Đã từng có người nhận xét rằng Bình Ngô Đại Cáo là là một bản Thiên cổ Hùng văn. Mời các bạn hay theo chúng tôi phân tích tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo để làm sáng tỏ nhận định trên nhé!
I. Dàn Ý Phân Tích Để Làm Sáng Tỏ Nhận Định Bình Ngô Đại Cáo Là Áng Thiên Cổ Hùng Văn
1. Mở bài
– Nhắc đến những bản tuyên ngôn độc lập đầy hào hùng của dân tộc, không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
– Đây không chỉ là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc mà còn là áng thiên cổ hùng văn đặc sắc, giàu giá trị.
2. Thân bài
* Khái niệm “thiên cổ hùng văn”: Những bài văn cổ mang âm điệu hùng tráng, hào hùng viết về những vấn đề lớn trong lịch sử dân tộc, được lưu truyền hàng ngàn năm nay.
* “Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn” bởi:
– Nội dung bài cáo là bản tổng kết, bố cáo thiên hạ về chiến thắng của vua tôi nhà Lê.
– Lời tuyên bố độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam.
– Khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền của nhân dân ta trước kẻ thù xâm lăng.
– Nghệ thuật bài cáo…(Còn tiếp)
II. Phân Tích Để Làm Sáng Tỏ Nhận Định Bình Ngô Đại Cáo Là Áng Thiên Cổ Hùng Văn
1. Phân tích để làm sáng tỏ nhận định Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn, mẫu số 1:
Nhắc đến những bản tuyên ngôn độc lập đầy hào hùng của dân tộc, chúng ta không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Tác phẩm không chỉ được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc mà còn là áng thiên cổ hùng văn vô cùng đặc sắc, giàu giá trị trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng.
Trước hết, ta cần hiểu “thiên cổ hùng văn” là những bài văn cổ mang âm điệu hùng tráng, hào hùng có nội dung viết về những vấn đề lớn trong lịch sử dân tộc đã được lưu truyền từ ngàn đời nay. Nói Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn bởi nội dung bài cáo là bản tổng kết, bố cáo thiên hạ về chiến thắng của vua tôi nhà Lê trước giặc Minh tàn ác, lời khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền của quân dân ta trước kẻ thù xâm lăng. Không chỉ vậy, Đại cáo bình Ngô là áng văn được kết tinh dưới ngòi bút chính luận trữ tình của Nguyễn Trãi với lời văn biền ngẫu cùng sự thay đổi giọng điệu linh hoạt, các biện pháp tu từ nghệ thuật và hệ thống từ ngữ được chọn lọc vô cùng nhuần nhuyễn,… đã tạo nên vẻ trầm hùng trong cách thể hiện của bài cáo.
Thật vậy, bài Bình Ngô đại cáo chính là bài văn tổng kết lại một cách ngắn gọn nhất cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do chủ tướng Lê Lợi lãnh đạo, xuyên suốt tác phẩm là niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc. Đầu tiên, Bình Ngô đại cáo đã khẳng định nhân nghĩa chính là lí tưởng xuyên suốt cuộc khởi nghĩa và lời khẳng định Việt Nam là dân tộc có nền văn hiến lâu đời:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Mỗi câu thơ vang lên đều ẩn chứa trong đó niềm tự hào, lời khẳng định chắc nịch về tư tưởng nhân nghĩa gắn với việc yên dân trừ bạo. Bên cạnh việc khẳng định nhân nghĩa chính là mang lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân, vì nhân dân, tác giả còn khẳng định các yếu tố xác định chủ quyền dân tộc: Nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, triều đại riêng và “hào kiệt đời nào cũng có”. Nguyễn Trãi còn đặt Đại Việt trong thế đối sánh ngang hàng với các quốc gia phong kiến lớn ở phương Bắc. Điều này cũng đã thể hiện sự tự ý thức về tồn tại độc lập, chủ quyền của dân tộc vừa thể hiện niềm tự hào đối với truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của nhân dân.
