Updated at: 13-03-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “phân tích đoạn thơ từ câu “Dù em nên vợ nên chồng” đến hết đoạn Trao duyên” chuẩn nhất 07/2024.

Dàn Ý Phân Tích Đoạn Thơ Từ Câu “Dù Em Nên Vợ Nên Chồng” Đến Hết Đoạn Trao Duyên

1. Mở bài
– Giới thiệu đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều: Thể hiện tâm trạng xót xa của Kiều khi nhờ em trả duyên cho chàng Kim.
– Giới thiệu đoạn thơ cần nghị luận: Từ câu thơ “Dù em nên vợ nên chồng” đến hết đoạn Trao duyên.
2. Thân bài
– “Dù em nên vợ nên chồng… ngày xưa”:
+ Kiều trao kỉ vật tình yêu của nàng và Kim Trọng cho em gái là Thúy Vân nhưng không thể nào quên được mối tình ấy.
+ Nàng tưởng tượng ra chuyện sau này Vân – Trọng sẽ thành vợ chồng, cố gắng an bài tất cả mọi chuyện trước khi bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến  chuyện chẳng lành “Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”: Tự coi mình mệnh bạc, duyên phận hẩm hiu khi không thể giữ trọn tình yêu với chàng Kim.
+ “phím đàn, mảnh hương”: Những kỉ vật chung giữa nàng và Kim Trọng.
=> Sự trân trọng mối tình giữa mình và chàng Kim.
– “Mai sau dù có bao giờ… người thác oan”:
+ “Mai sau dù có bao giờ”: Gợi tương lai thê thảm, u tối của Kiều.
+ Kiều hồi tưởng lại những kỉ niệm của mình nhưng càng nghĩ lại càng xót xa, đau đớn; nàng nghĩ đến cái chết nhưng hồn còn “mang nặng lời thề” với người yêu nên vẫn còn vương vấn.
=> Mối tình sâu đậm gắn chặt vào tâm can.
– “Bây giờ trâm gãy… ngần ấy thôi”:
+ Nàng gửi lời đến chàng Kim, chỉ vì “sự đâu sóng gió bất kì” mà khiến hai người yêu nhau không đến được với nhau.
+ Nàng tiếc nuối mối tình với Kim Trọng, cảm thấy có lỗi với chàng Kim nên “lạy tình quân” lạy người yêu mình.
=> Nàng thấm thía sự bạc bẽo của số phận, thương xót cho chính bản thân mình.
– “Ôi Kim Lang… từ đây!”:
+ Tiếng gọi Kim Trọng của Kiều đầy da diết, tuyệt vọng.
+ Phụ chàng Kim là điều nàng không hề mong muốn, nhưng nàng đành chấp nhận vì duyên phận Kim – Kiều đã kết thúc từ đây.
3. Kết bài
– Khẳng định lại giá trị của đoạn thơ: Diễn tả tâm trạng ân hận, đầy day dứt của Kiều khi phụ tình chàng Kim.
– Qua đây, ta thấy được tinh thần nhân đạo của tác giả Nguyễn Du ẩn sau từng câu chữ.

Phân Tích Đoạn Thơ Từ Câu “Dù Em Nên Vợ Nên Chồng” đến hết đoạn Trao Duyên  Mẫu 1:

Trao duyên là một đoạn trích trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã để lại nhiều cảm xúc nhất trong lòng người đọc. Đoạn trích đã thể hiện tâm trạng xót xa của Kiều khi nhờ em trả duyên cho chàng Kim. Còn nỗi đau nào đau hơn khi phải trao đi tình yêu của mình và nhờ em gái của mình trả mối duyên đẹp đẽ ấy. Sau những lời bộc bạch nhờ cậy em, khi nàng hiểu rằng em phải lấy người không yêu mình đã là một sự hi sinh rất lớn nên nàng đã nghĩ rằng nếu em làm vậy, nàng cũng mãn nguyện nơi chín suối. Kiều trao từng kỉ vật cho em và nghĩ đến chuyện tương lai của Vân và Kim Trọng:

” Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Kiều đã nhờ cậy trao duyên cho em, trao những kỉ vật tình yêu cho em nhưng nàng vẫn không thể nào dứt được mối tình đó. Kiều đã tưởng tượng ra sau chuyện sau này Thúy Vân và Kim Trọng sẽ thành vợ thành chồng. Nàng đã cố gắng an bài hết tất cả mọi chuyện trước khi bán mình chuộc cha vậy mà nàng vẫn nghĩ đến chuyện chẳng lành “Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”. Kiều tự coi mình là “người mệnh bạc” và thấy mình thật đáng thương, duyên phận hẩm hiu khi không thể giữ trọn vẹn tình yêu với chàng Kim. Số phận của Kiều để người ta phải xót thương vô cùng. Nhưng khi nàng trao đi kỉ vật cho Vân thì kỉ vật vẫn còn đó dù cho ” mất người” nàng đã ra đi. “Phím đàn” với ” mảnh hương” vẫn còn đó, đó chính là những kỉ niệm chung giữa Kim – Kiều đốt hương và gảy đàn bên nhau. Đọc những câu thơ, ta thấy Kiều có yếu đuối không? Không, thực chất nàng không hề yếu đuối. Nàng đã từng “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để có thể gặp Kim Trọng. Nàng can đảm để bán mình chuộc cha giữ chữ hiếu, đạo làm con. Ta chỉ thấy rằng, Kiều rất trân trọng mối tình với chàng Kim, tình yêu sâu đậm gắn chặt vào tâm can nàng.

phan tich doan tho trong trao duyen

Bài văn phân tích đoạn thơ từ câu “Dù em nên vợ nên chồng” đến hết đoạn Trao duyên

Tám câu thơ tiếp theo gợi đến tương lai và Kiều lại nghĩ đến cái chết:

“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy soi tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”

Câu thơ “Mai sau dù có bao giờ” gợi đến tương lai thê thảm, u tối của Kiều. Kiều nhớ đến đêm thề nguyền khi nàng cũng Kim Trọng đã có tình yêu rất đẹp, nàng gảy đàn cho chàng Kim nghe. Lời nói của Kiều vọng về để nghĩ về cảnh âm dương cách biệt giữa nàng với em gái và chàng Kim. Nàng chỉ mong rằng khi đó em hãy nhớ đến mình, hồn oan của Kiều trở về làm lay động cả ngọn cỏ lá cây. Nàng mong em hãy xót thương cho nàng. Hồn của Kiều vẫn còn “mang nặng lời thề” với Kim Trọng nên nàng vẫn còn vương vấn. Ở dưới “dạ đài” tăm tối, nàng vẫn sẽ nhìn thấy hai người mong em gái hãy rưới xin giọt nước để rửa oan cho nàng.

