Updated at: 06-07-2022 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Một tác phẩm hay không thể thiếu đi một số biện pháp nghệ thuật, nó giúp cho tác phẩm của chúng ta trở nên đặc sắc và hấp dẫn hơn nhiều. Và dưới đây chúng tôi đã tổng hợp những gợi ý hay nhất về Giới thiệu một số biện pháp nghệ thuật thường gặp trong ca dao yêu thương, tình nghĩa. Mời các bạn đọc tìm hiểu!

Đề bài: Giới thiệu một số biện pháp nghệ thuật thường gặp trong ca dao yêu thương, tình nghĩa

gioi thieu mot so bien phap nghe thuat thuong gap trong ca dao yeu thuong tinh nghia

 

Bài làm:

Một tác phẩm muốn hay và có giá trị, một tác phẩm văn học truyền đạt được những giá trị nội dung đặc sắc cần phải sử dụng những biện pháp nghệ thuật tiêu biểu. Các biện pháp nghệ thuật như một phương tiện hữu hiệu mà thông qua đó tác giả thể hiện được ý đồ của mình vào tác phẩm. Trong ca dao, dân ca Việt Nam, đặc biệt là ca dao yêu thương tình nghĩa các biện pháp nghệ thuật quen thuộc và gần gũi cũng được sử dụng rất nhiều nhằm biểu đạt những tình cảm, cảm xúc cho người đọc người nghe.

Nghệ thuật so sánh là biện pháp tiêu biểu được sử dụng nhiều trong đa số các bài ca dao. Dựa trên sự tương đồng, gần gũi về một nét tính chất nào đó giữa hai sự vật, hiện tượng tạo nên những hình ảnh nghệ thuật đầy mới mẻ, khơi gợi cảm xúc thẩm mĩ của người tiếp nhận. Đồng thời, nhân vật trữ tình có dịp bộc lộ những tình cảm, tâm trạng của mình gửi đến đối tượng trữ tình.

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Nghệ thuật so sánh gần gũi giúp dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi sâu vào lòng người. Công cha – như núi; Nghĩa mẹ – như nước – một lời thủ thỉ căn dặn mỗi người phải biết ơn, ghi nhớ đức hi sinh, sự vất vả, công ơn lớn lao, cao cả như núi sông của cha mẹ.

“Tình anh như nước dâng cao

Tình em như dải lụa đào tẩm hương”.

Bằng biện pháp so sánh, tình cảm đôi lứa được bộc lộ một các vừa cụ thể lại vừa trừu tượng. Thể hiện được những tình cảm lớn lao, cháy bỏng , mãnh liệt lại vừa nhẹ nhàng, mềm mại, tế nhị trong tình yêu của hai người. Đó là những cảm xúc của những người đang yêu, thật đẹp, thật đáng trân quý.

Yêu nhau như thể tay chân,

Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.

Hay:

Anh em như thể tay chân

Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần

Tình cảm gia đình, tình anh em được ví như ” chân tay” , sự gắn bó keo sơn không thể tách rời nhau , câu ca dao như mọt lời nhắn nhủ về tình cảm anh em trong gia đình dòng họ, phải yêu thương, chăm sóc và đùm bọc lẫn nhau. Đó là tình cảm quý báu và thiêng liêng cần được trân trọng và giữ gìn.

Nhân hóa, ẩn dụ cũng là những biện pháp nghệ thuật được sử dụng nhiều trong ca dao yêu thương tình nghĩa. Thông qua việc gọi tên, miêu tả, sử dụng các từ ngữ chỉ hoạt động, tính chất của người thay thế cho vật đã biểu đạt được những tình cảm của nhân vật trữ tình rõ rệt:

“Khăn thương nhớ ai,

Khăn rơi xuống đất.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn vắt lên vai.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn chùi nước mắt.

Đèn thương nhớ ai,

Mà đèn không tắt.

Mắt thương nhớ ai,

Mắt ngủ không yên.

Đó là nỗi nhớ thương da diết của người con gái gửi tới người mình yêu, nỗi nhớ cồn cào, khắc khoải cùng nỗi lo âu, là tâm trạng ngổn ngang “trăm mối tơ vò” trong nỗi nhớ người thương. Dòng tâm trạng đó được bộc lộ thật ý nhị, tinh tế mà sâu sắc.

“Ước gì sông rộng một gang

Bác cầu dải yếm cho chàng sang chơi”

Chiếc cầu”dải yếm” ấy là chiếc cầu của tình yêu, chiếc cầu được xây đắp bằng tình cảm sóng trào của cô gái gửi người thương. Chiếc cầu ấy là cấu nối của tình yêu, là con tim rạo rực trong tình yêu của người con gái đang tuổi xuân thì

“Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

Hình ảnh'”muối’, “gừng” là những hình ảnh thân thuộc, bình dị với người dân lao động, nó tượng trưng cho tình cảm vợ chồng mặn nồng, đậm đà mà sâu sắc, vững bền.

Ngoài ra, trong ca dao yêu thương tình nghĩa còn sử dụng các hình ảnh mang tính biểu tượng cao như chiếc cầu trong tình yêu, mận- đào để chỉ người con trai và con gái, hình ảnh con cò chỉ cuộc đời người phụ nữ lam lũ vất vả:

“Nước non lận đận một mình

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay

Ai làm cho bể kia đầy

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?”

Hay:

“Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.”

Thể thơ lục bát cũng được vận dụng nhiều trong ca dao, là một thể thơ truyền thống của dân tôc. Lục bát tạo điều kiền để bày tỏ cảm xúc một cách tự nhiên, tính hiệp vần chặt chẽ tạo nên những bài ca dao hài hòa, cân đối.

Ca dao yêu thương, tình nghĩa và ca dao Việt nam nói chung đã trở thành một “món ăn” dân dã của văn học Việt. Biết bao bài ca dao đi vào thơ ca tạo nên nét đặc sắc, tính thẩm mĩ và nét riêng biệt của dân tộc Việt Nam.

Lời kết

Qua bài viết trên ta thấy rất rõ công dụng của các biện pháp nghệ thuật đối với ca dao tục ngữ Việt Nam. Rất mong quý độc giả cảm thấy thích thú.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!