Updated at: 13-03-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “nêu cảm nhận về đoạn Nỗi thương mình” chuẩn nhất 10/2024.

Dàn ý cảm nhận Nỗi thương mình

A. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm “Truyện Kiều” và vị trí đoạn trích “Nỗi thương mình”.
  • Đánh giá chung về đoạn trích “Nỗi thương mình”.

B. Thân bài

– Vị trí của đoạn trích “Nỗi thương mình”

  • Đoạn trích Nỗi thương mình từ câu 1229 đến câu 1248 của Truyện Kiều miêu tả tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.
  • Nội dung: Là tác giả Nguyễn Du viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy Kiều khi bị buộc làm kĩ nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng:

Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.

– Tác giả đã khai thác triệt để nhằm tô đậm nỗi thương thân, xót phận của Thúy Kiều và gây cảm giác đau đớn. Xót xa thực sự cho người đọc.

– Với 4 câu thơ đầu thôi mà tác giả như vừa là bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp chốn thanh lâu vừa ẩn chứa tiếng thở dài não ruột của người con gái tài sắc buộc phải làm kĩ nữ.

=> Tác giả Nguyễn Du như đang thực sự xót thương Thúy Kiều rơi vào chốn bùn nhơ, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó

  • Có thể nói rằng Thúy Kiều đường như đã ý thức rất rõ về nhân phẩm cao quý của mình.
  • Thúy Kiều là một người con gái tài hoa nhưng mệnh bạc, đã được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ đến. Thúy Kiều như đã dùng hết sức cố vùng vẫy để được giải thoát, nhưng càng vùng vẫy lại càng bế tắc. Nỗi đau “trần thế’’ đối với một người Mai cốt cách, tuyết tinh thần như Thúy Kiều dường như nhân lên gấp bội

=> Dường như nhà thơ tài năng Nguyễn Du đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của nhân vật Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:

– Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách làng chơi đã ra về, lúc này chỉ còn bóng đêm, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.

– Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình / xót xa. Hai chữ giật mình kết hợp với cách ngắt nhịp đột ngột dường như diễn tả tâm trạng thảng thốt đau thương buồn tủi của Thúy Kiều.

=> Thúy Kiều đã như giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận và cũng như tình cảm thảm hại của mình lúc này.

– Nỗi thương mình có thể nói là cảm xúc bao trùm, chủ đạo trong đoạn trích.

– Thúy Kiều đã buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm hạnh phúc để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định.

– Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:

  • Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường.
  • Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ.

– Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:

Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

  • Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.
  • Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.

– Tưởng chừng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

=> Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du dường như đã viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình trong văn chương Việt Nam.

– Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về quá trình nhân vật đã tự ý thức của con người cá nhân trong văn học trung đại.

  • Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật mình mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân.
  • Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII. Không thể có tình thương sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương chính bản thân mình.

– Đoạn trích Nỗi thương mình cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều.

+ Không hề né tránh thực tế nghiệt ngã, và đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá của Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của nàng giữa chốn bùn nhơ.

C. Kết bài

Khẳng định được tài năng của tác giả Nguyễn Du cũng như tác phẩm “Truyện Kiều” có tầm ảnh hưởng như thế nào

Qua đoạn trích có thể hiểu được tâm trạng chán chường, buồn thương và tuyệt vọng của Thúy Kiều, nàng như đã tự ý thức được nhân phẩm của mình bị vùi dập cho nên càng thương mình.

Cảm nhận Nỗi thương mình – Mẫu 1

“Nỗi thương mình” của Nguyễn Du, là một đoạn trích thể hiện rõ nét tài năng sử dụng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ. Nó cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Nguyễn Du (1765 – 1820) quê ở Thăng Long, tên chữ Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc và sống trong xã hội phong kiến – một xã hội thối nát, suy thoái. Chính vì thế mà ông có dịp hiểu biết về lối sống phong lưu xa hoa của giới quý tộc phong kiến và có điều kiện dùi mài kinh sử. Ông được tiếp thu truyền thống học tập và sáng tác của cả gia đình, tạo cho ông vốn học vấn Nho học uyên thâm, lối sống tao nhã, khiến ông hiểu rõ về tầng lớp phong kiến. “Truyện Kiều” còn có tên Đoạn Trường Tân Thanh là một trong những sáng tác chính của ông. Bên cạnh đó “Nỗi Thương Mình” là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ – gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan. Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đời đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm đầy đau đớn : “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngổn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi nàng sánh với quá khứ.

Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:

“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ được hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiểu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy được sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh , nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra. Bằng những hình ảnh ẩn dụ : bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du cho thấy tình cảnh của Thúy Kiều tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày K phải làm công việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại khách đến mua vui. Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều. Bút pháp ước lệ giúp Nguyễn Du không tránh né số phận thực tế của Thúy Kiều mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật.

Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.

Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường , trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục , nỗi ê chề , sự ép buộc , đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc sau, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có một khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Thúy Kiều. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phũ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình. Giật mình không chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong mà nếu không có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà không thể chống đỡ. Điệp từ “mình” lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc.

Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nỗi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:

“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”

Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đến mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.

Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rủ màn che” thì lập tức thực tại phũ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây đc Nguyễn Du sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phũ phàng, tàn nhẫn.

Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vọng của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bây giờ đã chán ngán tất cả:

“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”

Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách làng chơi (số nhiều) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ “xuân” ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kĩ nữ mua vui. Từ “mặc” ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.

“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”

Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong – hoa – tuyết – nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm – kì – thi – họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.

Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái.. Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật :

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Bằng sự thông cảm lạ lùng, và bằng tài năng kì diệu, Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi lòng, cảm xúc của Thúy Kiều, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đều trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương.

“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy sót xa cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.

Đoạn trích Nỗi Thương Mình thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính cách của Thúy Kiều. Thể hiện tập trung tư tưởng nhân văn của tác giả: cảm thương trước bi kịch của K, khẳng định nhân cách đẹp đẽ của nàng và khẳng định sự ý thức về nhân phẩm và sự ý thức cá nhân. Thể hiện nỗi thương mình của Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả-nhân vật- người đọc.

Cảm nhận Nỗi thương mình – Mẫu 2

Đây là đoạn thơ miêu tả tâm trạng đau đớn, ê chề của Thúy Kiều sau khi buộc phải làm kĩ nữ, tiếp khách ở lầu xanh. Khi biết rơi vào nhà chứa, Kiều đã tự tử, nhưng không chết. Nàng định liều chạy trốn theo Sở Khanh nhưng lại bị Sở Khanh lừa, bị Tú Bà bắt lại, đánh đập tàn nhẫn, cuối cùng buộc phải tiếp khách.

Kiều là một cô gái đẹp, cho nên nàng phải tiếp khách liên tục, cơ hồ như không dứt ra được.

“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.

Một không khí thật là náo nhiệt, ồn ào nơi chốn lầu xanh. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, nó hoàn toàn tương phản với những nỗi lòng tê tái của nhân vật ở bên trong. Nguyễn Du rất biết khai thác các tương phán để miêu tả nỗi lòng, biết phân tích sự khác biệt bề ngoài và bề trong. Phải hiểu nỗi đau đớn trong tâm hồn mới hiểu được phẩm giá của Kiều.

Cả đoạn thơ này tác giả không miêu tả cảm xúc của Thúy Kiều trong một thời điểm nào, một buổi nào, một ngày nào, mà miêu tả một tâm trạng triền miên trong chuỗi ngày tiếp khách liên tục Ngày tháng chỉ là một sự chồng chất và kéo dài. Khi cuộc sống trở nên vô nghĩa thì người ta tính ngày tháng cụ thể để mà làm gì? Nỗi thương mình của Kiều hiện lên những lúc vắng vẻ, những khi xong việc nàng tự đối diện với chính mình. Đó là nỗi đau thầm kín đằng sau các hoạt động tiếp khách ồn ào, rộn rã. Ở đây sự miêu tả kết hợp với thuật theo bút pháp tự (kể) tình. Tác giả lần lượt kể và tả những nỗi thương mình.

Thứ nhất là nỗi thương thân, xót thân, tiếc thân:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót. xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân!
Mặc người mưa Sở, mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gỉ?”

