Updated at: 03-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Soạn bài Chiếc lược ngà” chuẩn nhất 10/2024.

Soạn bài Chiếc lược ngà- Mẫu 1

Video hướng dẫn giải

Câu 1

Video hướng dẫn giải

Trả lời câu 1 (trang 202 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

Tóm tắt truyện:

Ông Sáu đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà. Bé Thu không nhận ra cha vì cái sẹo trên mặt làm ba em không còn giống với người trong bức ảnh chụp mà em đã biết. Em đối xử với ba như với người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương cho đứa con vào việc làm chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược cho người bạn.

– Tình huống bộc lộ sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu:

+ Cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách, nhưng bé Thu không nhận ra cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi.

+ Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa thể gửi món quà ấy cho con gái.

Câu 2

Video hướng dẫn giải

Trả lời câu 2 (trang 202 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

Diễn biến tâm lý và tình cảm của bé Thu:

– Ban đầu bé Thu tỏ ra ngờ vực, lảng tránh, lạnh nhạt, xa cách:

+ Hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên khi mới gặp ông Sáu.

+ Chỉ gọi trống không với ông Sáu mà không chịu gọi là cha.

+ Nhất định không chịu gọi ông Sáu là bố để nhờ ông giúp chắt nước nồi cơm to đang sôi.

+ Hất cái trứng cá mà ông gắp cho.

+ Khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây cột xu: kêu rổn rảng thật to.

– Khi nhận ra cha:

+ Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi “ba”.

+ Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa…

=> Thu có tình yêu thương cha sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi.

– Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu, chứng tỏ tác giả rất am hiểu tâm lý trẻ em, yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.

Câu 3

Video hướng dẫn giải

Trả lời câu 3 (trang 202 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

Tình cảm cha con sâu nặng ở ông Sáu đối với con đã được thể hiện qua những chi tiết, sự việc sau:

* Những ngày nghỉ phép ở nhà

– Xúc động mãnh liệt trong khoảnh khắc gặp lại con sau 8 năm xa cách.

– Đau đớn vì bé Thu không đáp lại tình cảm của ông mà sợ hãi bỏ chạy.

– Suốt 3 ngày phép ông Sáu làm mọi cách để bé Thu thay đổi.

– Khi chia tay, không dám lại gần con, chỉ nhìn con bằng ánh mắt trìu mến, buồn rầu.

– Sung sướng cảm động khi con gái kêu to tiếng ba.

* Khi ông trở lại chiến trường

– Luôn cảm thấy ân hận, khổ tâm vì đã đánh con.

– Không quên lời hứa với con.

– Lúc nhớ con, ông lấy cây lược ra ngắm nghía, mài lên mái tóc.

– Trao chiếc lược ngà cho người bạn trước khi chết.

=> Ông Sáu là biểu tượng cho tình yêu thương, sự ân cần và che chở của người cha dành cho con mình. Qua đó ta thấy được sự bất tử của tình cảm cha con.

Lời giải chi tiết:

* Những ngày nghỉ phép ở nhà cùng con

– Xúc động mãnh liệt trong khoảnh khắc gặp lại con sau 8 năm xa cách: Vội vàng, hấp tấp nhảy lên bờ gọi con; Đưa tay đón con; …

– Đau đớn vì bé Thu không đáp lại tình cảm của ông mà sợ hãi bỏ chạy: Sầm mặt lại, hai tay buông thõng như bị gãy

– Suốt 3 ngày phép ông Sáu làm mọi cách để bé Thu thay đổi: Ông không đi đâu, chỉ quanh quẩn bên con, ông không giận con mà chỉ khe khẽ lắc đầu, cười trước sự bướng bỉnh, xa lánh của con.

– Khi chia tay, ông bộc lộ tình yêu con sâu nặng: Anh không dám lại gần con, chỉ nhìn con bằng ánh mắt trìu mến, buồn râu.

* Khi ông trở lại chiến trường

– Luôn cảm thấy ân hận, khổ tâm vì đã đánh con.

– Không quên lời hứa với con. Ông hiểu mơ ước ngây thơ của con. Cô bé muốn có 1 vật dụng để luôn nhớ về cha: Ông tỉ mỉ cưa từng răng lược, cẩn thận khắc từng nét chữ “yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Lúc nhớ con, ông lấy cây lược ra ngắm nghía, mài lên mái tóc.

– Thậm chí, cái chết cũng không cướp đi được tình yêu thương con của ông Sáu: Vết thương nặng trong một trận càn khiến ông kiệt sức, không trăng trối được điều gì nhưng ông vẫn dồn hết tàn lực móc cây lược trao cho đồng đội và gửi gắm đồng đội mình qua ánh mắt.

=>Ông Sáu là biểu tượng cho tình yêu thương, sự ân cần và che chở của người cha dành cho con mình. Qua đó ta thấy được sự bất tử của tình cảm cha con.

* Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu, mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những đau thương mất mát, éo le mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

Câu 4

Video hướng dẫn giải

Trả lời câu 4 (trang 202 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

– Truyện được trần thuật theo lời người bạn ông Sáu, người đã chứng kiến những cảnh ngộ éo le của cha con ông.

– Tác dụng:

+ Câu chuyện trở nên đáng tin cậy.

+ Nhân vật được nhìn nhận, đánh giá khách quan.

+ Người kể chuyện lại hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe.