Cuối cùng, nàng gửi đến lời với chàng Kim:

” Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muon vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngửi có ngần ấy thôi”

Từ đầu đoạn trích giờ, ta chỉ thấy những lời của Kiều gửi đến em gái để mong em trả duyên hộ mình cho chàng Kim. Thì đến đây, Kiều chuyển lời hướng đến Kim Trọng. Nàng than đến mối tình tan vỡ ” trâm gãy gương tan”. Hai người đã có tình cảm rất đẹp và trong sáng vượt qua cả lễ nghi phong kiến để đến với nhau. Vậy mà “sự đâu sóng gió bất kì” đã khiến hai người không đến được với nhau. Để giờ đây, chia cắt, nàng buộc phải phụ tình chàng Kim để cứu cha. Nàng tiếc nuối “muôn vàn ái ân” giữa nàng với Kim Trọng. Thúy Kiều cảm thấy mình đã có tội rất lớn với chàng nên đã ” Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Đầu đoạn trích ta thấy Kiều đã “Cậy em, em có chịu lời/ Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” thì giờ đây nàng “lạy tình quân” lạy người yêu mình. Trăm nghìn lạy tình quân để ta thấy Kiều cảm thấy có lỗi như thế nào với người yêu của mình. Nàng gửi đến lời với Kim Trọng rằng tơ duyên giữa nàng với chàng thật ngắn ngủi, bây giờ đã kết thúc. Nàng thấm thía sự bạc bẽo của số phận “Phận sao phận bạc như vôi”. Nàng thương xót cho chính bản thân mình. Sau đó, Kiều cất lên tiếng gọi với người mình yêu:

” Ôi Kim Lang ! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Tiếng gọi của Kiều thật da diết, đầy tuyệt vọng. Tiếng vọng ấy Kim Trọng không hề nghe được, nàng đã dứt lời khẳng định “thiếp đã phụ chàng từ đây!”. Phụ tình yêu với chàng Kim là điều Kiều không hề mong muốn, Kiều tiếc nuối điều đó. Nhưng nàng đành chấp nhận vì duyên phận giữa nàng với chàng Kim đã kết thúc từ đây.

Đoạn thơ vừa rồi đã diễn tả tâm trạng ân hận, day dứt của Kiều khi phụ tình chàng Kim và trao duyên lại cho em gái. “Trao duyên” chính là bi kịch của tình yêu trong sáng nhưng lại tan vỡ. Nguyễn Du bằng ngòi bút đầy kinh nghiệm và mang giá trị nhân đạo của mình đã cho người đời một kiệt tác thật xuất sắc.

Phân Tích Đoạn Thơ Từ Câu “Dù Em Nên Vợ Nên Chồng” đến hết đoạn Trao Duyên Mẫu 2: 

Nếu mười bốn câu thơ đầu của đoạn trích “Trao duyên” là lời giãi bày và thuyết phục Thúy Vân “chắp mối tơ thừa” của Thúy Kiều thì hai mươi câu thơ còn lại trong đoạn trích diễn tả việc Thúy Kiều trao lại những kỉ vật của tình yêu cho em gái và nhắn gửi nỗi lòng mình đến Kim Trọng. Đoạn thơ đã khắc họa những nỗi đau đớn, dằn vặt của Thúy Kiều khi mối tình với chàng Kim tan vỡ.

Nàng đã mường tượng đến lúc Thúy Vân và Kim Trọng trở thành vợ chồng bằng một tâm trạng đầy đau khổ:

“Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này”.

Những hạnh phúc Thúy Kiều có với Kim Trọng nay đã trở thành quá khứ – một quá khứ tươi đẹp nhưng cũng không khỏi xót xa. Nàng tự nhận mình là người có số phận bạc bẽo. Từ xưa đến nay, có mấy hồng nhan tránh được “cái điều bạc mệnh”:

“Rằng: hồng nhan tựa ngàn xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”

Và người con gái “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, người con gái có vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” ấy không nằm ngoài sự sắp đặt của định mệnh. Sự đối lập giữa khung cảnh hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng với sự bất hạnh của bản thân đã khiến nàng đau đớn gấp bội phần. Kiều đã trông thấy một tương lai mù mịt, tăm tối của bản thân và số phận hẩm hiu của mình khiến người khác phải xót thương. Nàng nhớ đến khoảng thời gian ở bên cạnh Kim Trọng nhất là đêm thề nguyền. Chàng Kim đã “đài sen nối sáp lò đào thêm hương” và sau khi thề nguyền xong nàng Kiều đã đánh đàn cho Kim Trọng nghe. Tiếng đàn như thêm phần gắn kết đôi trai tài gái sắc lại với nhau khiến tình yêu ấy ngày càng thêm thắm thiết. Tuy “mất người”, mất đi hạnh phúc của tình yêu đôi lứa nhưng Thúy Kiều vẫn giữ cho mình “chút của tin” là phím đàn và mảnh hương nguyền để tưởng nhớ về mối tình ấy.