Hai tiếng “giật mình” rất hay, nó nói lên cái thần của con người những lúc ngẫm lại những thay đổi quá lớn của cuộc đời. Ba chữ “mình” trong một câu nói lên sự cùng cực cô đơn: mụ chủ chỉ biết tiền, khách chơi chỉ biết sắc, gia đình ở xa, không ai biết là Kiều bị lừa, chẳng ai biết cho đời một người con gái tan nát! Nổi lên trên hết là sự nuối tiếc một phẩm giá bị chà đạp. Hình ảnh “phong gấm rủ là” nói lên hình ảnh của tấm thân vàng ngọc, được khoác gấm, rủ bức là, tức tấm thần bọc trong nhung lụa, quý báu, thế mà nay như hoa giữa đường, ai qua lại cũng có thể xéo lên tàn nhẫn!

Thứ hai là nàng ghê tởm chính bản thân mình: con người khuê các vốn kín đáo, e thẹn, nay đã thành mặt dạn mày dày “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường”. “Bướm chán ong chường” không phải là nói khách chơi chán chường Kiều, mà nói chính Kiều chán chường bản thân mình, sao mình lại trở thành con người tiếp khách trơ trẽn, vô liêm sỉ như thế được? Từ đây Kiều chỉ sống như một món hàng, một thứ đồ chơi, không sống như một con người nữa. Nhiều sách chép câu “Những mình nào biết có xuân là gì” thành “Riêng mình nào biết có xuân là gì”. Chữ “những” có lẽ đứng hơn, hợp hơn. Đó là “những mình”, như loại mình… bao hàm cái ý chán mình ở trong ấy.

Thứ ba là nỗi buồn và bẽ bàng:

“Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu”.
Cảnh tượng nhìn qua quả là rất nên thơ, mà lòng nàng lại ủ dột:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa”.

Cảnh quả là vui thú, tao nhã, phong lưu, nhưng đối với Kiều chi là vui gượng: “Ai tri âm đó, mặn mà với ai?”. Đó chẳng qua là các trò chơi để giết thì giờ không mảy may ý nghĩa.

Thứ tư là sự cô đơn, đau đớn một mình, câu này tuy không có trong đoạn trích nhưng rất có ý nghĩa:

“Thờ ơ gió trúc mưa mai,
Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân”.

Những nỗi lòng thương thân, xót thân, chán mình, buồn khổ cô đơn, vui gượng gạo như thế đã chứng tỏ mạnh mẽ Kiều là một con người có phẩm giá, không phải người tà dâm, lấy việc tiếp khách làm chuyện vui thú.

Có lẽ nói những nỗi lòng tan nát hợp hơn là những nỗi lòng tê tái chăng? Trong nỗi lòng Kiều, nổi lên tình cảm đau đớn vì tha hương lưu lạc và cảm giác thời gian kéo dài nặng nề vô nghĩa.

Khi thuật lại nỗi thương mình của Kiều, nhà thơ dùng lời kể với điểm nhìn bên trong của nhân vật. Bốn câu đầu chỉ là miêu tả cảm giác của Kiểu về các sự việc diễn ra với nàng. Những câu còn lại đều có chủ ngữ là “mình”, mình tự nhìn mình, mình nghĩ về mình. Thử hỏi lúc này ai có thế suy nghĩ thay cho nàng được? Với điểm nhìn ấy, khi đọc đoạn thơ, ta như trực tiếp đọc được những ý nghĩ thầm kín hết sức đau đớn của bản thân Kiều, chứ không phải nghe lời do ai đó thuật lại. Lẽ dĩ nhiên đó vẫn là lời thuật của Nguyễn Du, những điểm nhìn trần thuật bên trong là của Kiều đã tạo ra hiệu quả đó.

Nguyễn Du là nhà thơ rất tinh tế. Để miêu tả những cảnh tầm thường, dung tục nơi lầu xanh, tác giả chỉ gợi qua các biểu tượng với những cụm từ được cấu tạo đặc biệt.

– bướm lả ong lơi

– lá gió cành chim

– bướm chán, ong chường

– mưa Sờ, mây Tần

– gió tựa, hoa kề

Nếu nói ong bướm lả lơi thì có thể chỉ việc xảy ra một lần. Đảo lại thành ra nhiều lần. Bướm chán, ong chường cũng thế. Lá gió cành chim, gió tựa hoa kể đều chỉ các sự trăng gió, nhưng cách nói mới lạ và đa dạng, lại tao nhã.

Nguyễn Du không chỉ kể, tả mà còn gợi, tạo cảm giác cho người đọc. Đây là đoạn văn tài hoa, tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả tâm lí của Truyện Kiều

Cảm nhận Nỗi thương mình – Mẫu 3

Nghệ Tĩnh, vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi thoát ẩn của những bậc thi sĩ, anh hùng, nơi ẩn của những bậc thi sĩ, anh hùng, nơi sinh ra những con người có chí vững, tâm hồn mạnh mẽ. Đại thi hào Nguyễn Được cũng là một trong những người con được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy. Sự nghiệp thơ văn của ông không nhiều, nhưng những gì mà ông đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc lại vô cùng đồ sộ, vĩ đại.

Truyện Kiều là một trong những kiệt tác của Nguyễn. Từ cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân. Nguyễn Du đã tạo nên một tác phẩm mới với cái nhìn mới về con người, xã hội với Nguyễn Du không chỉ là câu chuyện tài mệnh tương đố mà còn là câu chuyện giữa tài và tâm. Chính điều này đã mang đến cho Truyện Kiều có một linh hồn mới, một sức sống mới, phù hợp với tâm hồn của người Việt Nam. Truyện Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Việt Nam và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống. Nhân vật trung tâm của Truyện Kiều là Thúy Kiều – con người tài sắc vẹn toàn. Nhưng cũng không tránh khỏi bi kịch của cuộc đời.

Đoạn trích Thúy Kiều tự thương mình tả lại cảnh Kiều bị mắc lừa sở khanh bị Tú bà đánh đập tàn nhẫn. Thúy Kiều phải nhận lời tiếp khách làng chơi. Đoạn trích Kiều thương mình nằm từ câu 1229 đến 1240. Đoạn trích lên cảnh lầu xanh và tâm trạng của Thúy Kiều sau khi tỉnh giấc à tự thương mình. Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du đi miêu tả cảnh ăn chơi trác táng ở chốn lầu xanh:

Lầu xanh mới rủ trướng đào
Cành treo giá ngọc, càng cao phẩm người.

Bướm lả – ong lơi , Lá gió – cành chim. Nguyễn Du diễn tả những du khách làng chơi ở một tầng bậc cao độ. Đây là cảnh sinh hoạt của một tổ ăn chơi, một cái gì đó dữ dội xô bồ, gấp gáp bởi những từ ngữ gợi hình, gợi cảm độc đáo. Chính sự tác từ đã làm cho cuộc vui tăng lên gấp bội: lả lơi…một cách ăn chơi nổ trời và không lúc nào ngớt khỏi cảnh kiếm tìm, đưa đón tấp nập khiến cảnh trông thấy được nhân lên gấp bội với hình thức ngôn ngữ đặc biệt. Đó là xé các nhóm từ rồi đan chéo lại với nhau. Cho nên trong một câu thơ, một chủ thể, một vật thể được tách thành hai chủ thể, hai vị thể. Sự tách bạch đó không đơn thuần chỉ được nhân lên về lượng mà còn nhân lên cả về chất. Cuộc sống buông thả, không nề nếp, quy củ và vô cùng trác táng.

Trướng đào tức là biểu hiện quảng cáo có hàng mới và có hàng mới ắt có đông người tìm đến, vì đông người nên giá mua vui càng cao.

