết “Đàn bà tốt tóc thì sang”, mà muốn :

Tốt tóc thì cỏ mần trầu
Sạch ghét sạch gầu bồ kết với chanh.

Nàng cũng biết giắt hoa trên đầu để ướp hương cho tóc và làm cho suối tóc thêm vẻ mỹ miều:

Tóc em dài em cài bông hoa lý
Miệng em cười có ý anh thương.

Còn đây là nụ cười, ai cũng biết nụ cười, khóe mắt la hai yếu tố tạo nên vẻ linh động, duyên dáng nhất trên khuôn mặt người đàn bà. Và nụ cười chính là lợi khí đầu tiên của người thiếu nữ để chinh phục tha nhân. Thế nên, ngay khi vừa mới dậy thì, người thiếu nữ vừa sớm biết tạo cho mình một cái duyên bằng nụ cười :

Trăng rằm mười sáu trăng nghiêng
Thương ai chúm chím cười duyên một mình.

Và lạ chưa, vừa nhìn qua nụ cười, người ta vừa đoán ngay nàng là gái chưa chồng :

Răng đen nhưng nhức hạt dưa
Miệng cười tủm tỉm như chưa có chồng.

Vì ý thức được rằng, người chung quanh sẽ đánh giá sự giáo dục gia đình, và đoán biết được tình ý của mình qua nụ cười nên nàng rất giữ ý tứ. Người con gái có ý tứ không được cười toét miệng hay cười thành tiếng, mà chỉ cười nụ, chúm chím đầu môi như nụ hoa ngâu nhỏ xíu, khum khum hàm tiếu :

Nụ cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.

Và cuối cùng là con mắt, người đông phương chúng ta không nên phải đọc sách Tây phương mới biết “con mắt là cửa sổ của linh hồn”. Chẳng thế, các cụ ta xưa vừa biết nhìn vào mắt nhau để đoán biết tình ý. Sau giây phút thăm dò “Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa”, khi vừa chịu ai rồi thì từ đấy người con trai mới bắt đầu mơ mộng, thôi thì thương ai từ cái tóc thương đi:

Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua….

Chàng thương hơn nữa vì nàng còn sống độc thân, chàng mới được phép ước ao, hy vọng. Nhưng còn một điểm tối hậu, quyết định cả số mệnh cuộc tình của

b. Vẻ đẹp ở cách ăn mặc:

Bên cạnh sắc đẹp về thể chất, y trang cũng giúp nàng thêm phần lộng lẫỵ Trong bộ y phục của người phụ nữ Việt Nam xưa, cái yếm che ngực lại được để ý hơn cả. Nó được để lộ ra sau lớp áo cánh xẻ nách, có cổ thìa mổ trễ xuống gần lũng ngực và tấm áo dài không gài nút. Cả hai đều màu nhã, do đó, nàng thường cố tình chọn màu yếm cho thật nổi:Khi thì yếm trắng tinh :

Hỡi cô yếm trắng lòa lòa
Yếm nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu.

Nàng còn biết vấn khéo vành khăn, cố tình để lộ đuôi tóc dài như đuôi gà ,vắt vẻo trên đầu, lại phất phơ, đong đưa theo bước đi, trông rất gợi cảm. Lối bỏ tóc đuôi gà này cũng vừa tạo nên cái mốt một thời; “Một thương tóc bỏ đuôi gà” là vậy. Trời lạnh, trên đầu nàng chít khăn, khăn chít khum khum, ôm lấy khuôn mặt trẻ trung mơn mởn, khác nào như cánh hoa sen :

Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.

Ra đường, nàng đội thêm chiếc nón xứ Nghệ, có nơi còn gọi là nón ba tầm hay nón thượng quai thao, để làm duyên hơn là để che mưa nắng; chẳng thế mà khi đi xem hội ban đêm nàng cũng đội :

Chẻ tre đán nón – Kìa nón ba tầm
Anh cho em đội xem hội cái đêm hôm rằm,là rằm tháng giêng.

Tóm lại,quan niệm về dung nhan người đẹp xưa qua những câu ca dao như vừa trình bày, chúng ta thấy không khác ngày nay bao nhiêu.Tuy nhiên,thời đại này, người ta thích răng trắng và chuộng những nàng có vóc dáng cao lớn hơn. Đặc biệt về trang phục, quả vừa có nhiều đổi thaỵ. Nhưng tựu trung, thời (gian) nào người phụ nữ cũng KẾT điểm trang và có ý ăn mặc diêm dúa đôi chút cho tôn thêm cái nhan sắc của mình.