Tiếp sau những lời văn chứa chan niềm xúc động, tự hào trước trang lịch sử vẻ vang của dân tộc là lời tố cáo đầy đanh thép của tác giả trước tội ác của giặc Minh:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tất cả những tội ác man rợ nhất của kẻ thù được Nguyễn Trãi gây ra đối với nhân dân ta, những hình ảnh “nướng dân đen, vùi con đỏ, gây binh kết oán…” đã cho thấy sự tàn ác của chúng nhằm hủy diệt đồng bào ta. Chúng không chỉ độc ác khi tra tấn về mặt thể xác, chém giết tàn sát dân ta một cách không thương tiếc mà chúng còn tham lam vô độ, ra sức cướp phá, vơ vét tài nguyên thiên nhiên của nước ta, đặt ra cho chúng ta những loại thuế khóa vô cùng nặng nề. Những tội ác của giặc Minh nhiều không kể xiết và gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đến kinh tế “tan tác cả nghề canh cửi”, môi trường tự nhiên “bắt chim trả”, “bẫy hươu đen”, “tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”, cuộc sống nhân dân thê thảm “nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng”… Bằng cách sử dụng hình ảnh “trúc Nam Sơn”, “nước Đông Hải” là những sự vật tự nhiên vô cùng, vô tận, tác giả đã khẳng định tội ác của lũ giặc cướp nước và bán nước là không thể kể xiết khiến cho trời đất không thể dung tha, thần nhân không thể chịu được. Đó cũng chính là lí do khiến chúng ta phải cầm vũ khí, đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.
Và diễn tiến quá trình cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cũng được Nguyễn Trãi thuật lại một cách đầy ngắn gọn qua những câu văn biền ngẫu dài ngắn khác nhau:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh
Lời xưng “Ta đây” là lời nhân danh của chủ tướng Lê Lợi khiến cho bài cáo như một lời tự bộc bạch hết sức chân thành của vị tướng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn về những ngày đầu cuộc khởi nghĩa, với những trằn trọc, lo lắng trước vận nước đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc, đau đớn trước cảnh giặc Minh hoành hành ngang ngược đang từng ngày tàn sát dân ta dã man, nỗi giận cứ thế dâng lên ngút trời,… Qua đây, ta cũng thấy được tấm lòng yêu nước thương dân, tâm tư, nỗi lòng sâu kín của Lê Lợi – linh hồn của cuộc chiến giành độc lập tự do cho nhân dân. Và cũng qua những dòng văn của Nguyễn Trãi, tất cả những gian khổ, thiếu thốn ban đầu của cuộc chiến cứ dần hiện rõ trước mắt người đọc:
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Sự đối lập giữa một bên là sự lớn mạnh của giặc với một bên là lực lượng yếu mỏng của ta khi tuấn kiệt ít ỏi “như sao buổi sớm”, nhân tài thiếu thốn như “lá mùa thu”; có khi thiếu thốn về lương thực, có khi lại bị bao vây,… tất cả những điều này đã cho thấy sự khó khăn, khổ cực của nhân dân ta trong những ngày đầu đánh giặc. Ấy vậy nhưng, vượt lên trên tất cả:
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Với sự đồng lòng của tướng lĩnh, nhân dân và ý chí quật cường, chiến lược đúng đắn cùng cự chỉ huy tài tình của vị tướng Lê Lợi, chúng ta vẫn vượt lên mọi khó khăn, dần xây dựng lực lượng vững mạnh làm nên những chiến thắng lịch sử, khiến cho giặc Minh phải sợ hãi. Trong bài cáo này, tác giả Nguyễn Trãi chỉ tập trung tường thuật lại ngắn gọn, súc tích một số trận chiến tiêu biểu trong những giai đoạn nhất định:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
(…)
Tất cả những địa danh, không khí trận chiến vô cùng ác liệt đã được Nguyễn Trãi nhắc lại một cách vô cùng ấn tượng. Bằng cách nói cường điệu, phóng đại, tác giả đã cho thấy sự thất bại nhục nhã ê chề của giặc và không khí thắng trận của ta qua hai trận chiến Ninh Kiều và Tốt Động. Dấu ấn của trận đánh Chi Lăng – Xương Giang cũng được tác giả dồn hết tâm huyết, tài năng để tường thuật cho người đọc:
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Quân giặc hung hãn cử hai tướng giặc giỏi nhất chỉ huy nhằm tạo thế gọng kìm, đè bẹp quân dân ta, vậy nhưng do có sự phòng bị, bày binh bố trận hợp lí, ta đã phá tan kế hoạch của chúng để giành thế chủ động, thừa thắng xông lên. Rồi sau đó là một loạt các chiến thắng khác được Nguyễn Trãi kể ra với giọng điệu vô cùng hăm hở, vui mừng, tự hào trước sự chiến đấu anh dũng của quân dân ta.