Hai câu tiếp theo của đoạn trích:

Biết bao bướm lả ong lơi
…Dập dìu lá gió cành chim

Rồi tiếp đó là những cuộc say sưa nào là trận cười, cảnh đưa rước tất cả những cuộc vui đó cứ kéo dài ra quanh năm suốt tháng…Đây chính là cách dùng ngôn ngữ độc đáo của Nguyễn Du khi miêu tả về những cuộc vui ở lầu xanh. Khách làng chơi đến lầu xanh được ví như những loài ong bướm lúc nào cũng lả lơi. Trước hết câu thơ không có chủ từ, đó là chốn lầu xanh, bởi đâu đâu cũng thấy nàng Kiều xuất là nhân vật trung tâm của giá ngọc phẩm người:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Nguyễn Du không để cho nàng Kiều xuất hiện trực tiếp, ông chỉ lách ngòi bút của mình thôi mà đã hiện lên tất cả. Tỉnh rượu khi tàn, Kiều tỉnh giấc và thương thân mình: Giật mình, mình lại thương mình xót xa. Chỉ với câu thơ này mới đưa nàng Kiều tự phận gái lầu xanh trở về với thân phận nàng Kiều trong chính bản thân mình. Tỉnh rượu, tàn canh là lúc con người sống thật với lòng mình nhất, tự thức về những hành động của mình, ý thức về những điều chua chát, đắng cay của bản thân mình. Và một khi đã ý thức được những hành động của mình thì đó cũng là lúc nhân phẩm của con người trỗi dậy, là nhân phẩm, bản chất tốt đẹp của nàng Kiều. Chỉ trong một câu thơ thôi đã có đến ba chữ mình là lúc Kiều cảm thấy mình cô đơn. Kiều tự suy nghĩ, đánh giá, tự thương mình. Chữ mình thứ hai có ý nghĩa quan trọng nhất, chính chữ mình này biểu hiện sự tự thương mình lớn nhất, chỉ có mình thấu hiểu hoàn toàn nỗi lòng của nhân vật trữ tình trong lúc này. Chữ mình thứ hai là loại câu nửa trực tiếp, nửa gián tiếp, là lời từ Kiều nói cho mình, cũng là lời nói của tác giả, tác giả như xông vào câu chuyện của Kiều như thấu hiểu mọi nguồn cơn, mọi sự tình vào câu chuyện của Kiều để cùng chia sẻ, cảm thông với thân phận bọt bèo, nổi trôi của nàng Kiều. Đây là một câu thơ đa nghĩa, làm lay động lòng người.

Sau đó Kiều luôn sóng trong tâm trạng buồn thương:

Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường thế thân
Mặc người mưa Sở, mưa Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?

Trong Kiều lúc này đang có sự phân thân. Hiện tại thì đau đớn, tan tác, chia lìa, nhục nhã đau đớn, đối lập bơ với quá khứ, một quá khứ êm đềm, trong trắng trinh nguyên. Cuộc sống khi xưa thơ mộng đẹp đẽ bao nhiêu thì cuộc sống hiện tại nhục nhã ê chề bấy nhiêu. Những dằn vặt da diết đớn đau của một con người bị xô đẩy vào một hoàn cảnh đối lập hoàn toàn với bản chất tâm hồn và với cuộc sống trong sạch trước đây. Thúy Kiều trước đây là Thúy Kiều rung động trước hình bóng văn nhân, một đóa hải đường hay một ánh trăng xanh, một xúc động trước cảnh ngộ thương tâm của con người đời xưa…

Một lời than, sự ngạc nhiên, sự dằn vặt và ẩn đằng sau là nỗi tủi thân chua xót đến cùng cực mà trước đó là cuộc sống êm đềm hạnh phúc kẻ đón người đưa, tinh khôi, nõn nà, thơm tho…và bây giờ chỉ là một bông hoa tan tác, bị vùi dập giữa đường, bị ngắt khỏi cành bị lìa khỏi cội. Một cuộc sống thật phũ phàng, một cuộc đời thê bỉ, với cảnh tượng giày vò mua đi bán lại:

Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Ở đây không đơn thuần chỉ là sự so sánh. Hai từ sao đặt liền câu trước, câu sau tạo nên sự cách biệt, một nhân vật thành hai nhân vật, hai thân phận. Khi sao – giờ sao đây là hai khoảng thời gian cách biệt khác nhau cộng lại là nỗi chua xót đắng cay tủi thân đến vô bờ:

Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường thế thân.

Biểu hiện tại dày gió dạn sương nỗi buồn chán tăng lên gấp bội. Nói đến mặt là nói đến tâm hồn, thế mà giờ đây mặt trơ trơ. Nàng nhớ đến hành vi đã qua cay đắng tủi nhục khôn cùng chỉ khi tâm hồn chết theo thì Kiều mới sống được ở chốn lầu xanh ngày mà chỉ có thể quên đi những gì êm đềm tốt đẹp trước đây, một thời trướng phủ màn che quên đi bản thân mình thì Kiều mới có thể tồn tại được trong xã hội này.

Thông qua việc miêu tả đoạn trích Kiều tự thương mình Nguyễn Du đã đặc biệt thành công trong việc miêu tả tâm trạng của Kiều. Cái biệt tài của Nguyễn Du trong đoạn trích này là miêu tả tâm trạng cô độc của Kiều, bị tách ra khỏi sự giao tiếp với nội tâm thì thiên nhiên lập tức xuất hiện để nói hộ lòng người. Thiên nhiên với con người làm một, cảnh hòa với tình Nguyễn Du có được thành công ấy là do tác giả đã vận dụng sự hiểu biết của mình về cuộc đời trong việc xây dựng, khám phá nội tâm nhân vật như nghệ thuật sử dụng từ ngữ một cách chính xác, lựa chọn, sáng tạo hình ảnh phù hợp với hoàn cảnh. Nguyễn Du đã diễn tả tâm trạng của Kiều, một tâm trạng bi thương, thấm thía. Một con người có ý thức sâu xa về nhân phẩm của mình và giữ gìn phẩm chất ấy cho dù cuộc đời có vùi dập đến đâu vẫn không sao xóa bỏ được ý thức ấy ở chốn lầu xanh. Khi xây dựng nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với nhân vật đồng thời qua đó tác giả cũng lên án, phê phán xã hội một cách sâu sắc.

Cảm nhận Nỗi thương mình – Mẫu 4

Nguyễn Du là một trong số những gương mặt nhà thơ tiêu biểu, có nhiều đóng góp cho nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm đặc sắc. Trong số những tác phẩm của ông, “Truyện Kiều” được xem là kiệt tác, là đỉnh cao của nền văn học với nhiều điểm đặc sắc về nội dung và nghệ thuật. Đọc “Truyện Kiều”, chắc hẳn bạn đọc sẽ không thể nào quên được hình ảnh Thúy Kiều với bao nỗi đau đớn, xót xa, nỗi thương thân khi phải sống trong chốn lầu xanh và đoạn trích “Nỗi thương mình” đã thể hiện rõ nét điều đó.

Đoạn trích với bút pháp ước lệ, tượng trưng đã gợi ra một cách rõ nét cuộc sống của Thúy Kiều nơi chốn lầu xanh.

Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh.

Chỉ với bốn câu thơ, nhưng bằng việc sử dụng tài tình các hình ảnh ước lệ giàu sức gợi “bướm”, “ong”, “cuộc vui”, “trận cười” cùng việc sử dụng điển cố điển tích Tống Ngọc, Trường Khanh tác giả Nguyễn Du như lột tả một cách rõ nét, chân thực và sinh động bức tranh chốn lầu xanh. Đó là một cuộc sống nhơ nhớp, buông thả, ăn chơi trác tán. Ở nơi đó, những cô kĩ nữ như Thúy Kiều ngày đêm phải tiếp khách, trở thành món hàng, trở thành thứ đồ mua vui cho những vị khách phong lưu. Đặt nhân vật vào cuộc sống nhơ nhớp chốn lầu xanh, tác giả Nguyễn Du không chỉ cảm nhận thấy nỗi đau đớn, ê chề của Kiều mà hơn thế nữa trong chính hoàn cảnh ấy, Thúy Kiều càng bộc lộ rõ những nét phẩm chất, nhân cách tốt đẹp của mình.

Giữa chốn lầu xanh với những ồn ào, vội vã tấp nập, trong khoảnh khắc hiếm hoi của đêm vắng, “khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” chính là khoảnh khắc Kiều có thể đối diện với chính mình, với bao nỗi niềm suy tư, trăn trở và nỗi đau đớn trong lòng cô. Thúy Kiều tự độc thoại với chính mình, để rồi trong cô hiện lên nỗi thương mình và sự xót xa cho chính số phận của mình.