2. Vẻ đẹp trong tâm hồn.

a. Nết na, thùy mị:

Ngoài vẻ đẹp vật chất, người thiếu nữ xưa còn đẹp trong ngôn ngữ, cử chỉ, nết ăn ở… Điểm này phần lớn nhờ sự giáo dục mà có. Với giọng nói thanh tao nhỏ nhẹ, nàng dễ gây cảm tình với người xung quanh :

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghẹ.

Hơn nữa, lời nói mặn mà đôn hậu mới thực sự thấm sâu vào tình cảm của đối phương, khiến lời nói qua rồi mà âm hưởng vẫn còn dư vang mãi :

Điểu đậu vườn thi, thỏ lụy vườn trâm
Thương ai tiếng nói trăm năm vẫn còn.

Trong bài “Mười thương”, nếu chúng ta để ý, chúng ta sẽ nhận thấy có hai lần nhắc đến giá trị lời ăn, cách nói của người đẹp :

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh

Và trong bất cứ trường hợp nào, người thiếu nữ cũng tỏ ra lễ độ ôn hòa, khiến dù bị từ chối, đối phương cũng khó lòng mà giận :

Thưa rằng bác mẹ tui răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu ngườị

b. Lòng hiếu hạnh đối với cha mẹ:

Nàng không những là người thiếu nữ nết na thùy mị khi iếp xúc với tất cả người xung quanh, mà nhất là đối với gia đình, nàng là người con rất mực hiếu thảo :

Mẹ cha trượng quá ngọc vàng
Đền bồi sao xiết muôn vàn công ơn.

Nàng liên tưởng đến một ngày mai phải từ giã cha mẹ đi lấy chồng, ở nhà biết ai sớm hôm đỡ đần hai thân :

Xiết bao bú mớm bù trì
Đến khi con lớn con đi lấy chồng
Có con đỡ gánh, đỡ gồng
Con đi lấy chồng vai gánh, tay mang.

Trong cảnh ấy, điều e sợ nhất của nàng là khi cha mẹ già yếu bệnh hoạn, lấy ai thay nàng chăm lo, săn sóc. Thế nên bây giờ còn sống dưới gối cha mẹ, nàng hết lòng phụng dưỡng. Nàng e sợ từng miếng ăn thức uống :

Ba tiền một khứa cá buôi
Cũng mua cho đặng mà nuôi mẹ già.

Cả những công chuyện nhỏ nhặt nàng cũng cố ý làm vui lòng hai thân:

Cau non khéo bổ cũng dầy
Trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm.

Đôi khi nhà quá nghèo, không đủ ăn, nàng thường nhường cơm cho mẹ

Đói lòng ăn đọt chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.

c. Tình cảm đối với đàn em:

Đối với đàn em, nàng là một người chị hiền hòa, đầy lòng thương yêu đùm bọc. Nàng thay cha mẹ chăm nom dạy dỗ các em:

Nàng ru em khi còn thơ dại:
Em tui khát sữa bú tay
Ai cho bú thép ngày rày mang ơn.

d. Tình yêu nam nữ:

Ca dao chủ về tình cảm, mà trong đời sống tâm tình của con người thì còn gì đẹp và thơ mộng hơn tình yêu nam nữ ? Vì thế những bài nói về tình yêu vừa chiếm một số lượng rất lớn trong kho tàng ca dao rất phong phú của dân tộc tạ Có thể nói, tình yêu vừa hiện hữu từ khi có sự hiện hữu của loài người trong trời đất bao la và miên trường nàỵ. Và ca dao vừa phản ảnh tâm hồn lãng mạn và tình cảm yêu đương dào dạt, sâu đậm của những người tình đầu tiên, cũng là những người tình muôn thuở của dân tộc. Những câu ca dao ấy tưởng chừng mộc mạc đơn sơ, nhưng có biết đâu vừa vô tình chứa đựng cả một triết lý về tình yêu bất tuyệt cú của loài người :

