Updated at: 10-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “chứng minh Tinh thần nhân đạo cao cả là giá trị lớn nhất, sâu sắc nhất của Truyện Kiều – kiệt tác của nền thi ca cổ điển Việt Nam” chuẩn nhất 04/2024.

I. Dàn Ý Chứng minh Giá Trị Nhân Đạo Trong Truyện Kiều (Chuẩn)

1. Mở bài:

– Giới thiệu về tác phẩm, tác giả
– Truyện Kiều chứa đựng giá trị nội dung và nhân đạo sâu sắc.

2. Thân bài:

a. Giá trị nhân đạo là gì?
– Khái niệm: Là sự cảm thông sâu sắc của các nhà văn, nhà thơ đối với những nỗi đau của con người và của những số phận bất hạnh trong cuộc sống, phê phán, tố cáo xã hội bất công chèn ép con người

b. Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều

* Phê phán xã hội bất công, tàn ác, chèn ép con người
– Vạch trần bộ mặt xấu xa của bọn quan lại, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm tiền trên thân xác những người con gái.

– Lên án xã hội đồng tiền đã chà đạp phẩm giá, hạnh phúc của con người.
=> Ngòi bút tả thực của Nguyễn Du đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội phong kiến thối nát, trong đó đồng tiền có thể xoay chuyển tất cả, thao túng con người, dung túng cho cái ác.

* Ca ngợi và trân trọng vẻ đẹp của con người
– Khắc họa sống động vẻ đẹp ngoại hình của chị em Thúy Kiều, lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ con người.
– Ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn: Thúy Vân thanh cao, đài các, Thúy Kiều sắc sảo, mặn mà.
– Ca ngợi tài năng của Thúy Kiều: cầm kì thi họa đều tinh thông

* Đồng cảm, xót thương những số phận bất hạnh:
– Xót thương cho những kiếp tài hoa bạc mệnh
– Thương cho những kiếp người bị chà đạp, bị ức hiếp, bị biến thành món hàng cho người ta mua bán.

c. Đánh giá:

– Nội dung:
+ Giá trị nhân đạo mang những nét mới mẻ: đề cao tài năng của người phụ nữ
+ Chủ nghĩa nhân đạo của truyện Kiều của Nguyễn Du kế thừa và phát huy giá trị nhân đạo truyền thống của dân tộc, góp phần lên tiếng bảo vệ những con người nhỏ bé.

– Nghệ thuật:
+ Giá trị nhân đạo thể hiện qua những nghệ thuật đặc sắc như ước lệ, điểm xuyết, vẽ mây nẩy trăng, …
+ Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật đặc sắc
+ Khả năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, khẳng định vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc,

3. Kết bài:

– Khẳng định lại vấn đề.

Chứng minh Tinh thần nhân đạo cao cả là giá trị lớn nhất, sâu sắc nhất của Truyện Kiều – kiệt tác của nền thi ca cổ điển Việt Nam- Mẫu 1

Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này. Chúng ta vô cùng lự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam. Nguyễn Du và Truyện Kiều sống mãi trong tâm hồn dân lộc, như tiếng hát lời ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương muôn đời:

Trong “đề từ” tập thơ Đoạn trường tân thanh, tiến sĩ Phạm Quý Thích đã viết:
…Mặt ngọc lỡ sao vùi đáy nước,
Lòng trinh không thẹn với Kim lang.
Đoạn trường mộng tỉnh duyên đà đứt,
Bạc mệnh đàn ngưng hận vẫn vương…
(Nguyễn Quảng Tuân dịch)
Phạm Quý Thích là người cùng thời với Nguyễn Du. Lời đề từ của nhà nho danh tiếng này đã khẳng định và ngợi ca giá trị nhân đạo của kiệt tác Truyện Kiều. Mười lăm năm trời lưu lạc của nàng Kiều là một thiên bạc mệnh thấm đầy lệ làm xúc động lòng người “Cảo thơm lần thở trước đèn…” 3254 câu thơ Kiều dào dạt một tình thương mênh mông của Nguyễn Du trước những bi kịch cuộc đời – “những điều trông thấy mà đau đớn lòng…
Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ Truyện Kiều. Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người như tài sắc. lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu… Đó còn là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lý; là sự đồng cảm, xót thương với bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ “bạc mệnh” trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng và thương yêu con người bị áp bức, bị chà đạp.
Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều, trước hết là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. Kiều là hiện thân của cái đẹp và tài năng tuyệt vời. Nàng kiều diễm, rực rỡ “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Kiều không chỉ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” mà còn có một tài năng toàn diện, lỗi lạc rất đáng tự hào:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Kim Trọng, một văn nhân, tài tử “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”, là một “thiên tài” hội tụ của tinh hoa thời đại “văn chương nết đất, thông minh tính trời”. Mỗi bước đi của chàng Kim đều đem đến cho đất trời cỏ cây hoa lá một sức sống đẹp tươi kỳ diệu:

Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Mối tình của “Kim Trọng – Thuý Kiều” là một thiên diễm tình. Đó là một tình yêu tự nguyện vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến, rất trong sáng và thủy chung của “người quốc sắc, kẻ thiên tài”.
Kiều là một đứa con chí hiếu. Gia đình gặp tai biến. Tài sản bị bọn sai nha “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”, cha bị tù tội. Kiều đã quyết hy sinh mối tình riêng, để cứu cha và gia đình. Hành động bán mình chuộc cha của Thúy Kiều thấm đượm một tinh thần nhân đạo cao đẹp, làm cho người đọc vô cùng cảm phục và xúc động:
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cồ quyết đền ba xuân.
Thà rằng liều một thân con Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.
Đọc Truyện Kiều lần theo con đường khổ ải của Kiều, ta vô cùng cảm phục trước tấm lòng đôn hậu, hiếu thảo, tình nghĩa của nàng. Kiều như quên hết nỗi đau của riêng mình mà dành tất cả tình thương nhớ thắm thiết cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cha mẹ già yếu, buồn đau, không ai chăm sóc đỡ đần:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ…
Tình tiết trao duyên” trong Truyện Kiều cũng là một nét rất đẹp của tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời “Hiếu tình khôn nhẽ hai đường vẹn hai”, Kiều đã  trao duyên cho Thuý Vân thay mình trả nghĩa “nước non” với chàng Kim:
…Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung…
Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về công lý, những khái vụng về tự do.
Từ Hải là một hình tượng mang màu sắc sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường. Một ngoại hình siêu phàm “Râu hùm hàm én mày ngài — Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Với những chiến công hiển hách, lẫy lừng “Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam”, Từ Hải là một anh hùng đầy chí khí “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”. Người anh hùng ấy, khi lưỡi gươm vung lên là công lý được thực hiện:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!

Từ Hải đã đem uy lực của người anh hùng ra giúp Kiều “báo ân báo oán”. Hình tượng Từ Hải là một thành công kiệt xuất của Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. Vẻ đẹp nhân văn toát lên qua hình tượng này, tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão tăm tối của đời nàng Kiều vậy. Tuy ngắn ngủi nhưng sáng ngời hy vọng và niềm tin.
Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót thương sâu sắc.
Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Kiều phải hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan. …uất ức quá, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc cất lên não lòng. Những từ ngữ: “thương thay”, “hại thay”, “làm chi”, “còn gì là thân” tựa như những giọt lệ chứa chan tính nhân đạo, khóc thương cho số đoạn trường:
… Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.
Những là oan khổ lưu ly
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân! …
Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một ám ảnh đối với mọi người. Người kỹ nữ “nổi danh tài sắc một thì” nhưng mệnh bạc đau đớn “Sống làm vợ khắp người ta – Hại thay thác xuống làm ma không chồng”. Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lên lời đồng cảm tha thiết! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội cũ?
Đau đớn thay phận dìm bù,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc thông qua số phận và tính cách nhân vật trung lâm – Thuý Kiều – đã biểu hiện trong áng thơ tuyệt tác Đoạn trường tân thanh cảm hứng nhân đạo sâu sắc, cảm động.
Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này. Chúng ta vô cùng lự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam.
Nguyễn Du và Truyện Kiều sống mãi trong tâm hồn dân lộc, như tiếng hát lời ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương muôn đời:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày…
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

Chứng minh Tinh thần nhân đạo cao cả là giá trị lớn nhất, sâu sắc nhất của Truyện Kiều – kiệt tác của nền thi ca cổ điển Việt Nam- Mẫu 2

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã để lại cho thế hệ sau một khối lượng đồ sộ các tác phẩm văn học trong đó nổi bật nhất là Truyện Kiều. Truyện Kiều đã tái hiện cuộc sống và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa thông qua mười lăm năm chìm nổi của nhân vật Thúy Kiều. Bên cạnh phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đen tối, Truyện Kiều còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc khi xót thương, trân trọng giá trị con người.