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Đến đây, nhịp thơ đã thay đổi, ngắt nhịp 2/2/2  đầy đường đột như để góp phần diễn tả rõ nét hơn tâm trạng của Thúy Kiều. Hai chữ “giật mình” được đặt ở đầu câu như chính sự bàng hoàng, thảng thốt của Thúy Kiều về cuộc sống thực tại của mình. Để rồi, ẩn sau cái “giật mình” đầy ngỡ ngàng ấy chính là lúc Thúy Kiều cảm thấy thương, cảm thấy xót xa, đau đớn cho chính bản thân mình. Ba chữ “mình” được lặp lại trong cùng một câu thơ đã cho thấy nỗi cô đơn đến tột cùng của Kiều trong những năm tháng sống ở chốn thanh lâu. Thúy Kiều đã giật mình, đã thương, đã xót xa cho chính mình trước thực tại. Và cái giật mình đầy ngỡ ngàng ấy của Thúy Kiều chính là biểu hiện của sự tự ý thức về thân phận bản thân của nàng. Thương cho chính mình, đó cũng chính là lúc Kiều nhận thấy sự đổi thay giữa quá khứ và hiện tại.

Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.

cam nhan ve doan trich noi thuong minh

Nếu quá khứ với Thúy Kiều là những tháng ngày “phong gấm lụa là”, êm ấm, hạnh phúc bên gia đình, cha mẹ thì hiện tại với Thúy Kiều thật phũ phàng. Tác giả đã sử dụng hàng loạt các hình ảnh “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để tái hiện lại thực tại cuộc sống của Thúy Kiều. Không còn là Thúy Kiều với dáng vẻ e ấp, thẹn thùng với sự trong trắng nữa mà giờ đây nàng trở thành món hàng, trở thành đồ vật mua vui, bị chà đạp một cách phũ phàng và tàn nhẫn. Thêm vào đó, tác giả còn sử dụng hàng loạt các từ mang sắc thái câu hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” như thêm một lần nữa nhẫn mạnh nỗi đau đớn đến tột cùng, sự chán chường, mệt mỏi, ghê sợ chính bản thân mình khi bị đẩy vào chốn lầu xanh. Không chỉ nhận thức rõ hoàn cảnh, số phận của mình ở quá khứ và hiện tại, Kiều còn nhận thức rõ sự đối lập giữa ta và người.

Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?

Hai câu thơ đã diễn tả thái độ đầy dứt khoát của Thúy Kiều, từ đó đã tạo ra đối với những vị khách làng chơi phong lưu. Còn với chính mình, Thúy Kiều vẫn luôn sống trong sự cô độc. Từ “xuân” trong câu thơ không chỉ là tuổi trẻ, là sắc đẹp mà đó còn là tình yêu, là hạnh phúc lứa đôi. Giờ đây, trong cuộc sống hiện tại của chính mình, những điều đó đối với Kiều là những thứ xa xôi, không nghĩ tới mà trong nàng chỉ còn lại nỗi bẽ bàng, ê chề và tủi hổ.

Trước hiện thực cuộc sống nơi chốn lầu xanh, Thúy Kiều cố tách mình ra khỏi thực tại để giữ lại phẩm giá, nhân cách cho chính mình.

Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu tho
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.

Nơi lầu xanh, cảnh vật cũng có đủ những nét đặc trưng của thiên nhiên bốn mùa: mùa xuân có hoa, mùa hè có gió, mùa thu có ánh trăng vàng, mùa đông có làn tuyết trắng. Ở nơi đây, cũng có đủ cầm, kì, thi, họa – những thú vui trong đời sống của con người. Nhưng hơn ai hết, Thúy Kiều nhận thấy rõ cái thanh cao, tao nhã, đẹp đẽ ấy chỉ là cái dáng vẻ bên ngoài còn ẩn sâu trong đó chính là sự nhơ nhớp, là những thú vui tiêu khiển để giết chết thời gian. Nhận thức rõ điều đó, Kiều càng cảm thấy cô đơn, xót xa hơn và chính nỗi buồn ấy của nàng đã thấm sang cả cảnh vật. Để rồi, Kiều đã cố mình gượng gạo, tự mình cố gắng. Trong nỗi lòng Kiều như hiện lên sự đối lập giữa cái bên ngoài – cố vui để chiều lòng khách nhưng thực chất bên trong là nỗi buồn thương không gì diễn tả hết.

Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai.

Tâm trạng gượng gạo, sự chán chường và nỗi đau đớn của Kiều là biểu hiện rõ nét cho sự ý thức về nhân phẩm của nàng và qua đó cho thấy tâm hồn cao thượng, trong trắng của Thúy Kiều.

Đọc những câu thơ trong đoạn trích “Nỗi thương mình” của Đại thi hào Nguyễn Du, người đọc như càng thấm thía nỗi xót thương thân phận và sự đau đớn của Thúy Kiều khi phải sống giữa chốn lầu xanh. Nhưng đồng thời, đoạn trích cũng đã thể hiện được sự tự ý thức cao độ về nhân cách bản thân của Thúy Kiều.

Cảm nhận Nỗi thương mình – Mẫu 5

Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du, ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều – một thi phẩm xuất sắc mà để lại nhiều giá trị vô cùng to lớn. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là một phần của tác phẩm đã thể hiện tình cảnh trớ trêu của Kiều và nỗi niềm thương xót cho thân phận của nàng.

Sau khi Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha để tỏ chữ hiếu. Nhưng nàng không ngờ rằng Mã Giám Sinh là kẻ buôn người bán thịt, hắn đã làm nhục nàng và đem nàng cho Tú Bà. Tú Bà bắt Kiều vào lầu xanh để tiếp khách, nhưng nàng không chịu và tự tử không thành. Sau đó, Kiều bị giam lỏng và cũng thời gian này Tú Bà nghĩ ra cách hãm hại nàng, không ngờ nàng mắc mưu và một lần nữa bị ép phải làm gái lầu xanh. Đoạn trích này thể hiện tâm trạng của Kiều khi sống ở lầu xanh lúc đó.

Bốn câu thơ đầu đã gợi hoàn cảnh sống của Kiều ở chốn lầu xanh:

” Biết sao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Qua những câu thơ, ta thấy cảnh sinh hoạt của chốn lầu xanh vô cùng nhộn nhịp, ồn ào. Tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ quen thuộc trong văn học trung đại, dùng những hình ảnh ẩn dụ vô cùng đẹp và thị vị hóa hiện thực ở chốn dơ bẩn này. Cụm từ “bướm lả ong lơi” là một cách nói đầy sáng tạo của đại thi hào Nguyễn Du. Bướm ong ở đây là chỉ những kẻ ham mê sắc tửu. Tác giả đã rất tài tình khi thiết lập hai từ ghép “ong bướm” và “lả lơi” thành “bướm lả ong lơi” để khắc họa hình ảnh của những kẻ khách làng chơi ra vào lầu xanh vô cùng nhộn nhịp và những cô gái tiếp khách bốn phương “lá gió cành chim”. Tiếp theo là những câu thơ đối xứng: “Cuộc say đầy tháng/ trận cười suốt đêm” và “Sớm đưa Tống Ngọc/ tối tìm Trường Khanh” để ám chỉ những kẻ khách chơi phong lưu tới chốn này. Chỉ với bốn câu thơ, ta có thể hình dung được hoàn cảnh của Kiều hiện giờ thật tủi nhục. Hoàn cảnh ngoài thì vậy còn tâm trạng nàng thì sao?

bai van cam nhan ve doan trich noi thuong minh

Những câu thơ tiếp theo đã cho ta hiểu rõ hơn về tâm trạng của Kiều thương xót cho chính bản thân mình:

” Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì.”

Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để bộc lộ tâm trạng trực tiếp của Kiều “Giật mình mình lại thương mình xót xa”. Khi Thúy Kiều tỉnh rượu, nàng giật mình xót xa cho thân phận kĩ nữ của mình. Nàng cảm thấy cô đơn, bẽ bàng vô cùng. Nhịp thơ 3/3 đã tạo nên thời gian từ từ trôi chậm đến não nề. Bốn câu thơ tiếp theo cũng chính là bốn câu hỏi tư từ để hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao”. Bốn câu hỏi ấy diễn tả nỗi đau chồng chất nỗi đau của Kiều về quá khứ êm đềm ngày xưa khi được sống với gia đình, với tình yêu của Kim Trọng. Nhưng rồi khi nàng quay trở về thực tại lại là chỉ có sự tủi hổ, phũ phàng. Thực trạng ấy như nỗi đau đè nặng lên quá khứ êm đềm, tươi đẹp ấy năm nào. Nàng vẫn cố tách mình ra khỏi thực tại này:

” Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?

Câu thơ đã diễn đạt được thái độ dứt khoát chối từ của Kiều tạo sự đối lập gay gắt với đám người khách làng chơi. Còn “mình” lại chỉ số ít để thể hiện sự cô độc của Thúy Kiều. “Xuân” ở đây không những chỉ mùa xuân hay tuổi trẻ mà còn chỉ hạnh phúc, niềm vui hưởng hạnh phúc lứa đôi. Cuộc sống của Kiều ở chốn lầu xanh không khác gì làm vợ khắp thiên hạ khiến cho nàng cảm thấy bẽ bàng, nhục nhã vô cùng.

Tám câu thơ cuối cùng, Kiều cố tách mình ra khỏi thực tại, cuộc sống này để giữ lại phẩm giá cho mình. Dù thể xác của nàng có bị đày đọa, vấy bẩn nhưng nàng vẫn cố gắng giữ gìn sự trinh bạch của mình. Nàng để linh hồn của mình tránh xa chỗ thấp hèn, xấu xa này:

” Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thau”

Hình ảnh “gió tựa hoa kề” để chỉ sự lả lơi của khách làng chơi và kĩ nữ ngồi cạnh bên nhau. Là người đang phải làm công việc bẩn thỉu ấy, Kiều cảm thấy buồn vô hạn. Câu thơ sử dụng ước lệ để toát lên một nỗi buồn mênh mang trong Kiều. Hình ảnh “trăng” “tuyết” xóa một màu lạnh lẽo với không gian vắng lặng. Nỗi buồn của Kiều đã lan tỏa thấu vào cảnh vật:

” Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Nỗi buồn của Kiều đã khiến cho cảnh cũng buồn theo. Nỗi buồn ấy hòa với gió, với hoa, với tuyết và trăng sáng. Kiều phải chiều lòng khách làng chơi của chốn này từ vẽ tranh, làm thơ, gảy đàn, chơi cờ:

” Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”

Nhưng tất cả chỉ là “vui gượng kẻo là” chứ không phải niềm vui thật, nó là niềm vui gắng gượng, giả tạo. Không hề mặn mà vì không có tri âm, tri kỉ, nàng cảm thấy cô đơn vô cùng trong thế giới này. Hai câu thơ cuối cũng chính là tiếng nói của những người có tài, có tâm nhưng lại phải sống trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh do cuộc đời xô đẩy.

“Nỗi thương mình” của Nguyễn Du đã thể hiện tâm trạng bẽ bàng, đau đớn, tủi nhục của Thúy Kiều khi bị phải làm kĩ nữ ở lầu xanh. Nàng cảm thấy thương xót cho chính thân phận mình nhưng trong nàng vẫn giữ được nhân cách cao đẹp. Đọc những vần thơ, người đọc cảm thấy thương xót cho nhân phẩm trong trắng của người con gái “nghiêng nước nghiêng thành” đồng thời cũng thể hiện thái độ căm phẫn trước xã hội bất công.

Cảm nhận Nỗi thương mình – Mẫu 6

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm xuất sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Truyện viết về cuộc đời và mười lăm lưu lạc đầy gian truân của Thúy Kiều – một người con gái xinh đẹp tài hoa nhưng bạc mệnh. Trong các đoạn trích nổi bật của “Truyện Kiều”, đoạn trích “Nỗi thương mình” là một đoạn trích đặc sắc nhất. Nó đã khắc họa rõ nét tâm trạng đau đớn, nhục nhã, đầy ê chề của nàng Thúy Kiều khi bị lừa bán vào lầu xanh, trải qua cuộc sống ô nhục và tủi hờn.

Sau khi phải buộc bán mình lấy bốn trăm lạng vàng cứu cha và em, Thúy Kiều lại bị lừa bán vào lầu xanh, sống cuộc đời của người ca kĩ, buôn phấn bán hương. Quá ê chề, tủi nhục, nàng đã quyết định tự tử mà không thành. Tiếp đó, nàng lại rơi vào bẫy của Tú Bà và Sở Khanh khi nhẹ dạ tin lời tên Sở Khanh chạy trốn cùng hắn. Nàng bị bắt trở lại, bị đánh đập và bị bắt tiếp khách. Đoạn thơ là nỗi lòng của Kiều, là tâm trạng ê chề, đau khổ khi buộc phải trở thành một kĩ nữ lầu xanh. Tâm trạng ấy dưới ngòi bút đặc sắc của Nguyễn Du đã hiện lên đầy đau xót gieo vào lòng người đọc nỗi xót thương vô bờ dành cho nàng Kiều bạc mệnh.

Sinh trưởng trong một gia đình nề nếp, lễ giáo, nàng đã được dạy dỗ trở thành một tiểu thư đài các, yêu kiều, bỏ ngoài tai những “tường đông ong bướm đi về mặc ai”. Thế nhưng hoàn cảnh xô đẩy, xã hội bức ép khiến nàng trở thành một kĩ nữ lầu xanh. Với sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” cùng tài năng “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương” và trí thông minh, nàng đã khiến bao kẻ là khách của lầu Ngưng Bích phải khâm phục, mến mộ. Có lẽ đó vì vậy những cuộc chơi mà khách làng chơi tìm tới nàng mua vui cơ hồ không thể dứt ra:

“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.

Bốn câu thơ là cảnh miêu tả cuộc sống ở chốn thanh lâu. Cảnh đến đi tấp nập của những khách làng chơi tới viếng thăm nơi đây cùng những cuộc vui tưởng chừng như liên miên, xuyên suốt, không bao giờ chấm dứt, không có bất cứ phút giây nghỉ ngơi nào “Cuộc say suốt tháng, trận cười suốt đêm”. Những cuộc vui chơi, say sưa xô bồ ấy cứ liên tiếp liên tiếp trong chốn lầu xanh này. Nó đã khiến cho chuỗi ngày đau khổ của Kiều cũng trở lên liên miên, khiến nàng chẳng còn biết đến ngày tháng. Cuộc sống với nàng là những tháng ngày vô nghĩa khi mà cuộc sống đó chỉ là những cuộc mua vui kéo dài, sớm là “Tống Ngọc”, tối lại tìm đến “Trường Khanh”. Chỉ bằng bốn câu thơ với bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã khái quát một cách chân thực nhất cảnh tượng nhộn nhịp, ồn ào, sự trác táng, phóng túng nơi lầu xanh với những cô kĩ nữ lả lướt đón khách tới rồi lại đưa khách về. Cùng với đó là những trận say sưa, những tiếng cười khả ố của những kẻ phóng đãng, nó càng tô đậm hơn thân phận bẽ bàng của Kiều, cuộc sống ê chề tủi nhục của nàng.

Trái với những cuộc vui, những tiếng cười nơi lầu xanh ấy, tâm trạng của Kiều lại là nỗi thương mình, niềm đau xót.

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân!
Mặc người mưa Sở, mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì?”