Luyện tập

Trả lời câu 1 (trang sgk Ngữ văn 9 Tập 1):

Khi chưa nhận ra cha, bé Thu lạnh lùng, xa lánh. Khi nhận ra cha thì tình cảm mãnh liệt cha con trào dâng. Điều đó thể hiện sự yêu ghét rạch ròi, tâm hồn ngây thơ của một đứa trẻ tám tuổi rất mực yêu người cha trong ảnh của mình.

rả lời:

– Tuy hành động của bé Thu đối với ba rất trái ngược nhưng lại rất nhất quán, điểm nhất quán đó chính là tình yêu thương của bé Thu dành cho ba mình.

– Trong những ngày đầu, bé Thu kiên quyết không nhận ông Sáu, vùng vằng với ông bởi bé Thu thấy ông Sáu không giống với hình ảnh người ba lâu nay in hằn trong trí nhớ của bé từ tấm ảnh chụp chung với má => bé Thu luôn mong nhớ ba, ghi nhớ hình ảnh của ba trong trái tim.

– Khi ông Sáu sắp ra đi, bé Thu đã biết ông Sáu là ba mình, và biết sắp phải chia tay ba nên rất buồn, nhớ ba, không muốn cho ba đi, và bắt ba hứa sẽ mua cho mình chiếc lược => mong ba quay trở về, mong được gặp lại ba.

Trả lời câu 2 (trang sgk Ngữ văn 9 Tập 1):

Theo lời hồi tưởng của bé Thu:

Vì cha tôi đi kháng chiến nên mãi đến khi tôi lên tám tuổi, tôi mới có dịp gặp lại cha. Vết thẹo trên mặt ba khiến tôi xa lánh, ương bướng với. Đến lúc tôi nhận ra cha, thì cũng là lúc cha phải ra đi. Tại khu căn cứ, cha tôi dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào làm chiếc lược bằng ngà voi để tặng tôi. Trong một trận đánh, cha tôi đã hy sinh. Trước lúc nhắm mắt cha chỉ còn kịp trao cây lược cho người bạn để gửi cho tôi. Giá như không có chiến tranh thì tôi đã có nhiều giây phút hạnh phúc với cha rồi.

Trả lời:

Tối qua nghe lời bà giảng giải tôi đã hiểu ra tất cả mọi chuyện. Thì ra người tôi vẫn ruồng bỏ mấy ngày nay chính là ba tôi. Chỉ tại chiến tranh mà tôi đã cứng đầu không nhận ra ba. Sáng cuối cùng ba tôi còn ở nhà, tôi theo ngoại về, lòng đầy day dứt, ân hận. Nhà tôi sáng hôm ấy rất đông họ hàng nội ngoại. Ba tôi bận bịu tiếp khách, tôi đứng nép vào góc nhà, tựa cửa và nhìn mọi người đang vây quanh ba tôi. Tôi muốn chạy lại phía ba, gọi ba nhưng chỉ có thể đứng trân trân ở đấy. Đến lúc chia tay, sau khi bắt tay hết mọi người, ba tôi đưa mắt nhìn tôi đứng trong góc nhà. Ba nói khe khẽ “Thôi! Ba đi nghe con!”. Tôi như vỡ òa, nỗi nhớ ba không thể kìm nén được nữa, thét lên “Ba…a…a…ba!”. Tôi ôm cổ ba, vừa khóc vừa nói không muốn cho ba đi. Hai ba con ôm hôn nhau, tôi hôn cả vết thẹo dài bên má ba tôi. Ba tôi một tay ôm tôi, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên tóc tôi và bảo “Ba đi rồi ba về với con”. Tôi vẫn không thể chấp nhận được sự thật rằng mình phải xa ba ngay lúc này, lỗi của tôi đã phung phí thời gian ở cạnh ba những ngày vừa rồi. Nhưng biết ba phải đi kháng chiến, chẳng đành nhưng tôi với ba cũng phải chia tay nhau. Trước khi ba đi, tôi mếu máo bảo ông: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba” rồi từ từ tuột xuống khỏi tay ba. Đó là lần cuối cùng tôi còn được gặp ba mình.

Bố cục

Video hướng dẫn giải

Bố cục (3 phần)

– Phần 1 (từ đầu đến “chị cũng không muốn bắt nó về”): Ông Sáu trở về thăm nhà trong ba ngày nghỉ phép nhưng bé Thu không nhận ông là ba.

– Phần 2 (tiếp theo đến “vừa nói vừa từ từ tuột xuống”): Bé Thu nhận ra ba và cuộc chia tay của hai cha con.

– Phần 3 (đoạn còn lại): Ông Sáu hi sinh ở chiến trường và chuyện chiếc lược ngà.

ND chính

Video hướng dẫn giải

Đoạn trích truyện Chiếc lược ngà đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.

Soạn bài Chiếc lược ngà- Mẫu 2

I. Tác giả

– Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932.

– Quê quán: huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

– Từ năm 1954, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn.

– Những năm chống Mỹ, ông trở về Nam bộ tham gia kháng chiến rồi tiếp tục sáng tác văn học.

– Sau khi đất nước thống nhất, ông là Tổng thư ký Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.

– Các tác phẩm của ông thuộc nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim…

– Năm 2000, ông được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.

– Một số tác phẩm tiêu biểu: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956), Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961), Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966), Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975), Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985), Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990)…

II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

“Chiếc lược ngà” viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên.

2. Bố cục

  • Phần 1. Từ đầu đến “chị cũng không muốn bắt nó về”: Ông Sáu trở về thăm nhà nhưng bé Thu không nhận ra ba.
  • Phần 2. Tiếp theo đến “vừa nói vừa từ từ tuột xuống”: Bé Thu nhận ra ba và cuộc chia tay của hai cha con.
  • Phần 3. Còn lại: Ông Sáu hy sinh ở chiến trường và chuyện về chiếc lược ngà.