Đố ai biết lúa mấy cây
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng?
Đố ai quét sạch lá rừng
Để ta khuyên gió, gió đừng rung câỵ

Tình yêu dằng dặc như sông nước, cao rộng lớn như mây trời, mênh mông như đồng lúa và hằng hà sa số như lá rừng rơi, thử hỏi giáo lý nào, quyền lực nào có thể hủy diệt được ? Đó chính là lý do dù sống dưới chế độ phụ quyền phong kiến, chịu ảnh hưởng nền giáo dục khe khắt của Nho giáo, người tình nữ trong ca dao Việt Nam vẫn không thôi mơ mộng. Và tình yêu của các nàng tuy có e ấp nhưng vẫn không giấu được vẻ nồng nàn tha thiết. Quả thế, người phụ nữ Việt Nam với bản tính đa cảm và lãng mạn nên trong những ngày còn con gái thơ mộng đó, bảo sao nàng không hằng mơ ước tới cảnh sống nên thơ :

Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách bên nàng quay tợ

Tuy vậy, tình cảm của nàng lúc này không sôi nổi bồng bột mà luôn luôn đắn đo cân nhắc. Nàng nhớ lời cha mẹ thường dặn dò về chuyện chọn bạn trăm năm :

Dặn con con có nghe cho
Chọn người quân tử, đói no cũng đành.

Ngay cả những cô gái sống trong gia đình cùng kiệt hèn, tầm thường cũng ước ao lấy được người chồng có dăm ba chữ trong bụng, hơn là người giầu có vô học:

Chẳng tham vựa lúa anh đầy
Tham dăm ba chữ cho tày thế gian.

Nhưng sống trong xã hội theo nho giáo phong kiến xưa, sự tự do luyến ái, tự do hôn nhân không được chấp nhận, lại thêm bản tính của người con gái nhút nhát e thẹn nên dù trong lòng yêu ai:

Từ khi gặp mặt giữa đàng
Thiếp quyết yêu chàng, cha mẹ nào haỵ.

Nàng vẫn phải giữ mình trong lễ giáo, chờ đợi cha mẹ quyết định cuộc hôn phối của mình. Thế nên, nàng chỉ biết chiều chiều trong những lúc thư nhàn, âm thầm nhớ ai, cùng ôn lại những kỷ niệm trong ngày tao ngộ :

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vaị

Trong khi làm việc, chợt nhớ đến chàng thì nàng không khỏi ngừng thôi mơ mộng: Đêm khuya dệt cửi tơ vàng. Và cũng vì sợ cha mẹ đoán biết tinh ý đôi bên nên chàng và nàng thỉnh thoảng mới dám liếc nhau :

Yêu nhau con mắt liếc qua
Sợ chúng bạn biết, sợ cha mẹ ngờ.

Lúc chưa chọn được người yêu thì nàng băn khoăn, lo lắng; khi chọn được rồi thì tình yêu của nàng rất mực lãng mạn, tha thiết. Nàng những ước mong được gặp ai luôn :

Ước gì sông hẹp một gang
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi

Trong những ngày tháng yêu đương thơ mộng đó, khi được dịp gần gũi bên người tình, nàng săn sóc chàng một cách rất tình tứ :

Thương anh tha thiết, thiết tha
Áo em hai vạt trải ra anh ngồi.

B. Khi đã lập gia đình.

Khao khát là thế, chờ đợi là thế mà khi xuất giá vu qui, người thiếu nữ phải rời xa cha mẹ, rời xa mái nhà thân yêu, vừa không khỏi ngậm ngùi lưu luyến :

Ra đi ngó trước ngó sau
Ngó nhà mấy cột, ngó cau mấy buồng.

Nhưng :

Thuyền phải theo lái, gái phải theo chồng
Chồng đi hang rắn hang rồng cũng the

1. Bổn phận đối với gia đình nhà chồng.

Được vuốt ve tự ái, được khích lệ bởi tình yêu thương, người thiếu phụ nhất định sẽ đủ sức chịu đựng mà vượt qua tất cả khó khăn trong cảnh làm dâu, thực hiện được trọn vẹn bổn phận của người đàn bà, “Có chồng phải gánh giang san nhà chồng”.

Ngoài bổn phận thay chồng phụng dưỡng cha mẹ chồng :

Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.
Mẹ già là mẹ già anh
Em vô bảo dưỡng cá canh cho thường.