Sau những cuộc vui thú của những kẻ trác táng ấy, mỗi lúc đêm về “lúc canh tàn”, nàng Kiều lại bần thần “giật mình mình lại thương mình xót xa”. Trong không gian đã vắng những cuộc vui thú, lầu xanh đã trở lại với dáng vẻ cô liệu, đó là những khoảnh khắc hiếm hoi Kiều được ngồi lại và suy ngẫm, đối diện với chính mình. Và trong khoảnh khắc ấy, nàng giật mình nhận ra sự đau đớn, tủi nhục, sự cô đơn của mình trong cuộc sống nhớp nháp bùn đen này. Đến lúc này đây, nàng mới thực sự ý thực sâu sắc được nhân phẩm của mình đã bị chà đạp đau đớn tới mức nào. Kiều “giật mình” bàng hoàng nhận ra nỗi đau ấy và nàng chợt thấy “thương mình xót xa” khi chính mình phải chịu cảnh dày vò, sống cuộc sống không trong sạch này. Niềm xót thương thân ấy của nàng chính là sự ý thức về nhân cách, phẩm giá của mình, ý thức được quyền được sống, được hạnh phúc của bản thân. Những giọt nước mắt thương thân của nàng thấm tận vào trong gan ruột dày vò nàng đầy đau đớn. Ba từ “mình” được lặp lại chỉ trong một câu, người ta mới thấy hết được sự cô đơn của nàng, tiếng nấc nghẹn ngào của nàng xen lẫn tiếng thở dài thương thân phận. Nỗi đau ấy chẳng ai có thể chia sẻ cùng Kiều.

cam nhan noi thuong minh trich truyen kieu cua nguyen du

Thế rồi trong nỗi xót thương thân phận ấy, nàng nhớ lại những ngày xưa khi còn được sống trong êm ấm gia đình. Nếu như khi xưa được sống trong “phong gấm rủ là”, được ấm êm, no đủ, hạnh phúc, bình yên thì giờ đây cuộc sống của nàng “tan tác như hoa giữa đàng”. Cuộc sống ấy đã bị chà đạp, bị vùi dập không ai thương tiếc. Những cặp từ đối xứng song song “khi sao – giờ sao” đã tô đậm thêm cuộc sống đầy tủi nhục mà nàng đang phải chịu đựng cùng với tâm trạng chán chường mệt mỏi, ghê sợ chính bản thân mình. Thế nhưng, dù chán chường đến mức ghê sợ bản thân, Kiều vẫn không buông mình xuôi theo số phận, nàng vẫn ý thức được nỗi đau mình phải gánh chịu, ý thức được niềm xót thương ấy mà tự thương lấy chính bản thân mình. Một loạt từ để hỏi “khi sao”,  “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” như là lời tự chất vấn, kết án bản thân mình đã không còn trong sạch. Nàng căm giận số phận đã thay đổi cuộc đời của nàng, biến đổi giá trị con người nàng. Còn gì đau đớn, cô đơn hơn khi biết nhân phẩm của mình bị chà đạp mà không cách gì thoát ra khỏi? Cuối cùng nàng chẳng biết đến khi nào mình mới có thể có được hạnh phúc – “xuân” hay chỉ mãi sống trong cảnh cô đơn, nhục nhã, lẻ loi của người kĩ nữ mua vui?

Những câu thơ cuối là nỗi buồn bẽ bàng, là bi kịch tâm trạng của Kiều.

“Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu”.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa”

Nếu như bên ngoài cảnh vật ảo diệu bốn mùa tươi đẹp, có “gió tựa”, “hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu” thì ở trong đây, Kiều chẳng khỏi chạnh lòng buồn bã. Cảnh đẹp là vậy nhưng nàng nào đâu để ý, nàng thờ ơ trước cái đẹp của thiên nhiên. Ở đây Nguyễn Du đã khái quát quy luật tâm lý con người, nếu con người đang ở trong tâm trạng đau khổ thì cảnh vật xung quanh có đẹp đến nhường nào cũng không có tâm trạng để ý và quan sát.

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!

Những thú vui tao nhã “vẽ câu thơ”, “cung cầm”, … đối với Kiều chỉ là những điều gượng gạo, chẳng có chút ý nghĩa gì. Tất cả những niềm vui nàng có được ở nơi đây chỉ là những gượng gạo “vui gượng kẻo là”, nàng hiểu cuộc sống bế tắc không lối thoát của mình, sự cô đơn, lạc lõng “ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã tái hiện được tâm trạng gượng gạo, chán chường, cô đơn của Thúy Kiều trong chốn lầu xanh, đồng thời ông cũng chỉ ra sự ý thức về nhân phẩm cũng như phẩm chất tốt đẹp của nàng. Chỉ bằng một đoạn trích ngắn ngủi, nhưng ta có thể thấy được ẩn chứa trong đó biết bao nhiêu là nỗi lòng của nhân vật Kiều. Đó là sự đau xót, ê chề khi nhân phẩm bị chà đạp, thương bản thân mình phải chịu cảnh sống ô nhục chốn lầu xanh, là ý thức về nhân phẩm của mình, ý thức khát khao cuộc sống bình yên, hạnh phúc như bao người khác. Qua số phận của Kiều, người ta thấy rõ sự phê phán của Nguyễn Du dành cho chế độ phong kiến đương thời khi chính cái xã hội ấy vì đồng tiền đã đẩy đưa con người vào đau khổ.

Đoạn trích “Nỗi thương mình” đã không chỉ làm nổi bật lên số phận đau khổ, bi thương của Kiều mà còn làm nổi bật cả tài năng của Nguyễn Du nữa. Bằng bút pháp của mình, ông đã cho người đọc thấy rõ số phận đau thương của Kiều đồng thời phản ánh, lên án chế độ phong kiến đã cướp đi quyền sống của con người trong xã hội đương thời.

Rất nhiều người đọc đã lên án Kiều, nói Kiều đã bị ô uế, không còn trong sạch nhưng Nguyễn Du đồng cảm với Kiều, ca ngợi Kiều rằng “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Đại thi hào Nguyễn Du viết nên kiệt tác Truyện Kiều giống như đã đóng góp viên ngọc sáng trong nền văn học Việt Nam. Lật dở từng trang truyện Kiều giống như từng chặng đường đời của người con gái “hồng nhan bạc mệnh” thân phận chịu nhiều đau thương, mất mát. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là đoạn trích bi ai nhất về nàng Kiều khiến người đọc không khỏi xót xa.

“Nỗi thương mình” kể về chuỗi ngày nhiều đau đớn và nước mắt của Thúy Kiều khi cuộc đời bị đẩy vào chốn lầu xanh bị đè ép dưới tay của mụ Tú Bà ghê tởm. Cuộc đời nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. Nguyễn Du như xé lòng khi kể từng trang viết về cuộc đời Thúy Kiều, câu mở đầu như vén bức màn u tối mà Kiều đang phải sống những tháng ngày ô nhục trong đó:

“Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Khổ thơ mở ra những hình ảnh về chốn ăn chơi, lả lơi ong bướm thể hiện đây là chốn phong lưu, đưa tình, một nơi không có chỗ cho tình yêu thật sự mà chỉ là chốn rong chơi, mua bán nụ cười giả tạo. Một chốn đưa người cửa trước rước người cửa sau của những cô gái làng chơi.Những hình ảnh ước lệ “Cuộc chơi” “ong bướm” “dập dìu”, khiến cho người đọc cảm nhận được sự nhộn nhịp, của chốn mua vui. Một nơi kinh doanh thân thể phụ nữ.

Mười hai câu thơ tiếp theo nói về tâm trạng, nỗi lòng trong những tháng ngày làm kỹ nữ ở chốn làu xanh. Nguyễn Du đã thể hiện thật thần tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đố diện với chính lòng mình:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Sống trong cảnh “Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm” thì chỉ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính lòng mình. Lúc khách làng chơi ra về hết, đêm rất khuya chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong. Ở câu thơ thứ nhất, nhịp thơ 3/3 như gợi lên từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa của người con gái đang lênh đênh lưu lạc nơi đất khách.

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường”

Quá khứ đối lập với hiện tại một cách khốc liệt. Trước kia, Thúy Kiều được nâng niu, quý trọng bao nhiêu thì giờ đây nàng lại bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Ở hai câu thơ này đã có: “khi sao”, “giờ sao”, tiếp theo sau nó lại viết: “mặt sao”, “thân sao”, lời cảm thán cất lên tê buốt, như những nhát dao cứ cứa sâu vào tim gan vô cùng đau đớn:

“Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Các biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ (gió, sương, bướm, ong) và thủ pháp phân hợp từ ngữ: “dày gió dạn sương”, bướm chán ong chường” đã được tác giả sử dụng để cực tả nỗi tủi nhục của một người con gái tài sắc vẹn toàn bị đẩy vào vũng bùn hôi tanh nhơ nhớp. Lúc nào Kiều cũng tự ý thức về nhân phẩm của mình. Các từ ngữ “mặc người”, “nào biết” đã thể hiện rõ ý thức ấy:

“Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì?”