Giá trị nhân đạo là sự cảm thông sâu sắc của các nhà văn, nhà thơ đối với những nỗi đau của con người, với những số phận bất công trong cuộc sống. Phê phán hiện thực xã hội nhiều bất công, đồng cảm, xót thương cho những số phận con người.

Trong truyện Kiều, chủ nghĩa nhân đạo này được thể hiện vô cùng rõ nét. Nguyễn Du đã xây dựng lên bức tranh xã hội xưa với số phận trôi nổi của nàng Kiều và lồng vào đó những giá trị nhân đạo cao quý.

Biểu hiện đầu tiên của giá trị nhân đạo ta bắt gặp trong truyện Kiều là sự phê phán của Nguyễn Du đối với xã hội phong kiến đương thời. Đó là một xã hội đầy rẫy những sự bất công, chèn ép con người tới đường cùng, là một xã hội mà đồng tiền của thể xoay chuyển tất cả và cả những kẻ “buôn thịt bán người”, kinh doanh trên thân xác của những người con gái.

Trước biến cố của gia đình, Thúy Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha và em, người con gái tài sắc ấy trở thành món hàng để người ta mua bán, chỉ với bốn trăm lượng vàng. Xã hội phong kiến thối nát được vận hành theo quyền lực của đồng tiền, con người trong xã hội ấy bị đồng tiền chi phối mà bất chấp cả công lí, đạo đức và tình người. Không chỉ vậy, xã hội ấy còn để cho những kẻ “buôn thịt bán người” được hoành hành, được kiếm tiền trên thân xác của những cô gái lương thiện. Điển hình cho chúng là những Mã Giám Sinh, những Sở Khanh, những Tú Bà, Bạc Bà, …

Ví như Mã Giám Sinh – một tên buôn người tự gán mác thư sinh, vậy mà những lễ nghi cơ bản, đạo đức lại chẳng hề có. Qua những câu thơ miêu tả của Nguyễn Du, ta thấy hiện lên một kẻ vô học, thô lỗ:

“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê rằng huyện Lâm Thanh cũng gần

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”

Những hành động của hắn như “ngồi tót”, đáp lời chẳng có thưa gửi chẳng khác gì phường thổ phỉ, bọn lưu manh ngoài đường. Bản chất của hắn còn là một con buôn lọc lõi. Bởi khi ra giá với bà mai, hắn đã coi Kiều như một món hàng, lật qua lật lại, ra giá mặc cả “Đắn đo cân sắc cân tài hay “Cò kè bớt một thêm hai.

Ngòi bút hiện thực của Nguyễn Du đã vạch trần cái xã hội phong kiến thối nát mà đồng tiền có thể xoay chuyển tất cả. Cái xã hội ấy dung túng cho những kẻ vô học, vô đạo đức, những kẻ “buôn thịt bán người”, dùng đồng tiền để mua chuộc những kẻ tham quan. Một xã hội mà những người thấp cổ bé họng không có quyền lên tiếng, bị khinh rẻ, coi thường, bị mua đi bán lại như một món hàng hoá, bị mặc cả “cò kè” từng đồng tiền.

Biểu hiện thứ hai trong giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du muốn thể hiện đó là sự ngợi ca, trân trọng những giá trị, những vẻ đẹp của những con người lương thiện. Điều đó thể hiện rất rõ nét qua những nét bút miêu tả về ngoại hình cũng như vẻ đẹp tâm hồn và tài năng của chị em Thuý Kiều.