phan tich doan tho du em nen vo nen chong trong trao duyen

Phân tích đoạn thơ “Dù em nên vợ nên chồng” trong Trao duyên để thấy tâm trạng đau khổ của nàng Kiều

Tình yêu càng sâu đậm bao nhiêu thì lại càng khiến Thúy Kiều đau đớn bấy nhiêu. Nàng đã dự cảm được điều gì đó không lành sẽ xảy đến với mình nên cẩn thận căn dặn Thúy Vân:

“Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Oan hồn của Thúy Kiều sẽ trở về mỗi khi “hiu hiu gió”. Thúy Kiều mong em gái mình sẽ nhận biết được điều ấy để “rưới xin giọt nước” cho linh hồn oan khuất của nàng. Nếu khi còn sống nàng không thể giữ được lời thề nguyền với Kim Trọng thì khi chết đi hồn nàng cũng không thôi nhớ về lời thề nguyền ấy. Nàng ví mình giống như thân liễu, thân mai tuy mỏng manh nhưng cốt cách thanh cao. Dù cho “nát thân”, “đền nghì” thì nàng vẫn khắc ghi lời thề và tình yêu sâu đậm với Kim Trọng. Các hình ảnh “lò hương”, “hiu hiu gió”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “thác oan” là những hình ảnh giàu sức biểu cảm gợi ra cho bạn đọc về cuộc sống ở thế giới cõi âm đầy tối tăm, ma mị. Từ “thác oan” đã phần nào cho thấy sự oan khuất của Thúy Kiều, vì nỗi oan khuất chưa được giải nên linh hồn của nàng không thể siêu thoát. Đồng thời, từ “thác oan” cũng thể hiện tiếng nói đòi quyền sống và quyền được hạnh phúc cho những người phụ nữ trong xã hội đương thời. Nhịp điệu các câu thơ chậm rãi diễn tả những cảm xúc nghẹn ngào mà tức tưởi của nhân vật Thúy Kiều. Dường như nàng đang cố kìm nén những đau lòng để không bật ra thành tiếng khóc.

Hành động Thúy Kiều trao lại những kỉ vật cho Thúy Vân cũng là hành động nàng từ biệt Kim Trọng. Phải xa cách người mình yêu là điều mà nàng không hề mong muốn:

“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Thúy Kiều luôn có ý thức về thực tại và ý thức về thân phận mình. Các thành ngữ “trâm gãy gương tan”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” là những thành ngữ quen thuộc trong dân gian thể hiện sự tan vỡ của tình yêu và sự trôi nổi vô định của số phận con người. Trăm nghìn cái lạy tạ lỗi gửi đến người tình quân nhưng bấy nhiêu liệu có đủ thay cho lời từ biệt của Thúy Kiều? Bấy nhiêu liệu có bù đắp được cho chàng Kim những tổn thương khi “muôn vàn ái ân” giữa hai người nay chỉ còn đọng lại trong kí ức? Mọi lỗi lầm và trách nhiệm nàng đều nhận hết về mình. Tơ duyên của nàng và Kim Trọng chỉ “ngắn ngủi có ngần ấy thôi” nên thêm một lần nữa nàng thấy số phận của mình “bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Điệp từ “Kim lang” lặp lại hai lần đã cho thấy mức độ tăng dần trong tình cảm của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

Từ người yêu, Thúy Kiều đã coi Kim Trọng như người chồng của mình với tiếng gọi “tình quân”, “Kim lang” tha thiết. Nhưng ngay sau đó là lời từ biệt: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” đầy đau xót. Kiều tự nhận mình là người phụ lòng Kim Trọng, Kiều tự cảm thấy mình không còn xứng đáng với chàng Kim nữa. Nàng hi sinh bản thân mình và mong muốn Kim Trọng được hạnh phúc. Điều ấy cũng thể hiện sự cao thượng của nhân vật Thúy Kiều.

Đoạn thơ đã thể hiện những diễn biến trong nội tâm của nhân vật Thúy Kiều trong cuộc trao duyên với Thúy Vân. Qua đó chúng ta cũng thấy được tài năng trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du. Những tiếng thơ của ông là những tiếng thơ chất chứa sự trăn trở về số phận con người nhất là số phận những người phụ nữ trong xã hội đương thời.

Phân Tích Đoạn Thơ Từ Câu “Dù Em Nên Vợ Nên Chồng” đến hết đoạn Trao Duyên  Mẫu 3:

 Kiều nói với em bằng tiếng nói khác. Ngôn ngữ của nàng lúc này không còn cái mạch lạc, khúc chiết của lí trí nữa mà thuần là của tình cảm và có cả ảo giác. Càng nói, Kiều càng xót xa cho duyên phận bất hanh của mình. Nàng thấy rõ là mình mệnh bạc, tình mình mất đi và tất cả đã thành quá khứ.

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên!

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời,

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

       Đã động đến tương lai chắc chắn là mù mịt, Kiều không còn giữ được sự yên lòng trong phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu. Kiều chới với không biết bám víu vào đâu. Nàng tưởng tượng đến lúc Thúy Vân và Kim Trọng nên vợ nên chồng, còn mình chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây, nhưng vẫn còn vướng chặt với tình riêng, vấn vương với tiếng tơ trên phím đàn và mảnh hương nguyền ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu để đền nghì trúc mai cho người. Nghĩ đến đây, Thúy Kiều tha thiết dặn em hãy rưới xin giọt nước cho người thác oan.

        Tất cả những điều ấy có mâu thuẫn với nhau không?

        Trên kia, Thúy Kiều đã chẳng nói là nếu được Thúy Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn, nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thế mà chì sau giây lát tưởng tượng, nàng đã trở lại với nỗi xót xa, tuyệt vọng còn nặng nề hơn trước. Chút yên lòng đã bay đâu mất.

       Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vì người. Nay, lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng chới với trước tương lai mù mịt, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường mà như nửa mê nửa tình, nửa phần là người sống, nửa phần đã là hồn ma. Tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng lời Kiều đã phảng phất giống như lời nói từ cõi bên kia vọng về.