Trong chốn lầu xanh đó, cuộc sống của nàng Kiều không hề thiếu thốn điều gì. Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh. Chốn lầu xanh dơ bẩn kia không chỉ có phong, hoa, tuyết, nguyệt, mà còn có cầm, kì, thi, họa, là môn nghệ thuật mà nàng Kiều say mê.

“Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngân bốn bề trăng thâu

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa”

Trong chốn hồng trần ăn chơi sa đọa này Thúy Kiều không có người tâm sự không có bạn tri kỷ. Nên nàng chỉ biết bầu bạn với thơ ca, đàn nhị. Nhưng những tiếng đàn dường như ai oán hơn, những vần thơ đẫm nước mắt khiến cho nàng cảm thấy mình sống đây mà như đã chết lâu rồi. Trong những câu thơ này tác giả đã sử dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để khắc họa tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.

“Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai”

Niềm vui của nàng chỉ là niềm vui của sự gượng cười mà thôi còn tâm hồn nàng đã chết từ lâu rồi. Trong trích đoạn này tác giả Nguyễn Du đã khiến cho người đọc cảm thấy rưng rưng lệ, cảm thương cho số phận của nàng Kiều khi sống những ngày sống nhơ nhuốc, vẩn đục ở chốn lầu xanh, phải mua vui cho những người đàn ông xa lạ.

Cảm nhận Nỗi thương mình – Mẫu 7

Trong văn học Việt Nam, đặc biệt là với giai đoạn văn học trung đại, số phận người phụ nữ được rất nhiều tác giả đề cập đến: Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Nguyễn Dữ,… Nhưng xuất sắc nhất phải kể đến là Nguyễn Du với kiệt tác “Truyện Kiều”. Tác phẩm đã khắc họa rõ nét thân phận nhỏ bé, đáng thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là một trong những phân đoạn thể hiện sâu sắc nhất cuộc đời đau khổ của nàng Kiều tài hoa bạc mệnh.

Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ – gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan. Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm đầy đau đớn. Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngỗn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi nàng sánh với quá khứ. Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:

“Biết bao bướm lả ong lơi,

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh, nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra.

“Khi tỉnh rượu lúc canh tàn

Giật mình, mình lại thương mình xót xa”

Trong không gian của chốn ăn chơi đàng điếm này Thúy Kiều cảm thấy xót xa cho thân phận của mình nàng là người xuất thân con gái nhà lành, được cha mẹ cho ăn học đàng hoàng, bản chất lương thiện hiền lương, có đức hạnh, hiếu nghĩa. Có lẽ nằm mơ Thúy Kiều cũng không bao giờ nghĩ sẽ có ngày mình lại lưu lạc phải sống kiếp phong trần của gái giang hồ như thế này. Bị bao nhiêu người con trai chà đạp, bị vần vò cả về thể xác lẫn tâm hồn.

Thúy Kiều sống mà phải mang nụ cười giả tạo, tiếng đàn để mua vui cho những gã đàn ông đốn mạt trốn vợ con đi tìm thú vui hưởng lạc, hoặc những tay công tử ăn chơi lắm tiền nhiều của nhưng ngu si hống hách, chỉ biết tiêu tiền của bố mẹ. Trong không khí như vậy Thúy Kiều chỉ biết mượn rượu giải sầu. Nàng muốn uống cho quên đi tất cả quên ngày tháng, quên thời gian, quên đi cha mẹ già ở quê nhà, quên chàng Kim Trọng mà nàng đã hứa trọn tình bên nhau.

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bất thân

Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì?”

Không có ai hiểu nàng, không có ai xót xa cho thân phận của nàng nên Thúy Kiều tự mình thương mình. Nàng cảm thấy mình thật bất hạnh. Những cuộc vui chốc lát nhanh chóng tàn nhanh, rồi người cũng đi, chỉ còn lại sự quạnh quẽ cô liêu, chỉ còn nàng trong sự ủ ê chán chường. Một xã hội đầy bất công, nhơ nhuốc đã cướp đi hạnh phúc bình dị của một người con gái hiền lương đẩy nàng tới chốn này để rồi bị sống cảnh đời “vùi hoa dập liễu” cả thân xác và tâm hồn.

“Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèn tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”

Phong cảnh mang màu tâm cảnh. Cảnh mang tình người. Nàng cảm thấy đau khổ, tê tái vì thấy nhục nhã ê chề khiến cho mọi cảnh vật đều nhuốm màu đau thương như nàng đang chịu đựng. Bất kẻ lúc nào, dấu đắng cay hay sung túc, nàng vẫn luôn ý thức được nhân phẩm của bản thân.

Giữa chốn lầu xanh, Kiều vẫn cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Nàng không thể tìm lấy cho riêng mình một người tri âm, tri kỉ để tâm sự. Trong mọi cuộc vui, nàng chỉ có thể “vui gượng”:

“Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Dẫu sống trong cảnh lầu xanh nhơ bẩn, Kiều vẫn giữ cho mình những phẩm chất cao quý của người con gái: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Bơi thê, người đọc càng thấy thương cảm và trân trọng nàng.

Như vậy chỉ với mấy câu thơ nhưng Nguyễn Du như nén hết cảm xúc trong đó để xót xa cùng thân phận cuộc đời của nàng Kiều bạc mệnh. Đây là nhân vật đã lấy đi bao nước mắt của tác giả cũng như người đọc. Vẫn chủ đề quen thuộc vẫn là những số phận nhỏ bé của người phụ nữ nhưng đến Nguyễn Du ông đã dùng cây bút của mình viết nên vần thơ tựa như lời bộc bạch thấm thía, sâu sắc vô cùng. Dường như hình ảnh Thúy Kiều hiện thân cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được đặc tả tinh tế nhất. Nỗi thương mình là nền tảng của lòng thương người, ông tự thương lấy chính cuộc đời ông và đồng cảm với nàng Kiều sống giữa chốn bụi trần đầy rẫy những lưỡi dao cắt xé lòng.

Cảm nhận Nỗi thương mình – Mẫu 8

Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em, đồng thời gửi lại mối duyên của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, những tưởng bấy nhiêu sự hy sinh ấy của Kiều đã là đến tột cùng, thế nhưng phận đời éo le, thích trêu đùa kiếp hồng nhan bạc mệnh. Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng Bích, trở thành kỹ nữ, khiến cuộc đời nàng thật sự đi vào bi kịch kinh hoàng. Sau lần tự tử và bỏ trốn không thành Kiều bị Tú Bà buộc phải tiếp khách, dần trở thành người kỹ nữ phong trần trong nỗi xót xa và tủi nhục khôn cùng.

Số phận nổi trôi của nàng Kiều khiến độc giả không khỏi thương cảm, đớn đau đúng với câu “Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Mà ở đây hơn ai hết Thúy Kiều chính là người ý thức được rõ nhất cảnh ngộ éo le của kiếp kỹ nữ trong đoạn trích Nỗi thương mình.

“Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Những ẩn dụ như bướm lả, ong lơi, lá gió, cành chim, hình ảnh cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh, hai vị khách phong lưu nổi tiếng đã khắc họa được cảnh sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tì ra ấy, nổi bật lên hình ảnh một nàng Kiều cô đơn, buồn tủi.

Các hình thức đối xứng trong câu như bướm lả – ong lơi, lá gió – cành chim được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm tô đậm nỗi thương thân, xót phận của Thúy Kiều và gây cảm giác đau đớn. Xót xa thực sự cho người đọc. Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp chốn thanh lâu vừa ẩn chứa tiếng thở dài não ruột của người con gái tài sắc buộc phải làm kĩ nữ. Tác giả xót thương Thúy Kiều rơi vào chốn bùn nhơ, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó, Thúy Kiều đã ý thức rất rõ về nhân phẩm cao quý của mình.

