Updated at: 05-01-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách đọc hiểu đoạn trích Nỗi thương mình của Thúy Kiều trích Truyện Kiều Nguyễn du chuẩn nhất 03/2024.

I – Gợi dẫn 1. Truyện Kiều là một tác phẩm lớn của văn học cổ điển Việt Nam. Qua số phận đầy bi kịch của nàng Kiều, tác phẩm thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm là khát vọng hạnh phúc và tiếng khóc cho thân phận con người, là tiếng nói đanh thép lên án những thế lực xấu xa đã chà đạp và cướp đi quyền sống hạnh phúc của con người

Đề 1: Cách đọc hiểu đoạn trích Nỗi thương mình chuẩn nhất

I – Tìm hiểu chung

1. Tác phẩm

  Truyện Kiều là một tác phẩm lớn của văn học cổ điển Việt Nam. Qua số phận đầy bi kịch của nàng Kiều, tác phẩm thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm là khát vọng hạnh phúc và tiếng khóc cho thân phận con người, là tiếng nói đanh thép lên án những thế lực xấu xa đã chà đạp và cướp đi quyền sống hạnh phúc của con người

Tác phẩm thể hiện tiếng lòng ai oán, niềm xót thương vô hạn đối với cái đẹp bị chà đạp và tàn phá không tiếc thương. Truyện Kiều không chỉ là nơi toả sáng tài năng của Nguyễn Du và ngôn ngữ dân tộc mà còn là nơi hội tụ vẻ đẹp tâm hồn dân tộc.

2. Đoạn trích 

    Nỗi thương mình hội tụ hai yếu tố cơ bản làm nên giá trị của Truyện Kiều cả về nội dung và nghệ thuật. Đó là sự cảm thông sâu sắc, sự đồng cảm của nhà văn đối với bi kịch của con người và nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật đạt đến trình độ sắc sảo, tinh tế. Sau khi “trao duyên” cho Thuý Vân và rơi vào tay Mã Giám Sinh, Kiều mới biết mình rơi vào tay một kẻ phàm phu tục tử, rồi bị mua về làm gái lầu xanh. Đau đớn tột cùng, nàng tự vẫn nhưng không thành, sau đó lại bị Sở Khanh lừa và Tú Bà buộc nàng phải ra tiếp khách. Từ một cô gái đức hạnh sống trong cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che – Tường đông ong bướm đi về mặc ai” bị buộc phải sống cuộc sống “Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”, Kiều đã vô cùng đau đớn. Trong nỗi đau tột cùng vì thân thể và nhân phẩm bị chà đạp ấy, nàng đã luôn nhớ đến cha mẹ, đến hai em và đến Kim Trọng. Càng nhớ càng đau, càng day dứt. Nỗi lòng tê tái của nàng cũng chính là một phương diện toả sáng nhân phẩm của nàng.

3. Cách đọc

Đọc chậm, nhấn giọng ở các từ ngữ chỉ thời gian, tâm trạng, thể hiện nỗi chua xót đến tột độ. Câu cuối đọc chậm hơn, thể hiện sự bế tắc, tủi nhục của Thuý Kiều.

II – Kiến thức cơ bản

Có thể nói trong mười lăm năm lưu lạc, Thuý Kiều đã trải qua muôn sự lọc lừa. Nhưng lần Thuý Kiều bị lừa đau đớn nhất là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thuý Kiều sang hướng khác. ở lầu xanh, Thuý Kiều cũng không dễ dàng cam chịu. Luôn ý thức sâu sắc về nhân phẩm nên lúc nào Thuý Kiều cũng nghĩ về sự nhục nhã, ê chề. Sự chà đạp dã man của bọn buôn thịt bán người có lúc khiến Thuý Kiều tưởng chừng như đành rời xa nhân phẩm:

Thân lươn bao quản lấm đầu,

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.

   Nhưng đó cũng chỉ là câu nói nhất thời trong lúc đớn đau.