      Khi đã trao duyên cho Thúy Vân, tức là đã quyết định dứt tình với Kim Trọng, Kiều thấy hạnh phúc của mình đến đây là chấm dứt nên lời lẽ của nàng chuyển hẳn sang giọng thương thân. Nghĩ đến tương lai, Kiều tưởng tượng ra cái chết và cảnh oan hồn mình sẽ tìm về theo ngọn gió. Giọng thơ cũng bất chợt thay đổi. Hình ảnh, âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ), không khí  linh thiêng (đốt lò hương, so tơ phím hình ảnh phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây — hiu hiu gió)… tất cả đều nói lên rằng Kiều đang sống trong tâm trạng khổ đau và càng khổ đau gấp bội.

      Nghĩ đến tương lai thê thảm, Kiều đau đớn tột cùng. Nàng quên hết xung quanh, chỉ còn nức nở khóc cho mình, khóc cho mối tình đầu đẹp đẽ là thế mà sao ngắn ngủi:

Bây giờ trâm gãy, gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

      Đó là tiếng khóc thương cho số phận bất hạnh, là tiếng kêu đứt ruột cho mối tình đầu dang dở của Thúy Kiều.

      Từ chỗ nói với em, Kiều chuyển sang nói với mình, nói với người yêu, từ giọng đau đớn chuyển thành tiếng khóc than. Điều ấy thể hiện sự chuyển biến của tâm trạng Thúy Kiều mà nỗi đau cứ tăng lên mãi, đau đớn cho phận bạc như vôi, càng đau đớn do phận bạc nên buộc phải phụ tình người yêu:

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

     Theo đà nửa tình nửa mê, đang nói chuyện với Vân, Kiều bỗng nói với mình, nói với Kim Trọng trong tâm tưởng về sự dở dang duyên phận. Đúng là cảnh trâm gãy bình tan, ta duyên ngắn ngủi. Đúng là phận bạc như vôi và nàng đành phải chấp nhận cảnh nước chảy hoa trôi lỡ làng mà trái tim như tan ra từng mảnh. Nàng đành chịu tội với chàng Kim, và gửi vọng theo chàng muôn nghìn cái lạy. Đau đớn, xót xa đến mức Kiều phải thốt lên:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

       Tiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định một lần nữa mặc cảm có tội của Kiều Nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì đã nói với Vân, những gì đã lo cho chàng Kim, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảng khắc trên kia. Nghĩa là nàng tuy có đau thêm cho mình nhưng vẫn cứ một mực đau cho người, vì người. Nỗi đau khống giảm mà tăng lên gấp bội. Nàng gọi tên chàng Kim như trong cơn mê sảng. Nỗi đau đã lên đến tột đỉnh, quá sức chịu đựng của thể xác:

Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.

       Đoạn thơ trên miêu tả một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thần mình? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu. Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người yêu đằm thắm sâu xa, mong muốn cho người yêu được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động thật sự trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều, khiến cho hình tượng khả ái của nàng sống mãi với thời gian.

Phân Tích Đoạn Thơ Từ Câu “Dù Em Nên Vợ Nên Chồng” đến hết đoạn Trao Duyên  Mẫu 4:

Có lẽ, đoạn trích “Trao duyên” trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không đơn thuần chỉ dừng lại ở việc trao duyên nữa. Mười bốn câu thơ trong đoạn trích “Trao duyên” là tất thảy nỗi đau đớn về tình yêu Kim – Kiều bị chia cắt và tổng kết lại số phận ngang trái, truân chuyên của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

Nguyễn Du (1765 -1820) được coi là một đại thi hào của nền văn học dân tộc Việt Nam. Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh ra và lớn lên tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con một gia đình phong kiến quý tộc nhưng sống giữa một thời kỳ lịch sử đầy biến động. Trải qua hơn chục năm sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau, ông có cơ hội chứng kiến tất thảy những bất công ngang trái của cuộc đời nhất là người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội cũ. Căm phẫn trước chế độ, thương thay cho thân phận người phụ nữ, tin yêu vào phẩm chất con người… Nguyễn Du đã truyền tải những điều đó trong cùng một tác phẩm “Truyện Kiều”.

Đoạn trích “Trao duyên” trích từ tác phẩm “Truyện Kiều” nói tới việc Thúy Kiều nhờ cậy em gái là Thúy Vân giúp mình tiếp nối mối duyên nồng với Kim Trọng để thay nàng đền đáp tình yêu nặng của nàng.

Mười bốn câu thơ sau đây tái hiện đầy đủ bi kịch tan vỡ của tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng cùng nỗi đau tột cùng về số phận bi thương của đời Kiều. Qua đó, người đọc thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du và niềm ca ngợi khát vọng hạnh phúc của con người:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Sau khi cậy nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, Kiều trao lại cho em kỉ vật tình yêu:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”

“Chiếc vành” và “tờ mây” là hai kỷ vật minh chứng tình yêu và cũng là lời thề ước giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Kỷ vật của một mối tình đẹp mà Kiều không nỡ rời xa nay đành lòng gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân.

Đồ vật có thể cho, tặng nhưng tình cảm đâu phải là thứ nói cho là cho, nhất là tình yêu. Cái “chung” trong tình yêu ở đây nó phá vỡ tính quy luật của tình yêu đôi lứa. Tình yêu chỉ thực sự thiêng liêng, vĩnh cửu khi nó là của riêng Thúy Kiều với Kim Trọng. Tình yêu vốn không cho phép có người thứ ba. Một khi có người thứ ba, sự thiêng liêng sẽ bắt đầu đổ vỡ. Nguyễn Du có lẽ đang oán, oán cái chế độ xã hội tàn bạo, cổ hủ, nhiễu nhương khiến cho tình yêu thiêng liêng phải tan vỡ.