Đọc những câu văn miêu tả cảnh chiến trận, ta cũng như mường tượng ra được khung cảnh lúc bấy giờ với sự đối lập, tương phản tương đối rõ ràng giữa một bên là khí thế áp đảo của ta với tâm thế tự tin của người chiến thắng dâng cao với một bên là sự hèn nhát, nhụ nhã, ê chề của kẻ thù:
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờNếu như với chiến thắng, hào khí của ta, tác giả sử dụng giọng điệu tự hào hùng tráng thì đối với quân giặc, ông đặc biệt sử dụng giọng điệu khinh bỉ, châm biếm. Và giọng văn cứ thế đan xen, thay đổi một cách linh hoạt để đến cuối cùng, khi kết thúc bài cáo, Nguyễn Trãi chuyển sang giọng văn hiền hòa, chậm rãi, khoan thai:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Lời văn như chứa chan niềm vui mừng khôn xiết trước độc lập tự do của đất nước, là sự khẳng định nền độc lập chủ quyền đáng được hưởng của dân tộc Đại Việt đồng thời thể hiện niềm tin tưởng mãnh liệt trước sự thay da đổi thịt, sự lớn mạnh của đất nước.
2. Phân tích Bình Ngô đại cáo để làm sáng tỏ nhận định đây là áng Thiên cổ hùng văn, mẫu số 2:
Nguyễn Trãi – anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, đồng thời là nhà văn, nhà thơ kiệt xuất. Cuộc đời ông gắn liền với những sự kiện trọng đại như khởi nghĩa Lam Sơn, vụ án “Lệ Chi viên” đến nay vẫn còn là một uẩn khúc lớn trong lịch sử,… Đặc biệt, trong sự nghiệp sáng tác, ông đã để lại một tác phẩm được mệnh danh là “Bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc: Bình Ngô Đại cáo Có ý kiến cho rằng, đây là một áng “thiên cổ hùng văn”, khẳng định chân lý và sự thật hiển nhiên về vấn đề chủ quyền nước ta lúc bấy giờ bằng những lý lẽ và dẫn chứng vô cùng chặt chẽ và đầy tính thuyết phục.
Ra đời năm 1427, Bình Ngô Đại cáo là bài báo cáo được viết bởi Nguyễn Trãi, thay lời Bình Định vương Lê Lợi, tuyên cáo nhằm chấm dứt cuộc kháng chiến chống nhà Minh, giành độc lập cho nước Đại Việt. “Thiên cổ hùng văn” là áng văn chương hùng tráng lưu truyền muôn đời và có giá trị lịch sử tối quan trọng. Trong văn học Trung đại, đã có những áng văn cũng được viết bằng thể loại chính luận với mục đích trình tâu, báo cáo. Cho đến “Bình ngô Đại cáo”, được đánh giá là mang tính hùng tráng ở cả giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật. Sử dụng “cáo” – thể loại văn chương chính luận được dùng trong triều đình, mục đích để vua chúa công bố những quyết định, sự kiện trọng đại với toàn thể nhân dân, đòi hỏi lời lẽ sắc bén, dẫn chứng đầy đủ, hợp tình hợp lý, giàu sức thuyết phục. Trên cơ sở đó, xét về thực tế và lý thuyết, “Bình Ngô Đại cáo đáp ứng đủ tất cả mọi mặt khi có ý nghĩa mang tầm quốc gia, khẳng định chủ quyền của toàn dân tộc, chính thức đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi Đại Việt. “Bình Ngô” nghĩa là đuổi hết được giặc Trung Quốc, lúc bấy giờ là thời nhà Minh, sự kiện này được thông cáo cho toàn thể dân chúng biết, đồng thời chính thức xác nhận “Đại Việt” là quốc gia tự lực tự quyền. Như vậy, xét về dung lượng, đây là áng văn chính luận có quy mô lớn nhất từ trước đến thời Lê, xét về nội dung, đây là dấu mốc lịch sử quan trọng bậc nhất, xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”, áng văn chương oai hùng được trời đất chứng giám, lưu truyền cho con cháu muôn đời.