Đoạn thơ Nỗi thương mình là đoạn tả tâm trạng Kiều sau khi đã chấp nhận phải sống cuộc sống của kiếp gái làng chơi. Đoạn thơ là tâm tư trăm mối của nàng Kiều tê tái vì cuộc sống ở lầu xanh; buồn vì thương cha, nhớ mẹ, thương nhớ người tình; đau vì kiếp đoạn trường phũ phàng, nghiệt ngã không biết kéo dài đến tận bao giờ:

Biết bao bướm lả ong lơi,

Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh.

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

   “Giật mình” mới là ý thức lần đầu, nhưng mình ngẫm lại/thương mình/xót xa thì lại khác. Tâm trạng thảng thốt của Kiều đã diễn ra rất nhiều lần. Nhịp thơ hai câu đầu đều nhưng day xiết. Mỗi từ dường như cũng trĩu nặng, trầm lắng. Sau phút giật mình ấy, câu thơ như để lại một khoảng trống của một tiếng thở dài.

Giật mình vì hiện tại nhục nhã, đớn đau, Thuý Kiều lần tưởng về quá khứ. Nhưng không thể được, hiện tại vẫn cứ níu giữ, vẫn cứ đối lập, vẫn bám riết một cách quyết liệt và gớm ghê. Quá khứ được nhắc đến trong câu thơ “Khi sao phong gấm rủ là” thì hiện tại lại ập đến trong ba câu tiếp đó:

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?

   Quá khứ đẹp tươi nhưng đang bị nghiền nát bởi hiện tại phũ phàng. Đoạn thơ dùng nhiều từ sao vừa để nghi vấn, vừa luyến láy trong hình thức điệp, kết hợp với liên tiếp các thành ngữ chéo: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường làm cho đoạn thơ có một giọng điệu riêng, âm hưởng đay nghiến thấm vào từng chữ, từng nhịp câu thơ.

Những câu thơ tiếp, Nguyễn Du tả cảnh cuộc sống ở lầu xanh. Đó là cuộc sống phong trần có cả cầm, kì, thi, hoạ:

Đòi phen nét vẽ câu thơ,

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.

   Lại có cả phong, hoa, tuyết, nguyệt :

Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

   Thật mỉa mai, chua chát. Cuộc sống ở lầu xanh được trang hoàng bởi cái vẻ bề ngoài vô cùng trang nhã, có đủ thứ của cuộc sống đài các, cao sang. Nhưng dù có nguỵ trang khéo léo đến mức nào, nó cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong. Đoạn thơ cũng đồng thời hướng vào tâm trạng Thuý Kiều. Sống cuộc sống lầu xanh, Kiều phải tách mình thành hai nửa. Một con người giả tạo, sống để vui gượng, ngẩn ngơ… và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn. Nỗi sầu của lòng người lan toả sang cảnh vật. Nguyễn Du đã sáng tạo một câu thơ có giá trị khái quát “quy luật muôn đời” về sự kết hợp giữa ngoại cảnh và tâm cảnh:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?

   Vì cái lí lẽ đó mà cảnh vật ở những câu thơ trên vắng lạnh, u buồn và rợn ngợp. Nó góp phần khắc sâu hơn nỗi đau đớn của nàng Kiều khi phải sống trong cảnh nhục nhã ê chề.

Khi gió tựa hoa kề, khi lại cung cầm thi hoạ, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy trong lòng nàng. ý thức về nhân phẩm bị giày xéo đã khiến nàng không thể nguôi quên nỗi nhục ấy. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn tâm trạng ấy. Nỗi đau thường trực trong nàng, không giây phút nào nàng không bị dằn vặt, xót xa.

Đòi phen nét vẽ câu thơ,

Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa.

   Không chỉ những lúc phải tiếp khách làng chơi, cả những lúc tưởng thanh nhàn với những thú vui tao nhã, nàng vẫn không hết tủi nhục. Bởi dù sao, đó vẫn chỉ là cuộc sống ô nhục chốn lầu xanh. Vậy nên:

Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó, mặn mà với ai?

   Vui gượng để sống qua ngày, để được yên thân với lũ đầu trâu mặt ngựa. Nàng đã từng cố gắng để thoát ra khỏi cuộc sống ấy nhưng không được. Chết cũng không thể bởi Đạm Tiên đã báo mộng, kiếp đọa đày của nàng chưa thể chấm dứt.