Từ đây những kỉ vật Kiều trao lại cho Vân sẽ chỉ còn là vật làm tin để Vân nhớ đến Kiều. Kiều nhắc nhở Vân những lúc em hạnh phúc bên người yêu thì đừng bao giờ quên chị:

“Dù em nên vợ nên chồng
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Nỗi đau như đọng lại trong lời thơ “Dù em nên vợ nên chồng”. Nhìn người mình yêu nên vợ nên chồng với người khác đau xót biết nhường nào. Hơn nữa, tuy nguyện vọng của Kiều thành hiện thực, nhưng nàng vẫn đặt ra những giả thuyết tương lai như có điều gì đó vẫn chưa ổn, chưa yên. Kiều tự coi mình là kẻ “mệnh bạc” để người khác phải xót xa, thương hại.

Bốn câu thơ tiếp theo là dự cảm về cái chết mà Kiều đã chuẩn bị sẵn tinh thần để đón nhận:

“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”

Phải nghiệt ngã đến thế nào mà một người mới tuổi xuân xanh cứ ám ảnh hoài về cái chết. Kiều đã mất hết niềm yêu sống trong hiện tại. Kiều chỉ nghĩ tới tương lai và trông chờ vào lòng thương của kẻ khác. Khi Vân hạnh phúc hãy nhớ tới linh hồn của Kiều mà đốt nén hương, chơi bản nhạc tặng Kiều. Nếu có ngọn gió vật vờ nơi lá cây, ngọn cỏ hãy nhớ tới Kiều.

“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”

Với Kiều, duyên tình có lẽ đã hết, kỉ vật tình yêu cũng đã trao tay, nhưng tâm hồn của nàng vẫn sẽ mãi ghi nhớ lời thề với chàng Kim. Kiều ví mình như thân của liễu, như cành trúc cành mai tuy mỏng manh nhưng thanh cao. Kiều không quản “nát thân”, “đền nghì” vẫn sẽ ghi tạc ơn tình đậm sâu của Kim Trọng.

Kiều dặn dò Vân:

“Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối. Kiều tự cho rằng mình sẽ thuộc về chốn âm ty địa ngục. Nhưng dù có “cách mặt khuất lời” tức là sẽ không thể thấy hay nghe được tiếng nói của nhau, thì Vân hãy cứ rảy chén nước “thác oan” cho Kiều. Từ “thác oan” cho thấy Kiều vẫn có gì đó như là ấm ức, oan uổng lắm nên sau khi chết hồn oan không tan, không được siêu thoát. Đó cũng là nỗi ấm ức của chính tác giả khi muốn lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ xưa.

Đoạn trích “Trao duyên” là tình yêu và cũng là số phận bi kịch của Kiều. Nguyễn Du đã thành công trong việc miêu tả nội tâm của nhân vật. Tuy tác phẩm đã ra đời cách nay mấy trăm năm nhưng câu chuyện về thân phận và vẻ đẹp người phụ nữ vẫn là nỗi nhức nhối trong xã hội cả trước và nay.

Phân Tích Đoạn Thơ Từ Câu “Dù Em Nên Vợ Nên Chồng” đến hết đoạn Trao Duyên  Mẫu 5:

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, ông đã từng sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tạo nên kiệt tác ”Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao Duyên” trong Truyện kiều là một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ, dang dở tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Nếu như ở những câu đầu Thúy Kiều nhờ cậy em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp, Thúy Kiều đầy xót xa đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em truyện mai sau.

Khi tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang diễn ra tươi đẹp và đằm thắm thì thình lình tai biến lại dồn đến. Sau khi thu xếp mọi việc bán mình để cứu cha và em, ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh rời khỏi nhà. Đêm ấy, Kiều không đành lòng với tình cảnh dang dở cùng Kim Trọng nên cuối cùng, sau khi tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em, khi thấy Vân đã cảm thông, Thúy Kiều đem từng kỉ vật trao tình yêu giữa mình và Kim Trọng ra trao cho em gái:

”Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Thúy Kiều từ từ trao lại những kỉ vật tình yêu “chiếc vành”, ”bức tờ mây” rồi đến ”phím đàn”, ”mảnh hương nguyền” cho Thúy Vân. Kiều đưa cùng một lúc nhưng là đưa từng món một. Mỗi món đều gắn với một kỉ niệm, mang một ý nghĩa của mối tình nồng nàn. Tưởng như Thúy Kiều vừa trao vừa ngập ngừng ngắm nghía lại từng kỷ vật, nhớ lại từng kỷ niệm với nỗi lòng nuối tiếc khôn nguôi cho mối tình tươi thắm ngày nào. Với Vân, có thế đó là những vật vô tri, nhưng với Kiều mỗi kỷ vật là cả một trời ký ức, là nhân chứng cho một tình yêu hạnh phúc, là lời thề nguyền gắn bó trăm năm… gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Khi đã gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân, nàng căn dặn em ”Duyên này thì giữ vật này của chung”.

”Duyên này” là duyên giữa Thúy Vân và Kim Trọng, chứ phần của Kiều kể như đã hết. Chị đã trao duyên lại cho em nhưng những kỷ vật này thì xin em hãy coi là ”của chung” bởi còn có một phần là của chị. Lúc Kiều kể về mối tình của mình cho Vân nghe, giọng điệu của nàng vẫn bình tĩnh, nhưng đến lúc trao kỉ vật, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được cảm xúc đang dậy sóng trong lòng. Nàng tiếc nuối, đau đớn khi có người thứ ba chia sẻ. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Cảnh ngộ bắt Kiều phải ”lỗi thề” nhưng trong đáy lòng nàng đâu dễ để có thể nguôi đi được lời thề xưa và đoạn tuyệt tình cũ được. Đầy xót xa sầu tủi, trong đau đớn tận cùng, Thúy Kiều phải chăng vẫn giữ lấy một chút an ủi nhỏ nhoi.