3. Tóm tắt

Sau nhiều năm xa nhà, ông Sáu được đơn vị cho về thăm vợ con. Nhưng đứa con gái ông là bé Thu lại không nhận ra cha chỉ vì vết sẹo dài trên má của ông. Ông Sáu rất buồn bã trước sự lạnh nhạt của con gái. Trong ba ngày ở nhà, nếu ông Sáu luôn tìm cách để con gọi mình là ba, thì bé Thu lại lẩn tránh. Sau khi được bà ngoại giải thích về vết sẹo, bé Thu nhận ra ba. Cuộc chia tay của hai cha con diễn ra đầy xúc động. Sau này, ông Sáu hy sinh trong một trận càn của giặc, lúc hấp hối, ông trao cho anh Ba chiếc lược ngà mà ông làm tặng bé Thu.

III. Đọc – hiểu văn bản

1. Ông Sáu trở về thăm nhà nhưng bé Thu không nhận ông là ba

– Trong những năm xa nhà, ông Sáu luôn nhớ con, khát khao gặp con.

– Khi được trở về thăm con: Thuyền chưa cập bến đã nhảy vội lên bờ gọi con.

– Nhưng ngược lại, bé Thu lại không chịu nhận cha:

  • Lúc mới gặp ông Sáu: “Con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác lạ lùng”.
  • Nhìn vết thẹo dài trên má ông Sáu nó càng hoảng hốt, sợ hãi “mặt nó tái đi, vụt chạy rồi kêu thét lên”.
  • Suốt ba ngày, con bé bộc lộ sự bướng bỉnh, nhất quyết không gọi ông Sáu bằng ba, chỉ nói trổng (khi mời ông Sáu ăn cơm, khi muốn nhờ ông chắt nước…).
  • Hất văng ra khỏi chén cái trứng cá ông Sáu gắp cho.
  • Bị ông Sáu đánh, nó bỏ sang nhà bà ngoại.

=> Bé Thu bộc lộ sự ương ngạnh, bướng bỉnh vừa đáng giận vừa đáng thương nhưng không đáng trách.

– Nguyên nhân:

  • Bé Thu không nhận ông Sáu là ba vì ông có vết thẹo trên mặt “không giống cái hình ba chụp với má”.
  • Với lứa tuổi của mình, Thu không thể hiểu những khắc nghiệt của chiến tranh. Vậy mà, vết sẹo chiến tranh hằn trên gương mặt ông Sáu đã làm Thu không nhận ra được cha mình.

=> Hậu quả mà chiến tranh gây ra khiến con người xót xa.

– Ông Sáu rất đau lòng, thất vọng vì bé Thu không nhận mình:

  • Khi bé Thu chạy vụt đi, hét lên hoảng hốt, sợ hãi: “nỗi đau đớn khiến mặt anh tối sầm lại trông rất đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
  • Trong ba ngày phép, càng muốn gần gũi, yêu thương con, bé Thu càng lảng tránh, lạnh lùng, vô lễ. Ông càng đau khổ hơn (tám năm mới được gặp con, những ngày phép ngắn dần mà con không chịu nhận ba, không một lần được ôm con trìu mến…)

=> Tình cảm yêu thương trìu mến của một người cha.

2. Bé Thu nhận ra ba và cuộc chia tay của hai cha con

– Tình cảm thắm thiết mà ông Sáu dành cho con:

  • Lúc chia tay, ông Sáu muốn ôm hôn con nhưng sợ con không chịu, ông chỉ nhìn con bằng đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”. Khi Thu nhận cha, ông Sáu đã khóc vì sung sướng và xúc động.
  • Lúc ở rừng, tại khu căn cứ: ông Sáu sung sướng khi tìm được khúc ngày (“hớt hải chạy về”, “hớn hở như trẻ con được quà”); lúc rỗi ông “cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”, khắc dòng chữ nhỏ với bao tình cảm “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”
  • Lúc nhớ con, “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”, có cây lược ông càng mong gặp con.
  • Trong giờ phút cuối cùng, tình cha con vẫn da diết “không đủ sức trăn trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”.
  • Ông gửi cây lược cho đồng đội nhờ đưa cho con, lúc ấy mới nhắm mắt xuôi tay.

– Tình cảm bé Thu đối với cha:

  • Trước lúc ông Sáu đi, ba gọi tiếng ba đầu tiên, xé lòng như thét lên: “Ba…a…a… Ba!”. Tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao năm nay, tiếng ba như vỡ tung từ đáy lòng nó.
  • Nó vừa kêu “vừa chạy xô tới”, “dang tay ôm chặt cổ, nó hôn ba nó cùng khắp, nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má ba nó nữa”, “dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó” (muốn giữ ba nó ở lại), khóc mếu máo với lời dặn “ba mua cho con một cái lược, nghe ba”.

3. Ông Sáu hy sinh ở chiến trường và chuyện chiếc lược ngà

– Ông Sáu ở chiến trường không nguôi nhớ thương con, ân hận vì đã trót đánh con bé. Ông dồn tất cả tình yêu con để tự tay làm chiếc lược ngà tặng con như lời ông đã hứa lúc chia tay.

– Trước khi chết, ông Sáu vẫn cố dồn chút sức lực cuối cùng để gửi lại chiếc lược, nhờ đồng đội trao tận tay cho con gái ông.

– Bé Thu lớn lên đã đi tiếp con đường của cha như để nối dài mãi tình cha con bất tử.
Tổng kết:- Nội dung: Truyện ngắn Chiếc lược ngà đã thể hiện tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.