Những từ ngữ như “khi sao”, “giờ sao”, “mặc người”, “đòi phen”, “cảnh nào” được đặt ở đầu các câu thơ đã thể hiện rõ tính chất than thân của đoạn thơ, đó là “nỗi thương mình”. Những tâm trạng ấy của nàng Kiều làm toát lên vẻ đẹp trong sáng trong tâm hồn nàng. Chính vì thế mà dù sau mười lăm năm lưu lạc với hai lần bị đẩy vào lầu xanh, nàng vẫn được chàng Kim trân trọng như thuở nào:

Như nàng lấy hiếu làm trinh,

Bụi nào cho đục được mình ấy vay?

   Ở đoạn trích này, dù đau đớn, xót xa, lời an ủi đối với Thuý Kiều vẫn chỉ là vô vọng. “Nỗi thương mình” trong trường hợp ấy còn nhân lên đến nhiều lần. Cũng như ở đoạn Trao duyên, hay đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, đoạn thơ này vẫn tiếp tục là sự cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du đối với Thuý Kiều; đồng thời nó cũng là sự thành công tuyệt vời của tác giả trong nghệ thuật miêu tả nội tâm.

III – Liên hệ

Khó khăn lớn nhất đối với Nguyễn Du là đã bắt lòng thuỷ chung của Kiều phải trải qua một thử thách bi đát : Kiều phải làm đĩ. Nói gì giữ gìn danh tiết với Kim Trọng, ngay cái nhân cách tối thiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào giữ cho khỏi bị mai một được ? Giản đơn nhất là để cho Kiều chết. Nhưng chết là hết chuyện. Nguyễn Du lại để cho Kiều sống lại. Nhưng sống lại, có nghĩa là chấp nhận lấy số phận nhục nhã của mình. Trong các truyện thơ đương thời, dễ có Kiều là làm việc đó. Nguyễn Du không nhằm nặn ra một Thuý Kiều để làm rạng danh cho một nguyên lí đạo đức trừu tượng nào đó. Kiều vốn là con người bình thường. Nhưng chính con người bình thường này đã có lúc hành động như một liệt nữ, đã nêu tấm gương cao cả và sự hi sinh không bờ bến. Không phải cái tà dâm đã dắt Kiều đến lầu xanh của Tú Bà, mà chính là cái đạo lí làm người, chính tấm lòng hiếu nghĩa đã biến Kiều thành miếng mồi ngon của bọn bán thịt buôn người. Khó khăn đối với Nguyễn Du là để Kiều phải “Sống làm vợ khắp người ta” mà vẫn giữ được nhân phẩm của mình. Kiều rất có ý thức về sự sa đọa mà mình đã rơi vào:

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân…

   Đối với lễ giáo phong kiến, giản đơn nhất là buộc tội Kiều, cho những kẻ làm đĩ như Kiều là mất nết, là tà dâm, là vô loại. Nhưng không có lời lẽ nào để biện hộ cho Kiều hùng hồn hơn là những nỗi đau đớn, dằn vặt của Kiều:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

   Với nỗi xót xa dường ấy, với ý thức như thế về thân phận của mình, Kiều cũng đủ để cho không ai có quyền gạt mình ra khỏi vòng nhân loại. Kiều không thôi mơ ước trở lại cuộc sống trong sạch, được trở lại với quê hương, với gia đình, với người yêu. Những lần “nhớ nhà” của Kiều đều có sức vang dội sâu xa và người đọc không ai có thể khinh bỉ được Kiều.

