Updated at: 16-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí” chuẩn nhất 10/2024.

Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí hay nhất- Mẫu 1

Trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, hai tiếng “đồng chí” vang lên thật thiết tha, cảm động. Đồng chí là cùng chung ý chí, lí tưởng. Đồng thời nó cũng là cách xưng hô của những người trong cùng một đoàn thể cách mạng. Với nhan đề Đồng chí, bài thơ đã nói lên được bản chất cách mạng của tình đồng đội, đồng thời cũng nói lên ý nghĩa sâu sắc của tình đồng đội. Câu thơ thứ bảy trong bài thơ cũng chỉ gồm hai tiếng: “Đồng chí”. Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất hai tiếng “đồng chí” xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí- chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của “một cây” trong sự giao kết của “rừng cây”, nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.

Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí hay nhất- Mẫu 2

Bài thơ Đồng Chí được nhà thơ Chính Hữu viết vào những năm tháng của cuộc kháng chiến chống Pháp. Là một trong những tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội nơi chiến trận hay nhất. Điều đặc biệt nhất có lẽ là khúc nhạc cuối cùng của bài thơ: “Đêm nay rừng hoang sương muối/ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/Đầu súng trăng treo”. Chiến trường ác liệt bởi quân thù, bởi rừng hoang lạnh buốt. Những khó khăn chọn rừng sâu hoang vu, sương muối đêm về không cản được bước chân người lính. Họ vẫn đứng đó, sát cánh bên nhau, vượt muôn ngàn gian khó. Họ vẫn vững vàng đôi chân mình, trong tư thế sẵn sàng quyết đấu, trái tim những người lính ấy thật dũng cảm, can trường biết bao. “Đầu súng, trăng treo” câu thơ chỉ với 4 chữ mà hiện lên khung cảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn. Trong tư thế chiến đấu, người lính đứng hiên ngang, dưới ánh trăng dịu dàng của thiên nhiên, có lúc nhìn lên, trăng như treo đầu ngọn súng. Trăng và người lính trở thành tri kỉ, tỏa sáng vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội. Súng là đại diện của chiến tranh, trăng là đại diện của hoà bình, của những ước vọng, khát khao ngày đất nước thống nhất. Những hình ảnh cuối bài hiện lên thật đẹp đẽ biết bao.

Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí hay nhất- Mẫu 3

Chính Hữu đã dành những lời thơ bình dị, mộc mạc viết về những người lính thời kì chống Pháp qua bài thơ Đồng chí. Họ đều xuất thân từ cho quê hương nghèo khó, ra đi vì lý tưởng cao đẹp, họ cùng nhau san sẻ những ngọt bùi, đắng cay chiến trận. Bài thơ khép lại bằng hình ảnh thật đẹp: “Đêm nay rừng hoang sương muối/ Đừng cảnh bên nhau cho gia tới/ Đầu súng, trăng treo”. Đêm nay cũng như bao đêm khác, hai người lính trẻ vẫn bên nhau, sát cánh cùng nhau làm nhiệm vụ của Đảng giao phó. Khó khăn nơi chiến trường là những giá lạnh của sương muối chốn rừng hoang, vì giặc dân quân thù, ấy vậy mà họ nào đâu có chút chùn chân, sợ hãi. Hình ảnh người lính trong tư thế chủ động “chờ giặc tới” thật đáng khâm phục và ngộ cả biết bao. “Đầu súng, trăng treo” câu thơ cuối bài gợi lên một khung cảnh vừa thực, vừa lãng mạn. Nhắc đến súng đạn người ta nghĩ đến chiến tranh với những hiểm nguy bủa vây. Nghĩ về ánh trăng, người ta lại nói về sự yên bình. Hai hình ảnh tưởng chừng như không liên quan đến nhau ấy lại trở nên gắn bó là thường. Ánh trăng trên đầu súng phải chăng chính là niềm tin, là ước mơ và khát vọng về một ngày mai tươi sáng, đất nước được hòa mình, nhân dân được ấm no. Ánh trăng tự do sẽ tỏa rạng khắp nơi nó trên đất nước Việt Nam. Phải có trái tim yêu nước mãnh liệt và một tâm hồn dạt dào lòng yêu nước, Chính Hữu mới mang đến cho độc giả những vấn thơ giàu giá trị đến như thế.

Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí hay nhất- Mẫu 4

Bài thơ Đồng Chí được Chính Hữu viết vào những năm tháng của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội nơi chiến trận. Đoạn cuối bài thơ là một nốt nhạc ngân vang về đẹp ấy: “Đêm nay rừng hoang sương muối/ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Chiến trường ác liệt bởi quân thù, bởi rừng hoang lạnh buốt. Những khó khăn chọn rừng sâu hoang vu, sương muối đêm về không cản được bước chân người lính. Họ vẫn đứng đó, sát cánh bên nhau, vượt muôn ngàn gian khó. Họ vẫn vững vàng đôi chân mình, trong tư thế sẵn sàng quyết đấu, trái tim những người lính ấy thật dũng cảm, can trường biết bao. “Đầu súng, trăng treo” câu thơ chỉ với 4 chữ mà hiện lên khung cảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn. Trong tư thế chiến đấu, người lính bên cây súng tranh đấu vùng tay súng, dưới ánh trăng dịu dàng của thiên nhiên. Trăng và người lính trở thành tri kỉ, tỏa sáng vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội. Súng là đại diện của chiến tranh, trăng là đại diện của hoà bình, của những ước vọng, khát khao ngày đất nước thống nhất. Những hình ảnh cuối bài hiện lên thật đẹp đẽ biết bao.

Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí hay nhất- Mẫu 5

Bài thơ Đồng chí khép lại bằng những vần thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng: “Đêm nay rừng hoang sương muối/Đứng cạnh bên nhau cho gia tới/ Đầu súng, trăng treo”. Trên con đường chiến đấu, người lính không chỉ phải đối mặt với súng đạn quân thù, với những thiếu thốn về vật chất vật chất và tinh thần mà họ còn phải chịu đựng sự khắc nghiệt của thiên nhiên, thời tiết. Họ phải vượt những cái lạnh thấu xương của “rừng hoang sương muối”. Tình cảm ấm áp, tình đồng chí, đồng đội tha thiết, nhiệt thành, gắn bó là sức mạnh để những người lính vững vàng trong cuộc chiến với quân thù. Tinh thần chiến đấu: “Chờ giặc tới” càng chứng tỏ bản lĩnh oai hùng, mạnh mẽ, can trường của bao người lính thời kì này. Hình ảnh “Đầu súng, trăng treo” cho thấy được sự gắn bó của thiên nhiên vô con người. Trăng và người là tri kỉ, trăng cũng người chiến đấu với quân thù. Ánh trăng con là biểu tượng của hòa bình, gửi gắm khát vọng và niềm tin của con người về một ngày đất nước yên bình, bóng quân thù không còn trên đất Việt. Với ba câu thơ thơ mà khiến em không khỏi tự hào về chiến công và những hy sinh của cha anh đi trước, để thấy mình phải sống có trách nhiệm với hòa bình của đất nước hôm nay.

Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí hay nhất- Mẫu 6

Ai đó đã nói rằng, bài thơ “Đồng chí” như là lời nói chuyện tâm tình, thủ thỉ của hai người chiến sĩ trong một đêm rét chung chăn.