Bình Ngô Đại cáo là áng “thiên cổ hùng văn” về mặt tư tưởng. Tư tưởng nhân nghĩa luôn là nguồn cảm hứng cũng như kim chỉ nam vững chắc trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi. Thơ văn của ông luôn có tính nhân đạo, xét đến cùng cũng là để phục vụ nhân dân, nêu cao tinh thần con người, khát khao được dẹp loạn, bình trị thiên hạ, nhân dân được sống no đủ, yên bình:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nếu các bậc tiền bối đều lấy vua chúa, tướng lĩnh làm cốt lõi của những vấn đề chính trị, triều đình thì Nguyễn Trãi đã nhìn nhận ra vấn đề một cách khái quát, dám lên tiếng một cách dõng dạc và khảng khái, khẳng định giá trị của nhân dân trong công cuộc bình thiên hạ. “Việc nhân nghĩa” nằm ở chỗ nhân dân được thuận hòa, ấm no, nhân dân sống yên ổn ắt sẽ phát triển kinh tế, xã hội,… Đề cao giá trị nhân dân, giá trị con người, Nguyễn Trãi thể hiện tinh thần nhân nghĩa, tư tưởng tiến bộ, cái nhìn khách quan, nhìn xa trông rộng, hướng tới nhân dân để xây dựng cốt lõi chính quyền, khẳng định tầm quan trọng của cộng đồng với sự tồn vong của dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên mà “Bình Ngô Đại cáo” được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Nguyễn Trãi đã tuyên bố một cách hùng hồn về độc lập và chủ quyền dân tộc trên mọi khía cạnh, từ lãnh thổ, văn hiến, phong tục tập quán, bề dày lịch sử,…
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Nguyễn Trãi gọi nước ta là “nước Đại Việt” để khẳng định chủ quyền dân tộc. Đối lập với âm mưu muốn biến nước ta trở thành một quận của quân Minh, ông dõng dạc tuyên bố Đại Việt là một “nước”, một quốc gia độc lập, có “nền văn hiến đã lâu”, có lãnh thổ được xác định “núi sông bờ cõi đã chia”, có “phong tục Bắc Nam”,… Đặc biệt, tác giả gọi những bậc vua chúa của Đại Việt là “Đế”, sáng ngang với các triều đại của đế quốc Trung Hoa, thể hiện niềm tự hào, tự tôn của dân tộc. Tác giả đặt Đại Việt ngang hàng với Trung Quốc vừa là lời khẳng định rắn chắc về bờ cõi bất khả xâm phạm, vừa khéo léo đả kích, lên án sự xâm lược vô căn cứ của giặc phương Bắc. Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi tuyên bố chính thức độc lập được xác lập, đồng thời nói lên tâm trạng của nhân dân, niềm tự hào của quần chúng khi trở thành công dân của một nước độc lập. Tất cả các yếu tố, từ chủ quyền, tập quán, bản sắc dân tộc, những anh hùng hào kiệt,… Đại Việt đều hoàn toàn có thể sánh vai với nước bạn Trung Quốc, không có cớ gì Trung Quốc có quyền xâm lăng và đô hộ nước ta.
Như vậy, “Bình Ngô Đại cáo” là văn kiện lịch sử chính thức khai sinh ra nước Đại Việt độc lập, có giá trị ngang với bản Tuyên ngôn độc lập ngày nay. Tính “thiên cổ hùng ca” thể hiện ở giọng điệu đanh thép và lời khẳng định khảng khái, cơ sở lập luận, dẫn chứng đầy đủ, quyết định một sự kiện trọng đại của lịch sử, truyền đời cho con cháu đời sau về công dựng nước và giữ nước của thế hệ cha ông
“Bình Ngô Đại cáo” còn là lời tố cáo đanh thép về những tội ác tày trời của kẻ thù với toàn thể dân tộc ta, qua đó, tác giả ca ngợi vị lãnh tụ Lê Lợi anh minh, dũng cảm, kêu gọi nhân dân đoàn kết, hiếu trung với tổ quốc. Trước những hành động lừa lọc, nhơ bẩn mà quân Minh đã làm, thái độ của Nguyễn Trãi tỏ rõ sự căm thù, phẫn uất.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
…..
Ai bảo thần nhân chịu được?
Tác giả không ngại ngần liệt kê những tội ác của quân thù “bán nước cầu vinh”, “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”, ” vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, “dối trời lừa dân”, ép nhân dân xuống biển “mò ngọc”, bắt sản vật quý hiếm bất chấp hiểm nguy đến cả tính mạng, “tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”, giết chóc không ghê tay, gây bao cảnh nhà tan cửa nát, trẻ mất cha, mẹ mất con, vợ mất chồng,… Những tội ác nhơ nhuốc ấy của quân thù, chẳng có nước sông nào gột rửa nổi, lòng dân ai oán ngút trời. Thực tại đất nước lúc đó lâm vào cảnh khốn cùng, kinh tế kiệt quệ, quân thù ngang nhiên vơ vét, sát hại người dân, tàn phá tài nguyên thiên nhiên, môi trường. “trúc Nam Sơn không ghi hết tội”, ” nước Đông Hải không rửa sạch mùi”, Nguyễn Trãi thể hiện thái độ ghê tởm, lên án gay gắt những hành động man rợ, tàn ác giặc Minh đã vơ vét nước ta. Đó chính là động lực, là cơ sở gợi lên sự căm thù của nhân dân, dấy lên ngọn lửa yêu nước, sẵn sàng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược.