Đề 2: Cách đọc hiểu đoạn trích Nỗi thương mình hay nhất

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Trích Nỗi thương mìnhTrang 107, Ngữ văn 10, Tập II,NXBGD, 2006)
1/ Văn bản trên có ý chính gì? Xác định phương thức biểu đạt của văn bản ?
2/ Chỉ ra và nêu hiệu quả nghệ thuật hình thức đối xứng trong văn bản?
3/ Những hình ảnh bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm, Tống Ngọc, Trường Khanh sử dụng biện pháp nghệ thuật gì ? Tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó là gì?
4/ Nhà thơ Nguyễn Du tỏ thái độ như thế nào với xã hội phong kiến qua văn bản trên ?
Trả lời:
1/ Văn bản trên có ý chính : tả cảnh sinh hoạt ở lầu xanh của Tú Bà.
Phương thức biểu đạt của văn bản : miêu tả, tự sự, biểu cảm
2/ -Đối xứng nhỏ nhất: tách 2 từ ghép để tạo thành một cụm từ mới: ong bướm / lả lơi thành bướm lả /ong lơi.
– Đối xứng trong từng câu thơ: Cuộc say đầy tháng / trận cười suốt đêm; Sớm đưa Tống Ngọc / tối tìm Trường Khanh,…
Hiệu quả nghệ thuật: Có tác dụng cụ thể hoá hơn nét nghĩa: bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, nhộn nhịp.
3/Những hình ảnh bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm, Tống Ngọc, Trường Khanh sử dụng biện pháp nghệ thuật ước lệ quen thuộc trong thơ văn trung đại;
Hiệu quả nghệ thuật: vừa tả cảnh sống thực của Thuý Kiều – làm kĩ nữ ở lầu xanh vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật mà Nguyễn Du yêu quý, trân trọng.
4/ Nhà thơ Nguyễn Du tỏ thái độ phê phán, lên án gay gắt cảnh lầu xanh nhơ nhớp trong xã hội phong kiến ngày xưa.

Đề 3: Cách đọc hiểu đoạn trích Nỗi thương mình đa dạng  nhất

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Gìơ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Trích Nỗi thương mìnhTrang 108, Ngữ văn 10, Tập II,NXBGD, 2006)
1/ Nêu ý chính của văn bản trên .
2/ Chỉ ra và nêu hiệu quả nghệ thuật nhịp thơ và phép điệp của câu thơ Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
3/ Xác định biện pháp tu từ ( về từ) trong văn bản và nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp đó ?
4/ Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ của em về vẻ đẹp tâm hồn của Thuý Kiều qua văn bản.
Trả lời:
1/ Ý chính của văn bản trên: Tâm trạng của Thuý Kiều khi đã trải qua những ngày tháng nhục nhã ê chề ở lầu xanh.
2/ – Câu thơ Giật mình, mình lại thương mình xót xa. có nhịp 2/1/3/2.
Hiệu quả nghệ thuật : Nhịp thơ thay đổi, chậm lại, trở thành khoảng lặng đau đớn về nỗi cô đơn tê tái và sự tự ý thức phẩm giá của nàng Kiều.
-Từ “mình” được lặp lại ba lần trong câu thơ, nó thể hiện nỗi niềm đang tràn ngập tâm trạng của Kiều.
Hiệu quả nghệ thuật :
-Kiều đang đối thoại với chính mình. Hai “mình” trong một con người Kiều đang soi vào nhau. Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, nàng luôn khao khát về một cuộc sống tốt đẹp. Thế mà giờ đây, nàng lại rơi vào một hoàn cảnh cực kì trái ngang, bi đát. Vì thế, đã có biết bao đêm một mình nàng suy nghĩ, một mình nàng trăn trở, một mình nàng xót xa cho thân phận mình sao lại bị đẩy đưa đến nông nỗi này.
-“Giật mình”, chính là sự tự ý thức chua chát về nỗi đau, nỗi nhục nhã, ê chề của thân phận trên cơ sở sự trỗi dậy của nhân phẩm, của bản chất tốt đẹp vốn có trong Kiều. Chỉ có những khoảnh khắc này, Kiều mới được sống thực với con người mình, trở về với bản chất tốt lành, phẩm giá cao quý của mình.
3/Biện pháp tu từ( về từ) trong văn bản :