Nàng còn phải có ý tứ, giữ gìn từng lời ăn tiếng nói với tất cả người xung quanh :

Làm dâu khổ lắm ai ơi
Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than.

Phải thức khuya dậy sớm coi sóc chuyện nhà :

Năm canh thì ngủ lấy ba
Hai canh coi sóc cửa nhà làm ăn.

Nếu may mắn được cha mẹ chồng là người hiền đức, biết điều, thấy nàng dâu đảm đang, nết na thì cũng nể vì :

Hoa thơm ai chẳng muốn đeo
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.

Thì nàng sẽ được sống những ngày êm đềm, hạnh phúc trong gia đình nhà chồng. Trong trường hợp này, ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy nàng dâu vừa tìm thấy ở người mẹ chồng hiền đức bao dung đó, một hương vị ngọt ngào đậm đà của tình mẫu tử :

Mẹ già như chuối ba hương
Như cơm nếp một như đường mía laụ

Chăm sóc hầu hạ cha mẹ chồng, nàng lại chạnh nghĩ đến cha mẹ mình:

Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.

Nhiều khi nhớ quá, nàng chẳng thiết ăn uống :

Gió đưa cây cửu lý hương
Từ xa cha mẹ thất thường bữa ăn.

Từ ngày lấy chồng xa xứ, có muốn thăm hỏi cha mẹ cũng rất khó khăn. Nàng thương cha mẹ nàng vừa không được hưởng cái hạnh phúc có con gái lấy chồng gần :

Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng đem cho

Để tỏ lòng báo đáp trong muôn một, mỗi khi nghe tin ai sắp về quê mẹ , nàng vội vàng gửi gấm chút quà với tất cả tấm lòng hiếu kính ,xót xa :

Ai về tui gửi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầỵ

2. Bổn phận đối với con, thiên chức làm me..

Ngoài bổn phận đối với gia đình nhà chồng, người phụ nữ còn có bổn phận đối với con, nói khác đi, là bổn phận làm mẹ, một thiên chức thiêng liêng của người phụ nữ. Từ khi con mới là thai nhi trong bụng, cho đến lúc sinh ra đời, nàng vừa chịu bao nỗi vất vả :

Con mẹ có thương mẹ thay
Chín tháng mười ngày, mang nặng đẻ đau

Thuở con còn tấm bé, nàng phải thức khuya dậy sớm, chăm nom cho con từng miếng ăn, giấc ngủ :

Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ năm canh.

Nàng sung sướng theo dõi từng phát triển lớn khôn của con thơ :

Con ăn, con bú, con nô
Con lẫy, con bò, con chững, con đi
Biết bao bú mớm bù trì…

Gặp cảnh nhà nghèo, mưa dột, nàng vội nhường chỗ khô ráo cho con : Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.. Nếu bị chồng phụ bạc, bỏ bê gia đình, nàng một mình vất vả nuôi con. Thân nàng chẳng quản, chỉ thương cho con phải chịu thiếu thốn :

Nước non lận đận một mình
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy naỵ
Ai làm cho bể kia đầy
Cho ao kia cạn cho gầy cò con.

Người mẹ thương con đến thế, làm sao có thể bỏ con một mình mà bước đi bước nữa :

Trời mưa bong bóng bập bồng
Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai ?

Điều đó cho thấy, nàng không bước đi bước nữa, không phải vì cái danh hão “tiết hạnh khả phong” mà chính vì lòng thương con vô bờ, vô bến của người me.. Lại những khi con đau ốm hay gặp hoạn nạn thì lòng mẹ như nát, như tan :

Con chim trên rừng kêu thánh tha thánh thót
Mẹ thương con cắt ruột xẻ hai

Đối với con gái, nàng dậy dỗ rất kỹ về nữ công nữ hạnh, sửa soạn cho con trở thành người phụ nữ hoàn toàn sau này :

Gái thì giữ chuyện trong nhà
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Ngoài ra ,con gái cũng nên phải biết :
Học buôn học bán cho tày người ta
Con đừng học thói chua ngoa
Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười…

Đối với con trai, nàng khuyến khích con chăm chỉ học hành, mong có ngày tạo nên sự nghiệp:

Con ơi con học cho cần
Bút nghiên cha sắm, áo quần mẹ maỵ
Con ơi con học cho hay
Có công mài sắt có ngày nên kim

Và không quên nhắc nhở con, ăn ở sao cho ra người đạo nghĩa :

Nuôi con cho được vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi xương mòn gối long.
Con ơi cho trọn hiếu trung
Thảo ngay một dạ kẻo luống công mẹ thầỵ

Tóm lại, trong bổn phận làm mẹ, vì quá thương con nàng vừa gánh chịu bao nỗi khổ cực, với niềm mong ước duy nhất : con sẽ nên người !