“Bình Ngô Đại cáo” trở thành một bản hùng ca oai phong, lẫm liệt với những chiến công hiển hách mà quân và dân ta đã làm được. Trước hết, tác giả nêu rõ những sự thất bại ê chề, nhục nhã của giặc khi lăm le xâm lược lãnh thổ Đại Việt:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cứ còn ghi
Hàng loạt những tội ác gắn với những cái tên cầm đầu quân xâm lược như Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã cùng với những địa điểm, cột mốc đánh dấu như Cửa Hàm Tử, sông Bạch Đằng. Liệt kê như vậy cốt để lên án sự bất nhân, vô cớ xâm lược từ phía Trung Quốc, gợi lại những nỗi đau thương mất mát trong lòng người dân để từ đó răn dạy, cảnh tỉnh nhân dân luôn một lòng đoàn kết chiến đấu chống giặc, trung thành với đất nước, với triều đình. Tác giả cũng khẳng định sự tự hào với những chiến công hiển hách của người anh hùng Lê Lợi, người anh hùng áo vải chiến đấu quên thân mình vì độc lập, tự do của dân tộc. Lê Lợi cũng là người đã khởi xướng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành chiến thắng vang dội. Ca ngợi Lê Lợi bằng những mĩ từ như “tuấn kiệt”, “sao buổi sớm” với tấm lòng cứu nước mãnh liệt, “đăm đăm muốn tiến về Đông” để tìm ra con đường cứu giúp dân chúng, thay đổi vận mệnh dân tộc. Nhắc đến Lê Lợi là nhắc đến vị lãnh đạo hoài bão lớn lao, khát khao được trừ ác giúp dân, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đầy thiếu thống, vất vả nhưng cuối cùng vẫn giành thắng lợi vẻ vang. Thậm chí, khi quân Minh thua cuộc rút về nước, Lê Lợi còn cấp cho ngựa đi đường bộ, cấp thuyền vượt biển về nước, thể hiện tấm lòng nhân văn sâu sắc, yêu thương con người, cầu tiến, cầu hòa bình, êm ấm. Lê Lợi chính là hình tượng người anh hùng của nhân dân, kết tinh bởi tất cả những nhân cách tốt đẹp và ý chí oai hùng của người dân Đại Việt.
Với những dẫn chứng xác thực, cụ thể, nêu thẳng mặt, vạch thẳng tên cùng lập luận chặt chẽ, lớp lang cùng cấu trúc bốn phần lần lượt, khẳng định nhân nghĩa, độc lập dân tộc Đại Việt, tố cáo tội ác quân thù và tuyên bố độc lập nước nhà qua chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa, “Bình Ngô Đại cáo” xứng đáng trở thành bản “Thiên cổ hùng ca”. Xét trên phương diện lịch sử, đây là bản ghi chép sử bằng văn học đầy đủ, thuyết phục, thuật lại thực tiễn một cách khách quan, vạch trần bộ mặt giả dối, ác độc của giặc Minh. Về phương diện văn học, đây là áng văn chính luận được tổ chức hợp lý với hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng đủ đầy, ngắn gọn, hàm súc. Các thủ pháp nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn và linh hoạt đã tạo nên âm hưởng hoành tráng, hào hùng, đúng phong thái của một bản “đại cáo” được lưu truyền cho muôn đời sau.
“Bình Ngô Đại cáo” đã và đang giữ được giá trị và tầm ảnh hưởng qua các thế kỉ, khẳng định tài năng và ngòi bút vượt trội của Nguyễn Trãi. Áng “Thiên cổ hùng văn” quyết định của cả một quốc gia, dân tộc, được đất trời, quần chúng chứng giám, là niềm tự hào của mọi thế hệ người dân Đại Việt về chiến công lừng lẫy, đánh đuổi ngoại xâm. Đây xứng đáng được coi là tác phẩm chính luận xuất sắc nhất của văn học thời kì Trung Đại.
Lời kết
Với những gợi ý trên ta thấy nhận định bài Bình Ngô Đại cáo là bản Thiên cổ hùng văn là không sai. Rất mong bài viết của chúng tôi sẽ mang lại những lợi ích cũng như những gợi ý phù hợp nhất cho bài viết của các bạn.
Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 12/2024!