  • So sánh : Gìơ sao tan tác như hoa giữa đường.
  • Hoán dụ : Mặt sao ; Thân sao
  • Ẩn dụ: Phong gấm rủ là ( hạnh phúc) ;dày gió dạn sương(sự từng trải) ;bướm chán ong chường( thân phận bị ruồng bỏ, rẻ rúng) ; mây Sở mưa Tần( quan hệ thân xác) ; xuân ( tuổi trẻ, hạnh phúc)

Hiệu quả nghệ thuật : Tất cả những biện pháp tu từ đó biến đoạn thơ thành lời độc thoại nôi tâm của nhân vật, trực tiếp diễn tả tâm trạng của nàng Kiều một cách cụ thể và chân thực. Đó là tâm trạng xót thương cho bản thân mình, số phận của mình.
4/ Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu :
-Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, lập luận chặt chẽ ;
-Nội dung: Vẻ đẹp tâm hồn của Kiều thể hiện :
+ Nàng ý thức rất rõ và rất đau đớn về cảnh ngộ, nỗi cô đơn tận cùng khi phải sống trong lầu xanh nhơ nhớp ;
+ Một loạt những từ ngữ để hỏi : khi sao, giờ sao, thân sao…diễn tả sự chất vấn, tự giày vò, tự kết án chính mình của Kiều. Đó cũng là sự chất vấn số phận của nàng ;
+ Trong hoàn cảnh ê chề, Thuý Kiều đã có ý thức về nhân phẩm, giá trị nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của mình.

Đề 4: Cách đọc hiểu đoạn trích Nỗi thương mình đầy đủ nhất

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
 
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bể trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Trích Nỗi thương mìnhTrang 108, Ngữ văn 10, Tập II,NXBGD, 2006)
1/ Nêu ý chính của văn bản trên.
2/ Nêu sáng tạo của Nguyễn Du khi sử dụng nghệ thuật ước lệ trong văn bản trên ?
3/ Cách sắp xếp từ ai  trong câu thơ Ai tri âm đó mặn mà với ai?có gì đặc biệt ? Nêu ý nghĩa của vệc sắp xếp đó.
4/ Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ về sự giống nhau và khác giữa giữa câu thơ của Nguyễn Du :
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
với câu thơ của Đặng Trần Côn trong Chinh phụ ngâm ;
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun

Trả lời:
1/ Ý chính của văn bản trên: Bí kịch tâm trạng của nhân vật Thuý Kiều khi sống trong cảnh lầu xanh.
2/ Sáng tạo của Nguyễn Du khi sử dụng nghệ thuật ước lệ trong văn bản:

  • Khi tả cảnh, thơ cổ thường dùng ước lệ: phong (gió), hoa, tuyết, nguyệt ( trăng); cầm( đàn), kì(cờ), thi ( thơ), hoạ ( vẽ);

Trong văn bản , Nguyễn Du vận dụng nghệ thuật tả cảnh theo bút pháp ước lệ trên nhưng không “bê nguyên xi” hình ảnh thơ cổ mà có cách đưa vào thơ mình một cách khéo léo: gió tựa hoa kề ; tuyết ngậm; trăng thâu; nét vẽ câu thơ; Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
3/Cách sắp xếp từ ai  trong câu thơ Ai tri âm đó mặn mà với ai? đặc biệt ở chỗ: 1 từ Ai  đầu câu thơ và 1 từ ai cuối câu thơ gợi khoảng cách xa vời vợi. Chữ ai thứ nhất chỉ người tri kỉ cách xa chữ ai thứ hai chỉ khách làng chơi như một trời một vực. Chúng ở hai đầu câu thơ nên chẳng bao giờ có sự tri ngộ.
4/ Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu :
-Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, lập luận chặt chẽ ;
-Nội dung:
+ Giống nhau : bút pháp tả cảnh ngụ tình, một trong những đặc trưng cơ bản của thi pháp thơ trung đại ;
+ Khác nhau :
++ Thơ của Đặng Trần Côn thể hiện mối quan hệ giữa cảnh và người. Cảnh buồn kéo theo người buồn. Sự mòn héo, tàn tạ của của cảnh vật : cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun làm cho lòng người chinh phụ càng tê tái trong lòng ;
++ Thơ của Nguyễn Du thể hiện mối quan hệ giữa người và cảnh. Người buồn thì cảnh cũng buồn theo. Cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Tâm trạng con người đã lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí.