Đầu tiên là vẻ đẹp của Thuý Vân. Vẻ đẹp của nàng được Nguyễn Du miêu tả chi tiết, tỉ mỉ, được so sánh cùng mây, cùng trăng – vốn là những sự vật với vẻ đẹp viên mãn. Nguyễn Du tả Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”

Thuý Vân hiện lên thật đẹp, không chỉ là nước da màu tóc mà còn cả phong thái rất sang trọng, quý phái nhưng lại không kém phần duyên dáng đáng yêu. Trước vẻ đẹp của nàng, thiên nhiên cũng phải “thua”, phải “nhường”. Nghệ thuật ước lệ cổ điển được sử dụng vô cùng thành công.

Khi miêu tả Thuý Kiều, Nguyễn Du không những sử dụng nghệ thuật ước lệ mà còn sử dụng cả biện pháp cổ điển “vẽ mây nẩy trăng”. Ông đã miêu tả Thuý Vân – là em trước khi miêu tả về Thuý Kiều, nhằm làm nổi bật vẻ đẹp hoàn mỹ của Thuý Kiều:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn

Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”

Vẻ đẹp của Kiều quá hoàn mỹ, vượt qua những quy chuẩn thông thường, khiến thiên nhiên phải “hờn”, phải “ghen” với sắc đẹp của nàng. Bút pháp ước lệ cùng nghệ thuật miêu tả tài hoa, tấm lòng yêu thương của tác giả đã dựng lên bức chân dung hai thiếu nữ đang độ tuổi trăng tròn đẹp nghiêng nước nghiêng thành.

Ngoài việc miêu tả vẻ đẹp ngoại hình, Nguyễn Du còn chú trọng miêu tả vẻ đẹp tâm hồn của các nhân vật trong truyện Kiều mà nổi bật là vẻ đẹp tâm hồn của hai nàng Vân Kiều. Cả hai người con gái vừa đoan trang, vừa đức hạnh, hiền thục, là một tiểu thư khuê các đúng mực:

“Phong lưu nhất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê

Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Thế nhưng, Nguyễn Du còn đặc biệt đi sâu vào miêu tả vẻ đẹp nội tâm của Kiều – người con gái xinh đẹp nết na.Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp tâm hồn của nàng như một cách để trân trọng hơn con người nàng.

Vẻ đẹp nội tâm của nàng Kiều được ông miêu tả qua nghĩa cử bán mình cứu cha vô cùng đẹp đẽ và hiếu thảo của nàng. Ở độ tuổi vừa cập kê, còn bao nhiêu ước nguyện, tình yêu, ước mơ còn dang dở nhưng nàng đã gạt bỏ tất cả, nhận lấy trọng trách cứu cha và em trai. Hành động ấy thật cao đẹp, thật nhân ái! Liệu có mấy người con gái dám đứng lên gánh trách nhiệm lớn lao ấy, liệu có ai dám bán đi hạnh phúc, tự do của bản thân lấy tiền cứu cha chăng?

Đến khi một mình ở nơi xa nhà, giữa chốn lầu son của bọn “buôn sắc bán hương”, nàng thương xót cho thân mình, nhưng càng thương xót hơn cha mẹ mình, khi nàng ở nơi xa, chẳng thể lo lắng, hầu hạ cho cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Ở Kiều, người ta còn thấy được một tấm lòng thuỷ chung, son sắt với tình yêu. Dù cho tình yêu của nàng và Kim Trọng đã bị chia lìa, thế nhưng, trong tim nàng chưa hề quên đi hình bóng của chàng:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Nàng cũng là một người rất trọng nghĩa trọng tình. Với Thúc Sinh, nàng cảm tạ ơn chàng đã cứu nàng, khi trả ơn, nàng nói:

“Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”

Và vẻ đẹp của nàng càng rạng ngời khi nàng báo ân báo oán mà bao dung, độ lượng với Hoạn Thư – kẻ đã gây bao sóng gió cho cuộc đời nàng:

“Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”

Ngoài ra, Nguyễn Du còn vô cùng trân trọng vẻ đẹp tài năng của Kiều. Ông đã ưu ái đề cao phẩm chất tài năng của nàng:

“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”

Tài năng của Kiều rất đáng nể và Nguyễn Du vô cùng trân trọng điều đó. Đây là một trong những tư tưởng rất tiến bộ của ông so với các nhà thơ đương thời.