Những tưởng rằng trao xong ”duyên” là lòng nhẹ bỗng không còn vướng bận, con đường phía trước sẽ không còn gì níu kéo nhưng ai ngờ trong tâm hồn Kiều lại chứa đựng bao nhiêu sự giằng xé, cố níu kéo, đau đớn. Rõ ràng, lí trí bắt buộc Kiều phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng lại không thể tuân theo một cách dễ dàng. Nỗi đau như đọng lại ở câu thơ “dù em nên vợ nên chồng” – Kiều tự thấy mình đáng thương, mình là người mệnh bạc để người khác phải xót xa thương hại. ”Mất người còn chút của tin” Kiều chỉ có thể trao duyên còn tình nàng vẫn không thể trao, nàng không thanh thản, nàng đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Nàng dùng dằng, gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân rồi tâm trạng mâu thuẫn thật sự trong lòng nàng mới bùng lên mạnh mẽ nửa muốn trao, nửa muốn giữ. Nàng đã mất bao công sức để thuyết phục em nhưng chính lúc em chấp nhận cũng là lúc Kiều bắt đầu chơi vơi cố níu tình yêu lại với mình. Sau đó Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn.

Nhưng có điều đặc biệt nằm ở chữ ”giữ” và ”của chung”. ”Giữ” không có nghĩa là trao hẳn mà chỉ là đưa cho em ”giữ” hộ. Còn chữ ”của chung” lại thể hiện tâm lý là Kiều không đành lòng trao tất cả lại cho em. Những chữ đó chứng tỏ tình yêu của nàng và Kim Trọng thật nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em, khẳng định Thúy Kiều đã đặt hạnh phúc của người mình yêu lên trên hết. Đoạn thơ là một tiếng nấc chứa đầy tâm trạng của nàng khi ấy, khiến người đọc cảm thấy đau lòng. Đó cũng là tài năng miêu tả tâm lí độc đáo của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du

Quá đắng cay cho số phận của mình, thấy rõ là mình mệnh bạc, tất cả đã thành quá khứ, Thúy Kiều nghĩ đến một mai sau mù mịt, đau thương khi mình đã chết. Hơn lúc nào hết, ý nghĩ cứ hiện ra và rõ nét dần

”Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”

Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thẳm, một hơi thơ khác hẳn với lúc bắt đầu Trao duyên. Đây vẫn là những lời tâm sự của Thúy Kiều với Kim Trọng mà sao lời lẽ bất chợt trở nên xa lắng, mù mịt, phảng phất ma mị như từ cõi bên kia vọng về đến thế. Hàng loạt từ nói về cái chết: âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định ”mai sau”, ”bao giờ”, không khí linh thiêng ”đốt lò hương”, ”so tơ phím”, hình ảnh phất phơ, ma mị ”ngọn cỏ lá cây”, ”hiu hiu gió”,… bắt đầu từ đây Kiều mới thực sự cảm nhận được cái bi kịch của đời mình, bi kịch của sự mất mát, bi kịch của nỗi cô đơn. Nàng cảm thấy mình thật đáng thương. Tâm thức đang chìm dần trong nỗi đau khôn nguôi.

Nàng tưởng tượng đến cảnh sum họp của Trọng – Vân, còn mình chỉ là linh hồn ”xương trắng quê người” vật vờ cô độc, bất hạnh nhưng vẫn ”mang nặng lời thề”, vẫn khát khao mong muốn được theo làn gió nhẹ ”hiu hiu” trên ”ngọn cỏ lá cây” để trở về cõi thế gặp lại người thương yêu. Duyên tình của Kiều đã hết, kỉ vật tình yêu cũng đã trao cho em, nhưng hồn của nàng vẫn chưa dứt nỗi chàng Kim, còn mang nặng lời thề trăm năm gắn bó. Thế mới biết nàng có tình yêu thủy chung, mãnh liệt đến mức nào. Nàng trở nên cô đơn, tuyệt vọng, dự cảm được tương lai đầy bất hạnh của chính mình. Nghĩ đến đấy, Thúy Kiều tha thiết dặn em:

”Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Nay lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc. ”Dạ Đài” là nơi âm phủ tăm tối, trong cảnh ngộ ”cách mặt khuất lời” linh hồn Thúy Kiều vẫn khao khát nhận được sự cảm thông, tưởng nhớ của những người yêu thương nên chỉ xin Trọng một ”chén nước” để làm phép tẩy oan. Điều đó chứng tỏ Thúy Kiều vẫn khao khát được trở về cõi thế để chứng minh cho ty bất diệt của mình. Hồn của nàng còn ‘mang nặng lời thề’ nên dù có chết đi cũng chẳng thể siêu thoát. Nàng đau đớn, sợ hãi trước tương lai mù mịt…Thế mới thật sự là giằng xé, thật sự là bi kịch.

Dưới ngòi bút tài hoa sắc sảo của Nguyễn Du, Thúy Kiều hiện lên rất rõ là một cô gái nhạy cảm, vị tha và giàu lòng yêu thương. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình thông qua lời đối thoại và độc thoại, nỗi đau và tâm hồn của Kiều càng được thể hiện tinh tế, khắc họa sinh động, sâu sắc và đầy xúc cảm tâm trạng của Thúy Kiều khi tình yêu tan vỡ, nỗi đau đớn của người con gái bất hạnh này

Đoạn trích là những dòng thơ thể hiện bi kịch tình yêu bậc nhất trong Truyện Kiều. Qua đó, bộc lộ phẩm chất cao quý của Thúy Kiều trong tình yêu. Trước sự tan vỡ của tình yêu, nàng làm tất cả những gì có thể làm được để người mình yêu được hạnh phúc nhưng người đau khổ nhất vẫn là nàng. Nhờ thế mà đoạn trích đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du: nỗi cảm thông sâu sắc đối với những đau khổ và khát vọng hạnh phúc, tình yêu của con người.