Mẹ nuôi con bấy lâu rồi
Nuôi con cho đến ngày thành người mới nghẹ

Công trình nuôi con của các bậc làm cha làm mẹ to tát là thế. Song bởi lòng thương yêu con mà tự nguyên hy sinh nên các người chẳng bao giờ kể lể công ơn

Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngàỵ

3. Bổn phận đối với chồng, thiên chức làm vợ.

Ngay khi vừa bước chân về nhà chồng, cô dâu mới vừa tự nguyện đem tất cả thiện chí, tài đức của mình để xây dựng hạnh phúc gia đình :

Nguyện với trăng già
Tơ hồng kết lại một nhà đầm ấm yên vuị

Việc đầu tiên, nàng bỏ bớt điểm trang, tỏ ra ta đây là gái vừa có chồng :

Có chồng bớt áo thay vai
Bớt màu trang điểm kẻo trai nó lầm.

Rồi sẵn sàng cùng chồng chia ngọt sẻ bùi, đồng lao cộng khổ :

a. Nếu chồng nàng là con nhà nông, nàng vui vẻ cùng chàng chia phần công tác,từ chuyện đồng áng:

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừạ
Đến chuyện bếp nước, quẩy cơm:
Trăng chưa cho lúa chín vàng
Cho anh đi gặt, cho nàng quẩy cơm.

b. Nếu chồng nàng là học trò.

Sống trong một xã hội trọng văn học cử nghề như xã hội VN ta, nếu nàng lấy được người chồng là học trò, đang theo đòi chuyện nghiên bút thì nàng vô cùng hể hả; nàng quyết lòng nuôi chàng ăn học cho đến thành tài :

Em thời (gian) canh cửi trong nhà
Nuôi anh ăn học đăng khoa bảng vàng.

Hiện tại, nàng đang được sống trong cảnh êm đềm, thơ mông. Khi thì vợ chồng làm chuyện chung bóng dưới đèn :
Em ngồi canh cửi trong khung

Anh đến ngồi học cùng chung một đèn.
Khi thì bên nhau dưới ánh trăng thanh :
Sáng trăng giải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ….

Qua những khúc ca dao ta có thể thấy được vẻ đẹp vẹn toàn và cuộc sống của người phụ nữ xưa. Họ đã mượn ca dao để nói lên tiếng nói từ trong tâm khảm của mình. Bởi vậy hình ảnh của người phụ nữ là hình ảnh đẹp nhất trong suy nghĩ của mỗi con người và mãi mãi về sau.

Tham khảo:

Thần thoại Hi Lạp kể rằng: “Thượng đế đã lấy vẻ đầy dặn của mặt trăng, đường uốn cong của loài dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa, nét mềm mại của loài lau cói, màu rực rỡ của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của chiếc lá, cảm giác tinh vi của vòi voi, cái nhìn dăm chiêu của mắt hươu, cái xúm xít của đàn ông, ánh rực rỡ của mặt trời, nỗi xót xa của tầng mây, luồng biến động của cơn gió, tính nhút nhát của con hươu rừng, sắc lộng lẫy của con chim công, chất cứng rắn của ngọc kim cương, vị ngọt ngào của đường mật, khí lạnh lẽo của băng tuyết, đức trung trinh của chim uyên ương, đem mọi thứ ấy hỗn hợp lại nặn thành người phụ nữ”.

Phụ nữ là linh hồn của cuộc sống muôn loài. Hình tượng người phụ nữ là một trong những đề tài lớn có sức hấp dẫn của Văn học thế giới. Trong Văn học Việt Nam, hình tượng người phụ nữ chứa đựng nhiều vẻ đẹp kỳ diệu, đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ trong ca dao Việt Nam. Có thể nói rằng, ca dao đã làm tròn sứ mệnh của nó trong việc lưu giữ những nỗi lòng của người phụ nữ bình dân và mang đến cho ta cái nhìn toàn diện về họ, trong khổ đau cũng như những vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng.