– Nghệ thuật: Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện, nghệ thuật miêu tả tâm lí và tính cách nhân vật…

Soạn văn Chiếc lược ngà ngắn gọn

I. Trả lời câu hỏi

Câu 1. Kể tóm tắt cốt truyện của văn bản đoạn trích. Tình huống nào đã bộc lộ sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu?

* Kể tóm tắt: Sau nhiều năm xa nhà, ông Sáu được đơn vị cho về thăm vợ con. Nhưng đứa con gái ông là bé Thu lại không nhận ra cha chỉ vì vết sẹo dài trên má của ông. Ông Sáu rất buồn bã trước sự lạnh nhạt của con gái. Trong ba ngày ở nhà, nếu ông Sáu luôn tìm cách để con gọi mình là ba, thì bé Thu lại lẩn tránh. Sau khi được bà ngoại giải thích về vết sẹo, bé Thu nhận ra ba. Cuộc chia tay của hai cha con diễn ra đầy xúc động. Sau này, ông Sáu hy sinh trong một trận càn của giặc, lúc hấp hối, ông trao cho anh Ba chiếc lược ngà mà ông làm tặng bé Thu.

* Tình huống bộc lộ sâu sắc tình cảm cha con của bé Thu: Cuộc gặp gỡ của ông Sáu và bé Thu sau nhiều năm xa cách. Nhưng bé Thu lại không chịu nhận ba, chỉ đến khi ông Sáu sắp phải trở lại chiến trường thì Thu mới nhận ra cha của mình.

Câu 2. Phân tích diễn biến tâm lý và tình cảm của bé Thu trong lần đầu gặp cha cuối cùng, khi ông Sáu được về phép. Qua đó hãy nhận xét về tính cách của nhân vật bé Thu và nghệ thuật miêu tả tâm lí của tác giả?

– Trước lúc nhận cha:

  • Lúc mới gặp ông Sáu: “Con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác lạ lùng”.
  • Nhìn vết thẹo dài trên má ông Sáu nó càng hoảng hốt, sợ hãi “mặt nó tái đi, vụt chạy rồi kêu thét lên”.
  • Suốt ba ngày, con bé bộc lộ sự bướng bỉnh, nhất quyết không gọi ông Sáu bằng ba, chỉ nói trổng (khi mời ông Sáu ăn cơm, khi muốn nhờ ông chắt nước…).
  • Hất văng ra khỏi chén cái trứng cá ông Sáu gắp cho.
  • Bị ông Sáu đánh, nó bỏ sang nhà bà ngoại.

=> Bé Thu bộc lộ sự ương ngạnh, bướng bỉnh vừa đáng giận vừa đáng thương nhưng không đáng trách.

– Khi nhận ra cha của mình:

  • Trước lúc ông Sáu đi, ba gọi tiếng ba đầu tiên, xé lòng như thét lên: “Ba…a…a… Ba!”. Tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao năm nay, tiếng ba như vỡ tung từ đáy lòng nó.
  • Nó vừa kêu “vừa chạy xô tới”, “dang tay ôm chặt cổ, nó hôn ba nó cùng khắp, nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má ba nó nữa”, “dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó” (muốn giữ ba nó ở lại), khóc mếu máo với lời dặn “ba mua cho con một cái lược, nghe ba”.

=> Tình cảm dành cho cha bị dồn nén bấy lâu nay mới có dịp được bộc lộ.

Câu 3. Tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp ở ông Sáu đối với con đã được thể hiện qua những chi tiết, sự việc nào? Điều đó bộc lộ thêm nét đẹp gì trong tâm hồn của người cán bộ cách mạng ấy.

– Trong những năm xa nhà, ông Sáu luôn nhớ con, khát khao gặp con.

– Khi được trở về thăm con: Xuồng chưa cập bến, ông Sáu đã nhảy lên bờ gọi, đưa tay đón con, rất xúc động làm vết thẹo đỏ ửng giần giật, “giọng lắp bắp, run run”.

– Khi bé Thu chạy vụt đi, hét lên hoảng hốt, sợ hãi: “nỗi đau đớn khiến mặt anh tối sầm lại trông rất đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.

– Trong ba ngày phép, càng muốn gần gũi, yêu thương con, bé Thu càng lảng tránh, lạnh lùng, vô lễ. Ông càng đau khổ hơn (tám năm mới được gặp con, những ngày phép ngắn dần mà con không chịu nhận ba, không một lần được ôm con trìu mến…)

– Lúc chia tay, ông Sáu muốn ôm hôn con nhưng sợ con không chịu, ông chỉ nhìn con bằng đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”. Khi Thu nhận cha, ông Sáu đã khóc vì sung sướng và xúc động.

– Lúc ở rừng, tại khu căn cứ: ông Sáu sung sướng khi tìm được khúc ngày (“hớt hải chạy về”, “hớn hở như trẻ con được quà”); lúc rỗi ông “cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”, khắc dòng chữ nhỏ với bao tình cảm “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”

– Lúc nhớ con, “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”, có cây lược ông càng mong gặp con.

– Trong giờ phút cuối cùng, tình cha con vẫn da diết “không đủ sức trăn trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Ông gửi cây lược cho đồng đội nhờ đưa cho con, lúc ấy mới nhắm mắt xuôi tay.

=> Ông Sáu là biểu tượng cho tình phụ tử thiêng liêng sâu đậm.