Phân Tích Đoạn Thơ Từ Câu “Dù Em Nên Vợ Nên Chồng” đến hết đoạn Trao Duyên  Mẫu 6:

Truyện Kiều được xem là một thiên truyện nói về nỗi đau của con người trong chế độ đầy rẫy những bất công. Là tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Là tác phẩm đạt đến trình độ mẫu mực cổ điển mà tiêu biểu đó là nghệ thuật tả người, khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc. Để minh chứng cho điều đó chúng ta có thể tìm hiểu ở 14 câu giữa của đoạn trích Trao Duyên.

Đoạn trích thuộc đoạn mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy rẫy những khổ đau, ngang trái mà Thúy Kiều phải chịu đựng. Sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng cha và em trai bị hàm oan và bị bắt giam. Thúy Kiều đành phải bán mình cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em trai. Trước đó Kiều đã có hẹn ước với Kim Trọng, nay đành phải “trao duyên” này cho em là Thúy Vân. Đoạn trích Trao Duyên chính là đoạn nói về việc Thúy Kiều nhờ cậy em trả nghĩa cho chàng Kim. Nhan đề Trao Duyên nhưng không phải việc trao giữa nam và nữ có tình cảm với nhau như ta từng bắt gặp trong ca dao. Ở đây Trao Duyên là gửi tình, gửi duyên cho người khác, người sẽ tiếp nối duyên phận, mối tình dở dang của mình.

Sau khi cậy nhờ em cũng như nhớ lại mối tình của mình với chàng Kim thì mười bốn câu thơ giữa bài tái hiện bi kịch tình yêu tan vỡ của mình:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Sau khi nhờ cậy và biết rằng em thuận lòng và để tăng thêm sự dứt khoát cũng như nắm chắc quyết định dứt tình với chàng Kim thì Thúy Kiều đã giao ra kỷ vật đó là “chiếc thoa” với “bức tờ mây”. Nếu nói trao duyên, trao tình cảm thì nghe còn trừu tượng, chưa có cơ sở, nhưng khi đưa ra tất cả những tín vật thì chắn hẳn lúc này Thúy Kiều vô cùng đau đớn. Có thể nói khi nhìn người mình yêu sánh đôi với kẻ khác đã đau đớn mà chính mình chặt đứt tơ duyên, đem trao duyên này cho người khác thì càng đau xót đến nhường nào. Trao kỷ vật cũng nhằm để cho Thúy Vân nhớ đến mình, nàng tự coi mình là “mệnh bạc” để người khác xót xa thay cho thân phận mình. Kiều còn tưởng tượng ra cảnh sau này em mình và chàng Kim:

“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”

Kiều tự coi bản thân chuyến này như đã chết, đánh mất bản thân, mất đi tơ duyên ngày nào thì sống trên đời cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Kiều chỉ mong rằng Thúy Vân còn giữ kỷ vật cũng như về người chị “mệnh bạc” này”. Chút níu giữ đó là vật làm tin nay cũng trao đi rồi, còn”phím đàn” ở lại như để mỗi khi ai đó đánh lên sẽ nhớ tới nàng. Bốn câu thơ tiếp theo chính là những dự cảm về cái chết mà Kiều đã sẵn sàng đón nhận:

“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”

Cả một đoạn thơ dài đều là những ám ảnh về cái chết chứ không phải ở bốn câu thơ trên. Chắc hẳn Thúy Kiều đã mất niềm tin vào tương lai phía trước, đứng trước sự nghiệt ngã ở đời thì nàng không trông mong khi mình đi rồi sẽ tìm được hạnh phúc, sẽ được ấm êm. Một người đương tuổi xuân phơi phới nhưng luôn canh cánh về cái chết. Nàng chỉ mong ước duy nhất đó là mai sau Thúy Vân hãy nhớ tới linh hồn của mình để nàng đỡ lẻ loi, hiu quạnh. Khi đàn, khi đốt hương hay khi trông ra ngọn cỏ thì hãy nhớ đến người chị này. Kiều mất niềm tin vào cuộc sống, cho dù chết cũng chỉ biết nương nhờ cỏ cây, vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ chứ chẳng biết bám víu vào đâu.

Duyên tình đã hết, dù cho có chết đi và mọi người có thể quên lãng nhưng nàng vẫn mang những tâm tư, tình cảm đi theo:

“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền ghì trúc mai”

Lời thề, lời hẹn ước mặc dù đã được trao cho em thay mình trả nhưng không có nghĩa là cô đã hoàn toàn trút bỏ, lãng quên. Thậm chí kể cả khi đã chết thì vẫn “mang nặng lời thề”. Nàng tự ví mình như “bồ liễu”, “trúc mai” tuy mảnh mai, yếu đuối nhưng lại thanh cao. Mong muốn được rửa oan khuất khi bị tước mất quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.

Tóm lại đoạn trích Trao Duyên đã nói lên bi kịch tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Đây cũng là đoạn thơ đặc sắc khi Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm lý, miêu tả nội tâm nhân vật. Qua đó phản ánh bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Phân Tích Đoạn Thơ Từ Câu “Dù Em Nên Vợ Nên Chồng” đến hết đoạn Trao Duyên  Mẫu 7:

Có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Tài năng ấy của ông được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm “Truyện Kiều”, tiêu biểu nhất là ở đoạn trích “Trao duyên”. Đoạn trích này đã thể hiện những tâm trạng, cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi cậy nhờ Thúy Vân “chắp mối tơ thừa” với Kim Trọng. Và nó thể hiện rõ nét hơn ở 14 câu giữa của bài Trao khi Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân.

Như ta thấy, tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đang ở giai đoạn đẹp nhất thì bỗng phải chia lìa vì Kiều bán mình cứu cha và em. Hai người đã có một cuộc thề nguyền đầy thiêng liêng và lãng mạn nhưng trong hoàn cảnh gia đình gặp gia biến, phận làm con Kiều lựa chọn chữ hiếu để báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.