Tiếp theo của giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du muốn nói đó là tấm lòng thương cảm, đồng cảm sâu sắc với những số phận bất hạnh. Đầu tiên là sự thương xót dành cho Kiều khi nàng bị biến thành một món hàng bị người ta mang ra đong đếm:

“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày”

Ông đồng cảm với Kiều, ông thương xót cho số phận của cô bị chà đạp, bị khinh rẻ, bị mặc cả qua lại như một món hàng ngoài chợ:”

“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”

Và càng đau xót hơn, thương hơn khi Kiều một mình giữa lầu Ngưng Bích, bị giam lỏng ở đây trong sầu muộn “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân/ Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung…”. Hơn thế, Nguyễn Du còn tự nhập mình vào nhân vật để cảm nhận nỗi đau của họ, cảm nhận thân phận đau khổ, tủi nhục của Kiều, sự buồn bã của nàng. Và chính vì thế, ông đã dự cảm được một tương lai mờ mịt, bất định của người con gái tài sắc vẹn toàn ấy:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”

Khía cạnh cuối trong giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du muốn biểu hiện là niềm tin vào ước mơ, vào tương lai tươi sáng hơn cho những con người bé nhỏ. Dù cuộc sống của những con người trong truyện Kiều luôn đầy rẫy những bất công, những đau khổ nhưng Nguyễn Du vẫn luôn trân trọng những ước mơ nhỏ bé của họ, những ước mơ về công bằng, công lý, về một xã hội không còn những bất công, áp bức nữa.

Điều đó thể hiện qua hình ảnh của người anh hùng Từ Hải – với một vẻ đẹp khác thường, phi thường:

“Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.

Người anh hùng Từ Hải chính là khát vọng của Nguyễn Du, của những con người trong truyện Kiều về một nơi có công lý, nơi mà cái ác phải trả giá. Từ Hải đã giải thoát cho Kiều khỏi lầu xanh, cho nàng một danh phận, giúp nàng báo ân báo oán. Với những người có ân mới mình, Kiều cảm tạ và rất mực trân trọng như Thúc Sinh:

“Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng gọi là báo ân”

Còn với những kẻ gây ra đau khổ cho nàng, như Hoạn Thư, nàng cũng rất nghiêm khắc trừng trị:

“Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”

Đây là ước mơ của tất cả những con người lương thiện, bé nhỏ trong xã hội và của cả Nguyễn Du nữa. Ước mơ về một tương lai có một xã hội công bằng, công lý như thế!

Chủ nghĩa nhân đạo mà Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều thấm đẫm trong cả nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du thấm đẫm sự yêu thương, nhân ái và trân trọng, đặc biệt là nhân vật Kiều – nhân vật mà ông đã gửi gắm tâm tư của mình. Chủ nghĩa nhân đạo của ông cũng mang những nét mới mẻ như đề cao con người, trân trọng tài hoa của những người phụ nữ. Cùng góp phần vào chủ nghĩa nhân đạo trong dòng chảy văn học Việt, Nguyễn Du đã kế thừa và phát huy những tinh hoa của chủ nghĩa nhân đạo truyền thống trong văn học dân tộc.

Về nghệ thuật, chủ nghĩa nhân đạo biểu hiện qua những bút pháp đặc sắc như ước lệ, điểm xuyết ,… Cùng với nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật đặc sắc, các sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, điều đó cũng góp phần tạo nên thành công cho giá trị nhân đạo trong truyện Kiều.

Giá trị nhân đạo trong truyện Kiều thấm đẫm tình yêu thương. Nó vừa mang nét truyền thống vừa mang nét mới mẻ, tôn vinh tài hoa của người phụ nữ. Hoà với dòng chảy của dân độc, giá trị nhân đạo trong truyện Kiều sẽ sống mãi cùng với cái tên của đại thi hào Nguyễn Du để muôn đời sau còn biết tới một nhà thơ với trái tim nồng nhiệt, đầy yêu thương.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “chứng minh Tinh thần nhân đạo cao cả là giá trị lớn nhất, sâu sắc nhất của Truyện Kiều – kiệt tác của nền thi ca cổ điển Việt Nam” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!