Câu 4. Truyện được kể theo lời trần thuật của nhân vật nào? Cách chọn vai kể như vậy có tác dụng gì trong việc xây dựng nhân vật và thể hiện nội dung tư tưởng của truyện?

– Truyện được kể theo lời trần thuật của nhân vật “tôi” – là đồng đội của ông Sáu, người trực tiếp chứng kiến câu chuyện của cha con ông Sáu.

– Tác dụng của việc lựa chọn vai kể:

  • Góp phần giúp cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy.
  • Nhân vật được nhìn nhận, đánh giá khách quan một cách khách quan hơn.

II. Luyện tập

Câu 1. Thái độ và hành động của bé Thu đối với ba rất trái ngược, trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà và lúc ông sắp ra đi, nhưng vẫn nhất quán trong tính cách của nhân vật.

Gợi ý:

Dù là trước hay sau khi nhận cha, bé Thu vẫn dành cho cha một tình yêu thương sâu nặng, gắn bó.

Câu 2. Viết lại đoạn truyện kể về cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu theo lời hồi tưởng của một nhân vật khác.

Gợi ý:

Hôm sau tôi theo ngoại về nhà, nhưng nhìn ba chuẩn bị xong đồ đạc chuẩn bị rời đi, tôi chỉ biết đứng nép ở một góc. Trước khi đi, ba đến bên và nói: “Thôi, ba đi nghe con!” Trong khoảnh khắc ấy, tôi thốt lên một tiếng: “Ba!” . Tôi vừa khóc vừa ôm lấy ba không muốn rời.

Trước khi đi, tôi còn đòi ba mua cho một cái lược. Trong một lần chiến đấu, ba bị bắn trọng thương và hy sinh. Bác Ba đồng đội của ba đã gặp và trao cho tôi t chiếc lược ngà – kỉ vật mà ba tôi để lại, bên trên có khắc dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.

Soạn bài Chiếc lược ngà- Mẫu 3

Câu 1.

– Kể tóm tắt cốt truyện của văn bản đoạn trích: Ông Sáu được đơn vị cho về thăm nhà. Suốt chặng đường, ông cảm thấy bồi hồi vì sắp được gặp con gái. Nhưng đến khi trở về, bé Thu lại không chịu nhận cha. Trong ba ngày ở nhà, ông luôn tìm cách để con gọi một tiếng “ba”. Nhưng Thu không chịu, còn giận dỗi bỏ sang nhà bà ngoại. Khi được bà ngoại giải thích về vết sẹo, bé Thu mới nhận ra ba. Nhưng đến lúc, ông Sáu cũng phải trở lại chiến trường.

– Tình huống đã bộc lộ sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu: Cuộc gặp gỡ của ông Sáu và bé Thu sau nhiều năm xa cách. Nhưng bé Thu lại không chịu nhận ba, chỉ đến khi ông Sáu sắp phải trở lại chiến trường thì Thu mới nhận ra cha của mình.

Câu 2.

Phân tích diễn biến tâm lý và tình cảm của bé Thu trong lần đầu gặp cha cuối cùng, khi ông Sáu được về phép:

– Trước khi nhận ra cha:

  • Lúc mới gặp ông Sáu: “Con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác lạ lùng”.
  • Nhìn vết thẹo dài trên má ông Sáu nó càng hoảng hốt, sợ hãi “mặt nó tái đi, vụt chạy rồi kêu thét lên”.
  • Suốt ba ngày, con bé bộc lộ sự bướng bỉnh, nhất quyết không gọi ông Sáu bằng ba, chỉ nói trổng (khi mời ông Sáu ăn cơm, khi muốn nhờ ông chắt nước…).
  • Hất văng ra khỏi chén cái trứng cá ông Sáu gắp cho
  • Bị ông Sáu đánh, nó bỏ sang nhà bà ngoại.

– Sau khi nhận ra cha:

  • Trước lúc ông Sáu đi, ba gọi tiếng ba đầu tiên, xé lòng như thét lên: “Ba…a…a… Ba!”. Tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao năm nay, tiếng ba như vỡ tung từ đáy lòng nó.
  • Nó vừa kêu “vừa chạy xô tới”, “dang tay ôm chặt cổ, nó hôn ba nó cùng khắp, nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má ba nó nữa”, “dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó” (muốn giữ ba nó ở lại), khóc mếu máo với lời dặn “ba mua cho con một cái lược, nghe ba”.

Nhận xét về tính cách của nhân vật bé Thu và nghệ thuật miêu tả tâm lí của tác giả:

  • Bé Thu bộc lộ sự ương ngạnh, bướng bỉnh vừa đáng giận vừa đáng thương nhưng không đáng trách.
  • Nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, tài tình.

Câu 3.

– Tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp ở ông Sáu đối với con đã được thể hiện qua những chi tiết, sự việc:

  • Trong những năm xa nhà, ông Sáu luôn nhớ con, khát khao gặp con.
  • Khi được trở về thăm con: Xuồng chưa cập bến, ông Sáu đã nhảy lên bờ gọi, đưa tay đón con, rất xúc động làm vết thẹo đỏ ửng giần giật, “giọng lắp bắp, run run”.
  • Khi bé Thu chạy vụt đi, hét lên hoảng hốt, sợ hãi: “nỗi đau đớn khiến mặt anh tối sầm lại trông rất đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
  • Trong ba ngày phép, càng muốn gần gũi, yêu thương con, bé Thu càng lảng tránh, lạnh lùng, vô lễ. Ông càng đau khổ hơn (tám năm mới được gặp con, những ngày phép ngắn dần mà con không chịu nhận ba, không một lần được ôm con trìu mến…)
  • Lúc chia tay, ông Sáu muốn ôm hôn con nhưng sợ con không chịu, ông chỉ nhìn con bằng đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”. Khi Thu nhận cha, ông Sáu đã khóc vì sung sướng và xúc động.
  • Lúc ở rừng, tại khu căn cứ: ông Sáu sung sướng khi tìm được khúc ngày (“hớt hải chạy về”, “hớn hở như trẻ con được quà”); lúc rỗi ông “cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”, khắc dòng chữ nhỏ với bao tình cảm “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”
  • Lúc nhớ con, “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”, có cây lược ông càng mong gặp con.
  • Trong giờ phút cuối cùng, tình cha con vẫn da diết “không đủ sức trăn trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Ông gửi cây lược cho đồng đội nhờ đưa cho con, lúc ấy mới nhắm mắt xuôi tay.

– Điều đó bộc lộ thêm nét trong tâm hồn của người cán bộ cách mạng ấy: Một con người giàu tình cảm, hết mực yêu thương con.

Câu 4.

– Truyện được kể theo lời trần thuật của nhân vật “tôi” – là đồng đội của ông Sáu, người trực tiếp chứng kiến câu chuyện của cha con ông Sáu.

– Việc lựa chọn vai kể góp phần giúp cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy, nhân vật được nhìn nhận, đánh giá khách quan một cách khách quan hơn.

Soạn bài Chiếc lược ngà- Mẫu 4

A. Nội dung tác phẩm Chiếc lược ngà

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là lời kể của anh Ba về tình cha con sâu sắc giữa ông Sáu và bé Thu. Ông Sáu xa nhà đi lính khi con gái tròn một tuổi. Bé Thu chưa từng gặp ba mà chỉ biết về ba qua tấm ảnh chụp chung với má. Khi trở về nhà thăm gia đình, vì ông Sáu có vết thẹo trên mặt nên bé Thu không nhận ba. Bé cư xử vô lễ và lạnh nhạt với ông Sáu vì nghĩ đây không phải ba mình. Trong bữa ăn, bé Thu hất trứng cá khiến ông Sáu tức giận và đánh con. Ngày hôm sau, trước lúc ông Sáu đi, bé Thu đã chạy đến ôm ba và bày tỏ tình cảm với ba. Hai cha con hàn gắn lại tình cảm sau nhiều năm xa cách. Sau này, ở chiến khu, ông Sáu luôn nghĩ về con gái. Ông làm chiếc lược ngà với hy vọng khi trở về ông sẽ trao tận tay cho con. Nhưng không may, ông đã hi sinh. Anh Ba thay ông Sáu trao chiếc lược cho bé Thu. Dù ông Sáu đã hy sinh nhưng với anh Ba thì “Dường như chỉ có tình cha con là không thể chết.”

B. Đôi nét về tác phẩm Chiếc lược ngà

1. Tác giả

– Nguyễn Quang Sáng (1932 – 2014) quê ở An Giang

– Ông chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ với lối viết giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc, đậm đà chất Nam Bộ.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Hoàn cảnh sáng tác: “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, thời kì kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Văn bản trong sách giáo khoa thuộc phần giữa của truyện.

b. Bố cục

3 phần:

– Phần 1 (từ đầu đến “chị cũng không muốn bắt nó về”): Ông Sáu trở về thăm nhà trong ba ngày nghỉ phép nhưng bé Thu không nhận ông là ba.

– Phần 2 (tiếp theo đến “vừa nói vừa từ từ tuột xuống”): Bé Thu nhận ra ba và cuộc chia tay của hai cha con.

– Phần 3 (đoạn còn lại): Ông Sáu hi sinh ở chiến trường và chuyện chiếc lược ngà.

c. Ý nghĩa nhan đề

– Chiếc lược ngà là chi tiết tạo nên sự phát triển của các tình tiết trong truyện, là nhịp cầu nối hiện tại với quá khứ và gắn kết các nhân vật trong tác phẩm.

– Với mỗi nhân vật, chiếc lược ngà đều có một ý nghĩa riêng:

+ Với bé Thu: món quà của ba → khao khát tình cha, nỗi mong chờ ngày đoàn tụ.

+ Với ông Sáu: vật gắn kết tình phụ tử → niềm mong chờ sum họp.

+ Với ông Ba: vật ủy thác thiêng liêng, là nhân chứng về nỗi đau thương, mất mát trong chiến tranh.

Từ đồ vật → kỉ vật → biểu tượng của tình đồng chí đồng đội, tình cha con mãnh liệt, phi thường, thiêng liêng, bất diệt trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh

→ Nhan đề góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm.

d. Tình huống truyện

Truyện đã thể hiện sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu trong hai tình huống:

– Cuộc gặp gỡ của hai cha con sau 8 năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha. Đến lúc em nhận ra cha và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi.

– Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con, nhưng chiếc lược chưa gửi đến tay con thì ông đã hi sinh.

→ Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ 2 lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha với con.

→ Tình huống truyện ở đây mang đầy kịch tính, chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ. Đó là những tình huống ngẫu nhiên song lại rất phổ biến bởi những tình huống đầy éo le này chúng ta thường gặp trong chiến tranh. Đặt các nhân vật của mình vào những tình huống ấy, nhà văn muốn khẳng định và ngợi ca tình cha con thiêng liêng, sâu nặng. Tình cảm ấy càng cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh.

e. Giá trị nội dung

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” nói về tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cha con sâu nặng, cao đẹp trong chiến tranh.

g. Giá trị nghệ thuật

– Truyện kể theo điểm nhìn của bác Ba giúp tăng tính khách quan.