Và nàng trao lại mối tình duyên cho Thúy Vân mà trong lòng ngổn ngang những tâm trạng, cảm xúc. Trao lại thứ gì đó thuộc về vật chất thì còn dễ hình dung, đong đếm nhưng Thúy Kiều lại trao duyên, có mấy ai định hình được thứ tình cảm này?

Những kỷ vật của tình yêu như chiếc vòng đeo tay và tờ giấy ghi lời thề nguyền của hai người Thúy Kiều đều đem trao lại để Thúy Vân giữ:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”

“Chiếc vành – Tờ mây” là vật thề ước, là sự chứng thực cho mối tình đôi lứa Kim Trọng- Thúy Kiều. Có hai vật đó Kiều mới có thể đường hoàng bên chàng Kim đến “đầu bạc răng long”. Nhưng mất nó đồng nghĩa Kiều với Kim không còn là gì cũng như tình yêu sẽ đổ vỡ không thể hàn gắn. Bởi vậy nên mỗi kỷ vật trao đi như từng mảnh tình yêu cuối cùng rời khỏi tay Kiều. Giọng điệu nghe ra bình thường như vẫn có tiếng nấc nghẹn ngào sau từng câu câu chữ. Trao đi “duyên này…vật này” cho Vân nhưng lại kết bằng hai chữ “của chung”.

Tình yêu với Kiều là sự sống, là hơi thở nên đâu nói bỏ là dứt được. Nguyễn Du cuối cùng vẫn để kiều trở lại là người con gái yếu đuối nằm trong dòng xoáy tâm lí thường tình, khi mất đi thứ gì càng quan trọng với mình thì càng ý thức mạnh mẽ về giá trị thực của nó. Cho nên “của chung” mới vang lên trong Kiều với bao nhiêu giằng xé, mâu thuẫn. Dường như lý trí nàng đã quyết định dứt bỏ nhưng trái tim thì không thể tuân theo. Giống như kỷ vật đã trao nhưng vẫn níu kéo tình yêu, kỉ niệm cho riêng mình.

Nhưng cuộc đời bể dâu với những “sóng gió bất kì” đã khiến Kiều rơi vào bi kịch của sự tuyệt vọng do chính mình tạo ra khi nhìn vào phía trước vẫn hoàn hảo như vậy, chỉ thiếu bóng mình.

“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Kiều day dứt láy đi láy lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Như vậy, nghĩa cho Kim Trọng đã trả, Vân đã có hạnh phúc cho mình, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản vì hạnh phúc cuộc đời nàng là chàng Kim đã thuộc về người khác. Tương lai đã không có chỗ cho Kiều. Nàng cô độc, bơ vơ bên lề hạnh phúc. Nàng sẽ chẳng còn lại gì, thân “bạc mệnh” này chỉ mong chờ vào “chút của tin” cùng quá khứ xưa để được tưởng nhớ không bị lãng quên. Hiện tại vẫn còn đây “chút của tin”, nhưng đó chỉ còn là của “ngày xưa”, là vật gợi lại kí ức trong quá khứ của Kiều, còn mai sau sẽ là của Vân. Chữ “ngày xưa” xa xôi vang lên chua xót gọi về mối tình đẹp mới như ngày hôm qua giữa Kim Kiều. Lúc này, dường như nhớ về kỉ niệm tình yêu ấm áp “phím đàn với mảnh hương nguyền” kia lại càng khiến Kiều đau đớn hơn.

Dấn thân sâu vào nỗi tuyệt vọng, Kiều cảm thấy tương lai sống hay chết cũng không mấy khác biệt:

“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Cho dù Thúy Kiều có “thịt nát xương mòn” thì cũng mong rằng Thúy Vân và Kim Trọng không quên mình. Nàng còn chỉ cho Thúy Vân biết dấu hiệu để nhận ra khi mình trở về: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Một con người nặng tình nặng nghĩa như Thúy Kiều không thể lãng quên lời thề của mình với chàng Kim nhanh như vậy được. Ngay cả khi là một linh hồn chốn cửu tuyền thì nàng vẫn “mang nặng lời thề”. Đó là lời thề thủy chung son sắt trọn đời bên nhau cùng Kim Trọng. Lời thề thủy chung ấy nàng sẽ khắc cốt ghi tâm cả cuộc đời không quên. Thế giới cõi âm và thế giới ở trần gian “cách mặt khuất lời” nên Thúy Kiều chỉ xin Thúy Vân “rưới xin giọt nước” cho linh hồn oan khuất của mình. Thúy Kiều đang còn sống mà tâm trí thì nghĩ về cái chết – cái chết oan khuất của một con người mệnh bạc.

Qua đây ta thấy hậu quả mà xã hội xưa đã đày đọa con người ta đến đường cùng, cướp đi quyền yêu và hạnh phúc, khiến cho một cô gái “xuân xanh” như Kiều lại bế tắc nghĩ đến cái chết. Nàng vùng vẫy vọng tuyệt vọng, muốn biết tại sao mình lại phải hy sinh thân mình, trao duyên, chịu đựng giằng xé vì một lỗi lầm không phải của ai cả. Sự không cam lòng ấy lại chẳng thể chia sẻ với ai, không ai thấu hiểu nên càng bế tắc.

Cả cuộc đời, Kiều vẫn luôn sống trong sự trăn trở với những câu hỏi xem mình làm vậy có đúng hay không. Và ngòi bút nhân đạo Nguyễn Du đã nhìn thấy sự khốn khổ đó của con người trong xã hội cũ và để sự tự ý thức về cuộc đời, số phận, phẩm chất lần đầu tiên được bộc lộ rõ ràng, quyết liệt như thế. Nhà thơ đã lên tiếng che chở cho nhu cầu hạnh phúc cơ bản, vốn có của con người.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “phân tích đoạn thơ từ câu “Dù em nên vợ nên chồng” đến hết đoạn Trao duyên” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 07/2024!