Nói đến phụ nữ Việt Nam, trước hết phải nói đến lòng hiếu thảo đối với mẹ cha và tiết hạnh đối với bản thân. Không phải chỉ có một nàng Kiều của cụ Nguyễn Du mới biết báo hiếu mà bất cứ người con gái Việt Nam nào cũng đều nhớ đến ơn sinh thành, công lao nuôi dưỡng bao la của đấng song thân:

“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Đó là đối với cha mẹ, còn đối với bản thân thì:

“Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trao mình”.

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao hiện lên với nét đẹp thanh tao, duyên dáng, một nét đẹp Á Đông đầy đức hạnh, chân thực, gần gũi. Hình ảnh đẹp ấy lẽ ra phải được nâng niu, trân trọng, nhưng trái lại cuộc sống của người phụ nữ lúc bấy giờ trăm đắng, ngàn cay bởi chế độ phong kiến thối nát.

Có ai đó đã nói, nếu dùng một từ để nói về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến thì đó là “tủi nhục”. Quãng thời gian họ sống trên đời được đong đếm bằng những nỗi đau khổ mà họ phải gánh chịu. Khi còn nhỏ, sống trong gia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công của quan niệm “trọng nam khinh nữ”:

“Cô kia cắt cỏ đồng màu
Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bảy chia ba
Phận cô là gái được là bao nhiêu”

Hay:

“Em như quả bí trên cây
Dang tay mẹ bứt những ngày còn non”

Đến khi trưởng thành họ là những thiếu nữ duyên dáng, đẹp cả hình thức bên ngoài lẫn tâm hồn bên trong, nét đẹp của họ được ví như “hoa ngâu”, như “tấm lụa đào”:

“Nụ cười như thể hoa ngâu,
Cái khen đội đầu như thể hoa sen”.

Hay :

“Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh, em đứng một mình cũng xinh”

Họ luôn phải rèn luyện để có những phẩm chất tốt đẹp, làm nên giá trị của con người. Đặc biệt quan trọng với người phụ nữ là phải đạt đến “tứ đức”

“Phận gái tứ đức vẹn tuyền
Công, dung, ngôn, hạnh, giữ gìn chớ sai”.

Họ đẹp gần như toàn vẹn nhưng họ không có quyền bình đẳng, quyền lựa chọn hạnh phúc trăm năm cho mình, cũng như quyền làm một con người đúng nghĩa. Khi đến tuổi cập kê thì hôn nhân của họ là do “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, giá trị người con gái bị đem lên bàn cân vật chất:

“Mẹ em tham gạo, tham gà
Bắt em để bán cho nhà cao sang”.

Hay:

“Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng
Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm, mẹ hứ mẹ bưng ngay vào
Bây giờ chồng thấp, vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng”.

Số phận của người phụ nữ trong xã hội còn bọt bèo, lênh đênh, vô định, họ không biết số phận của mình rồi sẽ ra sao, đi đâu, về đâu khi mang theo mình một địa vị thấp bé, hèn mọn trong xã hội:

“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”,

“Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”,

Hay:

“Thân em như chổi sau hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân”.

Người phụ nữ suốt đời mang theo ba chữ “tòng”, hạnh phúc đối với họ thật quá mong manh, theo chồng thì chết cũng làm ma nhà chồng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Tuy cuộc sống bất công “Trai năm thê, bảy thiếp. Gái chính chuyên chỉ có một chồng” nhưng người phụ nữ luôn son sắt, thủy chung, một lòng một dạ yêu thương chồng.

“Trăng tròn chỉ một đêm rằm
Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi”,

“Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm, xông hương mặc người”,

Hay:

“Có xấu cũng thể chồng ta
Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người”

Họ luôn đồng cam, cộng khổ cùng chồng, luôn làm một người vợ hiền, chung thủy, dù chân trời, góc bể, khó khăn cũng không sờn lòng:

“Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cũng cam”.