Có hai nhân vật trữ tình là “anh” và “tôi” với những nét riêng của từng người và những nét chung của hai người. Một điều thú vị là nếu đem thay tất cả những chữ “anh” bằng chữ “tôi” và ngược lại thì cả vần lẫn nhịp và nội dung của bài thơ hầu như không thay đổi. sự hoán vị ấy thực hiện dễ dàng chính bởi vì “anh” và “tôi” rất giống nhau, vì tác giả không nhằm mục đích nói về nét riêng mà cái đích tới giả hướng tới ở đây là “đồng chí”, là gương mặt tinh thần của đội quân cách mạng lúc bấy giờ. Vì thế có khi đọc bài thơ, ta thấy có anh, có tôi, có đôi tri kỉ, có người áo rách vai, có người quần vài mảnh vá, có bàn chân không giày. Những chi tiết thơ rất chọn lọc gợi nhớ ngay về một thời các chiến sĩ vừa rời mảnh ruộng “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”. Nhưng bài thơ không hề dừng lại ở nét bên ngoài của các chiến sĩ mà nhờ thơ muốn quy nạp, muốn khái quát lên những nét chung nhất của quê hương. Điều này thấy rất rõ trong cấu trúc đoạn thơ:

“Quê hương anh…

Làng tôi…”

Sự sóng đôi của 2 câu thơ này dẫn đến sự gần gũi “anh với tôi” trong cùng một câu thơ, tiếp đó là hai người thành một đôi, nhưng là “một đôi xa lạ” sau đó mới thành “đôi tri kỉ”, và rồi mới đến “đồng chí”. Hai từ “đồng chí đó được coi là sự hội tụ những gì đẹp đẽ và tinh hoa nhất trong tình cảm xã hội của con người thời đó.

Đoạn thơ thứ hai của bài thơ lại quay trở về với những cái riêng, những con người gắn bó với nhau bằng cái tình đồng chí. Đồng chí được xây dựng từ những con người ở mọi miền quê, từ một làng nghèo “đất cày lên sỏi đá” tới vùng “nước mặn đồng chua”. Đồng chí được hình thành trong khi kề vai sát cánh “súng bên súng, đầu sát bên đầu”, được thử thách bằng những thiếu thốn, bệnh tật. Đồng chí được vun đắp bởi tình hậu phương. Đoạn thơ tiếp tục có những chi tiết khác nhau làm nổi bật tinh thần đồng đội của những người chiến sĩ:

” Miệng cười buốt giá,

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Những câu thơ không rõ chủ thể này chính là nói về đồng chí, chỉ một hành động “nắm lấy bàn tay” mà ẩn chứa biết bao ý nghĩa.

Những dòng thơ cuối của bài thơ như một tượng đài sừng sững cho tình cảm đồng chí thiêng liêng. Trên nền thiên nhiên hùng vĩ, người chiến sĩ đứng với khẩu súng, vầng trăng. Đây là một hình ảnh chân thực trong những đêm phục kích của chiến sĩ, và cũng chính tầm cao lý tưởng của quân đội cách mạng đã tạo cho hình ảnh đó một vẻ đẹp trừu tượng đến vậy.

Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí hay nhất- Mẫu 7

Đồng chí là tiếng gọi thân thương tha thiết, biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ. Cảm nhận được tình cảm vừa thân quen, vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ – chiến sĩ đa xúc động viết bài thơ đồng chí với những lời thơ thật chân chất và tràn đầy tình cảm.

Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc chiến đấu gian khổ. Họ xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen cày cuốc, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau, từ xa lã bỗng hoá thân quen. Chính Hữu đã kể về họ bằng lời thơ thật xúc động:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”

Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, sỏi đá, từ xa lạ mà hoá thân quen nơi chiến trường. Trong đơn vị quân đội ấy, hình ảnh những con người chẳng hẹn quen nhau nói lên một sự xa lạ, nhưng vì kháng chiến, những con người ấy cùng nhau chiến đấu, cùng nhau chịu đựng gian khổ. Vì thế họ trở nên thân nhau, hiểu nhau và gọi nhau là “đồng chí”.

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí”

Giọng thơ đang liền mạch. nhẹ nhàng, thủ thỉ bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ “đồng chí” được tách ra làm câu riêng, với cấu trúc thơ khác thường ấy, tác giả đã làm nổi bật ý thơ. Đây là một nốt nhấn của bản thơ, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ “đồng chí” – như một tiếng nói thiên liêng và cao cả.