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Vẫn không gian lầu xanh của Tú bà nhưng thời gian đã là “lúc tàn canh”- đêm khuya, thời khắc hiếm hoi, quí giá để con người mình được đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình. Tỉnh rượu, tàn canh là lúc con người sống thật với lòng mình nhất, tự thức về những hành động của mình, ý thức về những điều chua chát, đắng cay của bản thân mình. Và một khi đã ý thức được những hành động của mình thì đó cũng là lúc nhân phẩm của con người trỗi dậy, là nhân phẩm, bản chất tốt đẹp của nàng Kiều. “Giật mình mình lại thương mình xót xa”, ba chữ “mình” trong một câu thơ gợi ra tất cả sự cô độc của thân phận. “Giật mình” như một sự bàng hoàng, thảng thốt đau đớn. “Giật mình” vì thấy ghê tởm cho cảnh sống hiện tại. “Giật mình” cho chính bản thân, một thiếu nữ khuê các nay rơi vào cảnh “bướm chán ong chường”, tấm thân vàng ngọc giờ đành để khách làng chơi giày vò. Vì thế mà bốn chữ “mình lại thương mình” chìm xuống, giọng thơ đầy thấm thía cô đơn xót xa. Bốn câu hỏi liên tiếp là nỗi niềm dằn vặt, tự đau, tự thương cự độ của “nỗi thương mình”:

“Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”

Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đến mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao/giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.

Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực tại phũ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây được Nguyễn Du sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phũ phàng, tàn nhẫn. Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả”:

“Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì?”

Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách làng chơi (số nhiều) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ ”xuân” ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kĩ nữ mua vui. Từ ”mặc” ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.

Biểu hiện tại dày gió dạn sương nỗi buồn chán tăng lên gấp bội. Nói đến mặt là nói đến tâm hồn, thế mà giờ đây mặt trơ trơ. Nàng nhớ đến hành vi đã qua cay đắng tủi nhục khôn cùng chỉ khi tâm hồn chết theo thì Kiều mới sống được ở chốn lầu xanh này mà chi có thể quên đi những gì êm đềm tốt đẹp trước đây, một thời trướng phủ màn che quên đi bản thân mình thì Kiều mới có thể tồn tại được trong xã hội này. Như vậy sống trong cái xấu Kiều ý thức được cái xấu chứng tỏ lòng Kiều luôn hướng về cái tốt. Chạy trốn hiện thực không được Kiều đành lòng quay về với thực tại. Nguyễn Du miêu tả khung cảnh nơi Kiều sống:

“Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai”

Khung cảnh thiên nhiên nơi Kiều sống sang trọng tươi đẹp có đủ phong tuyết nguyệt hoa. Nơi Kiều sống có gió vi vu thổi có hoa đua nhau khoe sắc có trăng thu vằng vặc có tuyết giăng. Cảnh đẹp bốn mùa hội tụ nơi đây. Ở chốn thanh lâu còn có đủ các thú vui tao nhã như: Cầm kì thi họa. Các thú vui đó tô điểm cho bức tranh thêm sống động. Nhìn bề ngoài cứ tưởng đây là chốn Bồng Lai tiên cảnh. Tài của Nguyễn Du thể hiện ở việc dùng cảnh vật để diễn tả nội tâm của con người.

Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy sót xa cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.

Đoạn trích thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính cách của Thúy Kiều. Thể hiện tập trung tư tưởng nhân văn của tác giả: cảm thương trước bi kịch của Kiều, khẳng định nhân cách đẹp đẽ của nàng và khẳng định sự ý thức về nhân phẩm và sự ý thức cá nhân. Thể hiện nỗi thương mình của Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả – nhân vật – người đọc.

Cảm nhận Nỗi thương mình – Mẫu 9

Rất nhiều người đọc đã lên án Kiều, nói Kiều đã bị ô uế, không còn trong sạch nhưng Nguyễn Du đồng cảm với Kiều, ca ngợi Kiều rằng “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Đại thi hào Nguyễn Du viết nên kiệt tác Truyện Kiều giống như đã đóng góp viên ngọc sáng trong nền văn học Việt Nam. Lật dở từng trang truyện Kiều giống như từng chặng đường đời của người con gái “hồng nhan bạc mệnh” thân phận chịu nhiều đau thương, mất mát. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là đoạn trích bi ai nhất về nàng Kiều khiến người đọc không khỏi xót xa.

“Nỗi thương mình” kể về chuỗi ngày nhiều đau đớn và nước mắt của Thúy Kiều khi cuộc đời bị đẩy vào chốn lầu xanh bị đè ép dưới tay của mụ Tú Bà ghê tởm. Cuộc đời nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. Nguyễn Du như xé lòng khi kể từng trang viết về cuộc đời Thúy Kiều, câu mở đầu như vén bức màn u tối mà Kiều đang phải sống những tháng ngày ô nhục trong đó:

“Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Khổ thơ mở ra những hình ảnh về chốn ăn chơi, lả lơi ong bướm thể hiện đây là chốn phong lưu, đưa tình, một nơi không có chỗ cho tình yêu thật sự mà chỉ là chốn rong chơi, mua bán nụ cười giả tạo. Một chốn đưa người cửa trước rước người cửa sau của những cô gái làng chơi.Những hình ảnh ước lệ “Cuộc chơi” “ong bướm” “dập dìu”, khiến cho người đọc cảm nhận được sự nhộn nhịp, của chốn mua vui. Một nơi kinh doanh thân thể phụ nữ.

Mười hai câu thơ tiếp theo nói về tâm trạng, nỗi lòng trong những tháng ngày làm kỹ nữ ở chốn làu xanh. Nguyễn Du đã thể hiện thật thần tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đố diện với chính lòng mình:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Sống trong cảnh “Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm” thì chỉ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính lòng mình. Lúc khách làng chơi ra về hết, đêm rất khuya chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong. Ở câu thơ thứ nhất, nhịp thơ 3/3 như gợi lên từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa của người con gái đang lênh đênh lưu lạc nơi đất khách.

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường”

Quá khứ đối lập với hiện tại một cách khốc liệt. Trước kia, Thúy Kiều được nâng niu, quý trọng bao nhiêu thì giờ đây nàng lại bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Ở hai câu thơ này đã có: “khi sao”, “giờ sao”, tiếp theo sau nó lại viết: “mặt sao”, “thân sao”, lời cảm thán cất lên tê buốt, như những nhát dao cứ cứa sâu vào tim gan vô cùng đau đớn:

“Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Các biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ (gió, sương, bướm, ong) và thủ pháp phân hợp từ ngữ: “dày gió dạn sương”, bướm chán ong chường” đã được tác giả sử dụng để cực tả nỗi tủi nhục của một người con gái tài sắc vẹn toàn bị đẩy vào vũng bùn hôi tanh nhơ nhớp. Lúc nào Kiều cũng tự ý thức về nhân phẩm của mình. Các từ ngữ “mặc người”, “nào biết” đã thể hiện rõ ý thức ấy:

“Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì?”

Trong chốn lầu xanh đó, cuộc sống của nàng Kiều không hề thiếu thốn điều gì. Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh. Chốn lầu xanh dơ bẩn kia không chỉ có phong, hoa, tuyết, nguyệt, mà còn có cầm, kì, thi, họa, là môn nghệ thuật mà nàng Kiều say mê.

“Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngân bốn bề trăng thâu

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa”

Trong chốn hồng trần ăn chơi sa đọa này Thúy Kiều không có người tâm sự không có bạn tri kỷ. Nên nàng chỉ biết bầu bạn với thơ ca, đàn nhị. Nhưng những tiếng đàn dường như ai oán hơn, những vần thơ đẫm nước mắt khiến cho nàng cảm thấy mình sống đây mà như đã chết lâu rồi. Trong những câu thơ này tác giả đã sử dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để khắc họa tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.

“Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai”

Niềm vui của nàng chỉ là niềm vui của sự gượng cười mà thôi còn tâm hồn nàng đã chết từ lâu rồi. Trong trích đoạn này tác giả Nguyễn Du đã khiến cho người đọc cảm thấy rưng rưng lệ, cảm thương cho số phận của nàng Kiều khi sống những ngày sống nhơ nhuốc, vẩn đục ở chốn lầu xanh, phải mua vui cho những người đàn ông xa lạ.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “nêu cảm nhận về đoạn Nỗi thương mình” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 10/2024!