Biết bao người vợ không quản gian nan “ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương”, nuôi chồng ăn học, công thành danh toại:

“Em thời canh cửi trong nhà
Nuôi anh đi học đăng khoa bảng vàng
Trước là vinh hiển tổ đường
Bỏ công đèn sách, lưu phương đời đời”,

Trong cuộc sống vợ chồng cũng có những lúc “cơm không lành, canh không ngọt” thì người phụ nữ cũng luôn biết cách ứng xử khôn khéo để cửa nhà yên vui:

“Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở hỏi anh giận gì
Thưa anh anh giận em chi
Muốn cưới vợ bé, em thì cưới cho”

Thái độ thật vui vẻ, hài hước, biết tự kiềm chế bản thân để giữ hòa khí trong gia đình ấy thật đáng khâm phục:

“Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa, một đời không khê”.

Tình yêu đối với chồng thì son sắt như thế, còn đối với đứa con yêu quý của mình thì tình mẫu tử thật thiêng liêng, dành trọn những gì tốt đẹp nhất cho con:

“Nuôi con chẳng quản chi thân
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”.

Người phụ nữ là người mẹ, người vợ tuyệt vời với bao nhiêu tình yêu thương, sự hy sinh là thế nhưng xã hội bất công có bao giờ thấu hết được nỗi lòng người phụ nữ. Họ không những chịu vất vả về thể xác mà còn bị tổn thương về tinh thần khi mà “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”, thân phận thấp bé, không có tiếng nói trong xã hội, bị chồng ruồng bỏ.

“Ngày nào anh bủng anh beo
Tay cất chén thuốc tay đèo múi chanh
Bây giờ anh khỏe anh lành
Anh mê nhan sắc, anh tình phụ tôi”,

Hay:

“Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ”.

Dưới chế độ phong kiến hủ tục lạc hậu người phụ nữ phải chịu cảnh làm vợ lẻ, chịu sự thiệt thòi, không có quyền hưởng hạnh phúc, hạnh phúc đơn thuần đáng có được của một người vợ và còn chịu sự đối xử bất công của vợ lớn:

“Lấy chồng làm lẻ khổ thay
Đi cấy, đi cày chị chẳng kể công
Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu nằm không chuồng bò
Mong chồng chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống, gà o o gáy dồn”

Hay:

“Thân em làm lẻ chẳng nề
Có như chính thất ngồi lê giữa đường”.

Khao khát của người phụ nữ ở đây không phải là cái khao khát mang tính chất bản năng thuần tuý mà là những khát khao hạnh phúc chính đáng nhất của một con người. Vì thế họ đã nhắn nhủ nhau:

“Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”

“Chồng con là cái nợ nần
Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm”.

Và khi người phụ nữ đã theo chồng thì không được quay về nhà, dù cho có nhớ mẹ, thương cha thì cũng phải cam chịu, khiến bao người phụ nữ xa quê phải ngậm ngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn khi nghĩ về quê mẹ:

“Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về với mẹ mà không có đò”,

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.

Nhớ nhà không được về với cha mẹ mà còn phải chịu sự cay đắng của nhà chồng, đặc biệt là mẹ chồng:

“Tiếng đồn cha mẹ anh hiền
Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ tan”

Hay:

“Trách cha, trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau
Thật vàng chẳng phải thau đâu
Đừng đem lửa thử mà đau lòng vàng”.

Quên đi những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống lao động, những người phụ nữ bình dân ấy cũng có những phút giây sống cho cảm xúc riêng tư, cũng trải qua các cung bậc nhớ nhung của một trái tim mới yêu:

“Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”

– “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Có cô gái hồn nhiên, tinh nghịch hơn thì:

“Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”

Ở thời nào cũng vậy, vẻ đẹp của người phụ nữ như một hằng số, bất biến ngàn đời. Đó là sự nhẫn nại, cam chịu, là sự thuỷ chung son sắt. Dù bao khổ đau, bất hạnh vẫn không thể vùi lấp được những vẻ đẹp đó. Nó như những “viên ngọc thô” mà thời gian, những bất hạnh khổ đau là chất xúc tác mài giũa, càng ngày càng toả sáng lấp lánh. Nhưng chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để góp phần làm nên giá trị vô cùng to lớn cho văn học dân gian nói riêng cũng như văn chương Việt Nam nói chung, và “Ca dao Việt Nam đã trở thành viên ngọc quý óng ánh trong kho tàng văn học dân gian dân tộc”.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách ” phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!