Tình cảm của những người đồng chí được thể hiện rõ trong cuộc sống chiến đấu. Các anh kể cho nhau nghe về quê hương, về “giếng nước gốc đa”, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng nhau trải qua những gian khổ, bệnh tật. Dẫu áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, dẫu trời buốt giá miệng vẫn cười tươi. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không thể diễn tả bằng lời mà chỉ có thể thể hiện bằng cái nắm tay đầy ấm áp. Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả ý nghĩa thiêng liên cao đẹp của tình cảm đồng chí.

” Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Câu thơ vừa tả thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính phục kích chờ giặc trong đêm sương muối. Đồng thời “đầu súng trăng treo” còn mang nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và lãng mạn. Vừa thực vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang nét chiến đấu, vừa mang tính trữ tình. Đây là hình ảnh đẹp đầy ý nghĩa cao cả của mục đích lí tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.

Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí hay nhất- Mẫu 8

Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố, trải qua cả những năm tháng hào hùng, khí thế của dân tộc trong các cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu đã ra đời trong hoàn cảnh đó, tạo nên sự bùng nổ lan truyền khắp giới quân đội bởi sự ngợi ca tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử của các anh bộ đội Cụ Hồ.

Trong bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã khắc hoạ thành công cái chất hiền lành, tình nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng như tình đồng chí thiên liêng của những người lính nông dân áo vải. Từ mọi miền quê, những con người xa lạ vì tiếng gọi của tổ quốc mà gặp nhau rồi trở thành người lính:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Không hẹn mà gặp, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất nước. Từ những người xa lạ rồi thành “đôi tri kỉ” và trở thành “đồng chí”. Câu thơ biến hoá 7,8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ cảm xúc vần thơ như nén chặt lại. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, súng bên súng, dìu nhau qua gian khổ, đêm đắp chung chăn, chịu rét cùng nhau. Những cái chung đã biến những con người xa lạ thành đôi tri kỉ. Sự đồng cảm và hiểu nhau chính là cơ sở, là cái gốc để làm nên tình bạn, tình đồng chí vững vàng. Khi đất nước lâm nguy, họ đứng lên chiến đấu bởi một lẽ giản dị: Tình yêu đất nước. Chính bởi vì tình yêu ấy mà họ có thể gửi lại bản thân mảnh ruộng, mặc kệ căn nhà bị gió lung lay để đi kháng chiến.

” Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay”

Thế nhưng, dù dứt áo ra đi, người lính vẫn luôn hiểu rằng nơi quê nhà, hậu phương vẫn đang ngóng chờ anh về:

” Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính”

Cảm nhận về bài thơ “Đồng chí”, có thể thấy Chính Hữu đã thổi một luồng gió nhẹ nhàng về tình đồng chí trong thời kì kháng chiến đầy gian lao. Với sự kết hợp bút phát hiện thực và lãng mạn, ngôn ngữ bình dị, tự nhiên đã làm cho lời thơ trở nên thi vị và mộc mạc. Hình ảnh người lính Cụ Hồ trong lời thơ Chính Hữu đã sáng ngời vẻ đẹp của một tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.

Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí hay nhất- Mẫu 9

“Đồng chí” là một trong những bài thơ ấn tượng nhất của nhà thơ Chính Hữu, ca ngợi tình cảm đồng chí trong gian khổ luôn có nhau, chia sẻ với nhau từng miếng cơm, giấc ngủ, chăm sóc nhau từng trận sốt rét rừng. Mọi khó khăn thử thách có thể xảy ra nhưng nhờ có tình đồng chí mà không cô đơn trống trải:

” Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Trong hai câu thơ này, hình ảnh những người lính từ bốn phương trời chẳng hẹn mà qun nhau dưới ngon cờ cách mạng bởi họ có chung tình yêu lý tưởng giải phóng quê hương khỏi bóng quân thù. Hình ảnh súng bên súng, đầu bên đầu đã càng thể hiện rõ nét hơn về mục tiêu chiến đấu và lý tưởng sống của những người chiến sĩ. Họ có một kẻ thù chung nên họ sẵn sàng ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ. Họ mang trong trái tim những hoài bão lớn lao, một tình yêu quê hương to lớn. Họ sẵn sàng hiến dâng trái tim và tính mạng để bảo vệ dân tộc. Tình yêu quê hương của những chiến sĩ to lớn đến mức họ sẵn sàng bỏ lại mọi thứ nơi quê nhà, bỏ lại cả những lo toan của cuộc sống hàng ngày để ra đi vì lý tưởng bảo vệ nền độc lập dân tộc.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Những người chiến sĩ chiến đấu quên cả thân mình, họ cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, chăm sóc nhau qua những cơn sốt rét rừng, mọi khó khăn gian khổ. Dù có thiếu ăn, thiếu mặc, dù có bệnh tật đầy mình, họ vẫn cười tươi. Những hy sinh gian khổ của các anh, người đời sau vẫn còn nhớ mãi, không giây phút nào tổ quốc quên ơn.

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Những câu thơ này thể hiện sự tinh tế tột cùng của Chính Hữu khi ông sử dụng hình ảnh vô cùng nghệ thuật “đầu súng trăng treo”. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa lãnh mạng và hiện thực, với “đầu súng” tượng trưng cho chết chóc lại gắn liền với hình ảnh “trăng treo” vô cùng lãnh mạn. Đó là hình ảnh thơ mộng nói lên tinh thần quả cảm của những người chiến sĩ, trong gian khổ nhưng họ vẫn yêu đời.

Có thể nói, qua bài thơ, nhà thơ Chính Hữu đã phác hoạ lên hình ảnh người lính với tâm hồn lãng mạn nhưng cũng đầy chất anh hùng bi tráng.

Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí hay nhất- Mẫu 10

Chính Hữu là người lính và nhà thơ của lính. Thơ ông không nhiều, nhưng có tác phẩm “Đồng chí” là một tác phẩm vô cùng tiêu biểu đã làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí trong những năm kháng chiến.

Vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài thơ đã được thể hiện ở cơ sở hình thành lên tình đồng chí. Họ có chung xuất thân là những người nông dân mặc áo lính đến từ các vùng quê nghèo:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Lời thơ tự nhiên như lời kể của người lính về quê hương của mình. Việc sử dụng sáng tạo những thành ngữ, tục ngữ đã tạo nên sự mộc mạc tự nhiên như tâm hồn người trai cày nói về quê hương mình. Chính sự đồng cảnh đã tạo nên nền tảng ban đầu vững chắc hình thành tình đồng chí.

Cơ sở thứ hai hình thành nên tình đồng chí là điểm chung về tình yêu quê hương, chung lý tưởng: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. Câu thơ có hình ảnh chân thực mà giàu ý nghĩa biểu tượng, “súng bên súng” là cùng chung nhiệm vụ cầm súng chiến đấu. “Đầu sát bên đầu” là cùng chung lí tưởng ra đi theo tiếng gọi Tổ quốc. Điều này đã gắn kết những người chiến sĩ lại với nhau:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”

Câu thơ đầy ắp kỉ niệm của một thời gian khổ, họ cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, chia với nhau từng mảnh chăn nhỏ bé. Cấu trúc anh – tôi sóng đôi với nhau đã diễn tả quá trình từ xa lạ thành thân quen, rồi trở thành tri kỉ và kết thành “Đồng chí”. Câu thơ thứ bảy chỉ có vỏn vẹn 2 từ “đồng chí” cùng dấu chấm than như một nốt nhạc vang lên giữa những câu thơ mộc mạc, thể hiện thứ tình cảm bình dị mà thiêng liêng, cao cả vô cùng. Đó là: tình đồng chí trong những năm tháng cách mạng gian khổ, hiểm nguy. Câu thơ như một bản lề khép lại mạch thơ của sáu câu thơ đầu và mở ra sự đặc sắc của những câu thơ tiếp theo. Đồng thời, làm nổi bật một quy luật tất yếu: cùng chung cảnh ngộ, xuất thân, cùng chung lý tưởng và tình yêu đất nước, cùng vượt qua gian khổ hiểm nguy thì ắt hẳn sẽ trở thành đồng chí.