Đề 5: Cách đọc hiểu đoạn trích Nỗi thương mình đầy đủ nhất

1. Cảnh sống ở lầu xanh

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm

– Biết bao: Sự việc thường xuyên, số lượng nhiều, không thể đếm được.

– Ong bướmtrận cườicuộc say: Chỉ cuộc sống xô bồ, trác táng.

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh

– Kết hợp các điển tích điển cố lá gió cành chimTống Ngọc – Trường Khanh: Chỉ chung loại khách làng chơi phong lưu.

⇒ Chỉ bằng bốn câu thơ sử dụng bút pháp ước lệ với hình ảnh ẩn dụ, Nguyễn Du đã khái quát một cách chân thực nhất về cảnh tượng nhộn nhịp, ồn ào, nhơ nhớp ở Lầu xanh. Những cô kĩ nữ đong đưa lả lướt đón khách tới rồi lại đưa khách về. Những cuộc say những tiếng cười khả ố của những kẻ phóng đãng, điên loạn.

– Sáng tạo thành ngữ: Ong bướm lả lơi → Bướm lả ong lơi: Giúp cụ thể hóa cảnh khách làng chơi ra vào tấp nập, cảnh tượng bát nháo, lộn xộn nơi chốn lầu xanh.

– Đối xứng: Lá gió >< Cành chimSớm đưa Tống Ngọc >< Tối tìm Trường Khanh: Cho thấy người kĩ nữ phải tiếp khách bốn phương. Tác giả sử dụng tả thực nhưng vẫn giữ được hình ảnh của Kiều.

– Tách từ, tiểu đối, đối xứng: Tô đậm thân phận bẽ bàng, nhấn mạnh hiện thực trớ trêu rằng cuộc sống nhục nhã, ê chề kéo dài ở lầu xanh.

→ Nguyễn Du đã tái hiện tình cảnh trớ trêu của Kiều ở lầu xanh đồng thời bộc lộ cái nhìn cảm thông, trân trọng đối với nhân vật.

⇒ Tâm trạng : Đau đớn ,bẽ bàng, nhục nhã.

2. Tâm trạng Thúy Kiều

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa

– Thời gian: Lúc tàn canh – đêm tàn.

– Không gian: Tại lầu xanh, lúc đã vắng vẻ, cô liêu, là những khoảnh khắc hiếm hoi Kiều được sống thực với mình, đối diện với chính mình.

→ Thúy Kiều giật mình nhận ra sự cô đơn, nhục nhã của mình trong cảnh sống nhơ nhớp, lúc đó nàng ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình.

– Giật mình: Bàng hoàng, ngơ ngác, thảng thốt trước thực tại.

– Thương mình: Ý thức về nhân cách, phẩm giá và quyền sống của bản thân. Đó là giọt nước mắt nuốt vào trong gan ruột thấm thía, xót xa.

– Xót xa: Sự đau đớn, ấm ức của tâm hồn.

→ Ba chữ mình trong câu thơ diễn tả nỗi cô đơn cùng cực của nàng Kiều, như một tiếng nấc đan xen lẫn tiếng thở dài, diễn đạt nỗi đau mà chỉ một mình Thúy Kiều biết, cảm nhận. Nỗi đau đó không thể san sẻ cùng ai.

– Nghệ thuật:

+ Câu 1: Nhịp thơ 3/3,gợi tả bước đi của thời gian.

+ Câu 2: Nhịp thơ 2/4/2 đứt gãy bộc lộ tâm trạng.

→ Thấy được tâm trạng thảng thốt giật mình, xót xa cho thân phận của Kiều.

– Hồi tưởng lại quá khứ:

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Quá khứHiện tại
Khi saoGiờ sao
Phong gấm rủ là → Êm đềm, no đủ, hạnh phúc, bình yên.Tan tác như hoa giữa đườngMặt sao dày gió dạn sươngThân sao bướm chán ong chường → Bị chà đạp, vùi dập phũ phàng, hiện thực khỗ liệt như muốn chôn vùi quá khứ

– Các cặp tiểu đối, đối xứng làm tô đậm cuộc sống hiện tại đầy tủi nhục, ê chề, tâm trạng chán chường, mỏi mệt, ghê sợ chính bản thân khi bị đẩy vào hoàn cảnh trớ trêu.