– Tạo dựng tình huống bất ngờ, tự nhiên, hợp lí.

– Miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc qua suy nghĩ, hành động và lời nói.

C. Sơ đồ tư duy Chiếc lược ngà

Chiếc lược ngà - tác giả, nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý

D. Đọc hiểu văn bản Chiếc lược ngà

1. Nhân vật ông Sáu

a. Trước khi trở về thăm nhà

– Luôn nhớ về con: ở chiến khu “lần nào anh cũng bảo chị đưa con đến”

– Luôn mong được gặp con: “cái tình cha cứ nôn nao trong người anh”

b. Trong phút giây lần đầu gặp gỡ:

– Khát khao được gặp con: không chờ xuồng cập bến “nhón chân nhảy thót lên bờ”

– Xúc động trào dâng mạnh mẽ: “vết thẹo dài bên má phải lại đỏ ửng lên, giần giật, trông rất dễ sợ”, “giọng lặp bặp run run…”

– Choáng váng, bất ngờ, hụt hẫng khi con không nhận ra mình: “mặt sầm lại”, “hai tay buông thõng như bị gãy”.

c. Ba ngày phép bên con.

* Quan tâm chăm sóc con, mong mỏi con nhận cha

– Chẳng đi đâu xa, chỉ tìm cách gần gũi để được nghe một tiếng gọi “ba” của con bé.

– Cố gắng làm mọi việc từ việc “giả vờ không nghe” đến việc “dồn nó vào thế bí” (chắt nước nồi cơm).

– Cảm thông, tha thứ cho con: khi nghe con nói “trổng” với mình: quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười.

* Trong bữa ăn, khi con hất cái trứng cá được cha gắp cho, ông đã không suy nghĩ → đánh con khiến nó bỏ sang bà ngoại.

→ Bất lực, buồn bã khi tình yêu thương bị con khước từ quyết liệt.

d. Trong giờ phút chia tay.

– Muốn ôm hôn con nhưng sợ con từ chối → đành nhìn con với đôi mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu.

– Khi nghe con gọi tiếng “ba” đầu tiên → sung sướng, hạnh phúc tột độ (một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc của con)

– Luyến tiếc, nghẹn ngào, xót xa khi giây phút nhận nhau cũng là lúc phải chia xa.

e. Những ngày trở lại chiến khu.

– Ông thương nhớ con xen lẫn sự day dứt, ân hận vì đã đánh con khi nóng giận.

– Dồn tình yêu thương vào việc làm chiếc lược ngà – lời hứa với con trước lúc chia tay.

+ Tự đi tìm ngà voi rồi ngồi cưa từng chiếc răng lược khổ công như một người thợ bạc.

+ Gò lưng tỉ mẩn khắc dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu – con của ba” → Hạnh phúc khi làm theo mong ước của con → Gửi gắm tình yêu thương vào chiếc lược ngà → Luôn khát khao đoàn tụ

→ Tình yêu thương con đã khiến người cha từ một chiến sĩ trở thành người nghệ sĩ với tác phẩm vô giá về tình phụ tử.

– Trước khi hi sinh, ông Sáu móc cây lược ra trao vào tay người bạn chiến đấu; chỉ khi nhận được lời hứa “mang về trao tận tay cho cháu”, người cha đó mới “nhắm mắt”.

→ Tình phụ tử mãnh liệt, phi thường, thiêng liêng, bất diệt.

2. Nhân vật bé Thu

a. Khi chưa nhận ra cha

– Trong cuộc gặp gỡ ở bến xuồng: Thu ngạc nhiên, hoảng sợ trước người đàn ông nhận là cha mình (…giật mình, tròn mắt nhìn…)

– Trong ba ngày ông Sáu nghỉ phép:

+ Luôn xa lánh trong lúc ông Sáu tìm cách vỗ về.

+ Nói trống không khi má bắt gọi ông Sáu vào ăn cơm.

+ Không chịu gọi “ba” ngay cả khi bị dồn vào thế bí (phải chắt nước ở nồi cơm đang sôi)

+ Hất cái trứng cá ông Sáu gắp cho trong bữa cơm → bị đòn → không khóc, chạy sang nhà ngoại, cố ý khua dây xuồng kêu to.

→ Bé Thu từ chỗ ngờ vực, lảng tránh, từ chối sự chăm sóc đã chuyển thành phản ứng quyết liệt với ông Sáu.

→ Đây là phản ứng tự nhiên khi thấy một người nhận là cha khác với người cha trong ảnh → không đáng trách → biểu hiện của tình yêu thương cha.

b. Khi nhận ra cha

– Trong đêm bỏ về nhà bà ngoại: Thu được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó: “nghe bà kể chuyện, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng thở dài như người lớn” → nghi ngờ được giải tỏa → ân hận, hối tiếc.

– Trong giờ phút chia tay:

+ Muốn nhận ba nhưng không dám lại gần: “vẻ mặt sầm lại buồn rầu… nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.

+ Xúc động khi bắt gặp ánh nhìn của cha: “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”.

+ Nó cất tiếng gọi “ba” đầu tiên: “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người”.

+ Bày tỏ tình yêu thương mãnh liệt: “nói trong tiếng khóc”, “hôn ba nó cùng khắp…, hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó”.

+ Tìm mọi cách níu giữ ba ở lại bằng cả lời nói và hành động (“không cho ba đi nữa…”; “hai tay nó siết chặt lấy cổ” … “dang cả 2 chân rồi câu chặt lấy ba nó; đôi vai nhỏ bé của nó run run”).