Vẻ đẹp của tình đồng chí không chỉ thể hiện ở sự dìu dắt nhau qua gian khổ mà còn thể hiện ở việc họ thấu hiểu tâm tư của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Tất cả những người lính khi ra đi đều hiểu rằng, họ đã để lại sau lưng những gì thân thuộc nhất. Đó là: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa. Từ “mặc kệ” được sử dụng trong câu thơ thật đắt giá, thể hiện thái độ dứt khoát, quyết chí ra đi của những người lính. Nhưng trong sâu thẳm, họ vẫn nhớ về hậu phương, và cũng biết chắc rằng hậu phương đang từng ngày mong họ trở về. Hình ảnh nhân hoá ẩn dụ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” đã thể hiện nỗi nhớ của quê hương hay chính hậu phương của người lính. có thể nói, nhà thơ Chính Hữu đã khắc hoạ nỗi nhớ hai chiều, khiến nỗi nhớ càng thêm da diết.

Bên cạnh đó, tình đồng chí còn được thể hiện ở sự chia sẻ, gắn bó trong giai đoạn khó khăn nhất của người chiến sĩ:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán toát mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh va

Chân không giày”

Đoạn thơ như lột tả trần trụi sự gian khổ mà anh bộ đội Cụ Hồ đã phải trải qua. Họ trải qua những cơn sốt rét rừng, với sự thiếu thốn đủ bề từ lương thực đến tư trang. Trong đoạn thơ, cấu trúc “anh – tôi” lại sóng đôi với nhau nhằm khẳng định trong gian khổ, tôi và anh vẫn cùng gắn bó với nhau. Hình ảnh “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” được miêu tả rất tự nhiên mà thể hiện được tình đồng chí sâu sắc. Họ nắm tay nhau để động viên và truyền cho nhau hơi ấm, khích lệ nhau chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Không những thế, với bút pháp tả thực kết hợp cùng cảm hứng lãng mạn, ba câu cuối đã gợi lên bức tranh cảnh rừng đêm khuya thật đẹp:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

Trên nền hiện thực khắc nghiệt: đêm khuya, rừng hoang sương muối giá buốt, người lính hiện lên với tư thế chủ động hiên ngang “đứng bên nhau chờ giặc tới”. Chính tư thế ấy đã làm lu mờ đi sự lạnh lẽo của núi rừng. Câu thơ “Đầu súng trăng treo” được Chính Hữu nhận ra từ chính những đêm hành quân phục kích, gợi liên tưởng vô cùng thú vị cho người đọc. “Súng” là biểu tượng của chiến tranh, của hiện thực và chất chiến sĩ, “trăng” hiện diện cho sự hoà bình, lãng mạn và thi sĩ. Sự kết hợp của hai hình ảnh tưởng chừng đối lập nhưng lại hài hoà, bổ sung cho nhau để thể hiện sự lãng mạng của chất thi sĩ và tính hiện thực của chất chiến sĩ. Hình ảnh này còn nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến là hướng tới hoà bình cho quê hương, đất nước. Giữa hiện thực khắc nghiệt mà người lính vẫn bay bổng bởi trong lòng họ có tình đồng chí ấm áp và có nỗi nhớ quê hương da diết, vô bờ.

Có thể nói, bài thơ đã làm bật lên vẻ đẹp của tình đồng chí qua những nét nghệ thuật đặc sắc. Đó là thể thơ tự do cùng với những hình ảnh chân thực mà giàu tính biểu tượng. Bài thơ đã mở ra một hướng đi mới cho văn học kháng chiến viết về người lính cách mạng: cảm hứng thơ đi lên từ hiện thực đời thường mà vẫn lãng mạn dạt dào

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 10/2024!