– Từ sao kết hợp với các thành ngữ tạo thành giọng thơ chán ngán, buồn khổ → Tâm trạng đau đớn, nhức buốt đến tận tim gan.

⇒ Thái độ của Kiều: Không buông mình theo dòng chảy đục ngầu của nhà chứa, mà giật mình, thương cho thân, tiếc cho thân mình.

– Hàng loạt từ để hỏi và từ cảm thán:

+ “Khi sao“, “giờ sao“, “mặt sao“, “thân sao” tạo nên giọng điệu chất vấn: Kiều tự tra vấn, tự giày vò, kết án chính mình.

+ Nàng chất vấn, oán trách, căm giận số phận, thể hiện sự day dứt khôn nguôi, nỗi đau đớn về thay đổi thân phận mình,giá trị con người.

+ Người >< Mình

Khách làng chơi Kiều

Số nhiều Số ít

→ Tột cùng nỗi cô đơn.

⇒ Nỗi cô đơn cùng cực và những đau đớn, tủi nhục không bút nào tả xiết của nàng Kiều. Đó cũng là ý thức về phẩm giá, nhân cách của nàng.

Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì.

– Mặc: Sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến Kiều nhưng kg làm sao khác đi được

– Xuân: Ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Kiều – sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kĩ nữ mua vui.

– Sáng tạo thành ngữ: Gió sương dày dạn → Dày gió, dạn sương ð Diễn tả sự trơ lì, tiếp diễn đến độ nhàm chán.

3. Bi kịch tâm trạng của Kiều

Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buốn cảnh có vui đâu bao giờ

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

– Cuộc sống sinh hoạt ở lầu xanh:

Bề ngoàiThực chất
– Gió tựahoa kềtuyết ngậmtrăng thâu.

– Nét vẽcâu thơcung cầmnước cờ.

→ Cảnh 4 mùa + thú vui tao nhã.

– Vui gượngai tri âmmặn mà với aingười buồn.

→ Gượng gạo, tủi nhục, nhơ nhớp.

– Đòi phen: Thể hiện một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều, nỗi sầu của nàng lan tỏa sang cảnh vật.

– Mối quan hệ giữa ngoại cảnh – tâm cảnh: Câu thơ khái quát quy luật tâm lí của con người, nhìn thiên nhiên qua lăng kính của tâm trạng.

→ Bút pháp tả cảnh ngụ tình.

⇒ Tâm trạng gượng gạo, chán chường nhưng cũng chính là ý thức nhân phẩm đẹp đẽ của nhân vật trữ tình.

– Thúy Kiều không vui, phó mặc cho khách làng chơi, thể hiện sự chán chường, mệt mỏi, ghê rợn, nhục nhã khi bị đẩy vào cuộc sống hiện tại.

– Nàng thờ ơ với cả thiên nhiên: Tác giả đã khái quát quy luật tâm lí của con người, Thúy Kiều đang ở trong hiện tại đau khổ, nàng không còn tâm trí để quan sát và để ý xung quanh.

– Vui gượng: nói lên tất cả sự lạc lõng, cô đơn, mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh.

→ Ngôn ngữ nửa trực tiếp làm cho câu thơ có lớp ý nghĩa sâu sắc + câu hỏi tu từ đầy xót xa, cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá, muốn được sống bình yên, trong sạch.

*Thái độ tác giả:

– Tác giả cảm thông với hoàn cảnh sống của Thúy Kiều, trân trọng những phẩm giá cao đẹp của nàng.

– Tố cáo, phê phán chế độ phong kiến và xã hội đồng tiền đã khiến con người đau khổ.

– Đòi quyền sống tự do, chính đáng cho con người.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên mong quý độc giả có thể tham khảo và biết được cách đọc hiểu đoạn trích Nỗi thương mình chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 03/2024!