→ Thu là cô bé cá tính, bản lĩnh, hồn nhiên, ngây thơ và có tình yêu thương cha sâu sắc.

→ Qua cách miêu tả chứng tỏ tác giả am hiểu tâm lí trẻ thơ, yêu mến, tôn trọng tình cảm của các em nhỏ và đồng cảm với cảnh ngộ éo le của hai cha con.

E. Bài văn phân tích Chiếc lược ngà

Nguyễn Quang Sáng viết truyện “Chiếc lược ngà” năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì chống Mĩ. Là một nhà văn quê ở miền Tây Nam Bộ, hầu như ông chỉ viết về cuộc sống và con người của quê hương trong chiến tranh và sau hoà bình. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con của người chiến sĩ cách mạng.

Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến, lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Mãi đến khi nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận anh Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến anh không giống trong bức ảnh chụp. Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, anh Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh trao cây lược ngà cho người bạn, với ý nhờ mang về quê trao tận tay con gái của mình.

Tình cha con sâu sắc được tác giả thể hiện qua hai tình huống: Tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Thu đối xử với cha như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm riết lấy cha, thể hiện tình cảm mãnh liệt thì anh Sáu lại phải ra đi làm nhiệm vụ. Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình yêu thương, mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng anh đã hi sinh và không kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha đối với con.

Sau nhiều năm xa cách, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Đến lúc được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên anh Sáu không kìm được niềm vui khi nhìn thấy bé Thu: “Cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh… Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! Con!”. Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực. Anh Sáu càng muốn gần con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh.

Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên được tác giả miêu tả ở hai thời điểm trước và sau khi nhận ra cha. Tâm lí và thái độ của bé Thu được tác giả thuật lại rất sinh động qua hàng loạt các chi tiết vừa cảm động, vừa buồn cười: Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức ngạc nhiên và sợ hãi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”. Khi má bảo gọi cha vào ăn cơm, nó nhất quyết không chịu. Má ép quá, bé Thu chỉ gọi trống không: Vô ăn cơm! Kể cả lúc má đi vắng, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ anh Sáu chắt bớt nước nồi cơm đang sôi mà cũng vẫn nói trổng, nhất định không gọi là cha. Anh Sáu lặng im xem nó làm cách nào. Bé Thu lấy vá (muôi) múc nước ra, vừa múc vừa lầu bầu tức giận. Bữa cơm, anh Sáu âu yếm gắp cho con cái trứng cá vàng ươm. Bé Thu bất ngờ lấy đũa hất rơi xuống đất. Anh Sáu không nén được tức giận, đánh con một cái vào mông. Bé “lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm” bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích kêu rộn ràng để tỏ ý bất bình.

Sự ương ngạnh của bé Thu đúng tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quá nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu – người đàn ông trong tấm hình chụp chung với má.

Khi đã nhận ra cha, cảm xúc và hành động của bé Thu biểu hiện thật mãnh liệt, khác hẳn lúc trước. Ba ngày nghỉ phép đã hết. Trước lúc lên đường, anh Sáu đang bịn rịn chia tay thì bất chợt bé Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa… Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Điều gì đã dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong thái độ cùa bé Thu? Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi vẻ mặt của ba là do giặc Pháp bắn bị thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bé Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử lạnh nhạt của mình đối với ba: “Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”.

Vì thế, trong phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người cha xa cách bấy lâu đã trào dâng mạnh mẽ khiến bé Thu bối rối, cuống quýt. Chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu, nhiều người không cầm được nước mắt. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho bác Ba thật sự xúc động. Diễn biến câu chuyện được trần thuật theo lời bác Ba, người bạn thân thiết của ông Sáu. Bác Ba đã chứng kiến tận mắt cảnh ngộ éo le của cha con và trong lòng bác dâng lên một nỗi xót xa. Bác bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm lấy trái tim mình.

Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng.

Sức hấp dẫn của truyện “Chiếc lược ngà” toát ra từ cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ, cùng những yếu tố bất ngờ mà hợp lí. Chuyện bé Thu lâu không nhận cha, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy cảm động với cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ đã gây được hứng thú cho ngườ đọc, nhất là khi hiểu được diễn biến lôgic ở bên trong các sự việc, hành động có vẻ mâu thuẫn.

Tình cảm cha con sâu nặng đã được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến anh Sáu về phép thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi anh Sáu vào căn cứ kháng chiến trong rừng sâu.

Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái.

Kiếm được một khúc ngà voi nhỏ, anh Sáu mừng rỡ vô cùng. Anh dành hết tâm trí vào việc làm cây lược: Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.

Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Nhưng rồi một tình cảnh đau thương lại đến với cha con anh Sáu. Anh đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Những lời kể lại của bác Ba, người trong cuộc, đã làm nổi bật giá trị thiêng liêng bền vững của tình cha con và tình đồng chí của những chiến sĩ cách mạng.

Truyện “Chiếc lược ngà” có những đặc điểm khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng vẫn tự nhiên, hợp lí. Giọng kể mộc mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ. Đặc sắc của truyện ngắn này còn thể hiện ở ngòi bút miêu tả tâm lí, đặc biệt là tâm lí trẻ em rất tinh tế và chính xác. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn với con người và cuộc đời.

Một điểm đáng chú ý nữa và cũng là điều góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc lựa chọn nhân vật kể chuyện. Người kể chuyện trong vai một người bạn chiến đấu thân thiết của ông Sáu không chỉ chứng kiến và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Qua những quan sát và cảm xúc của người kể, các chi tiết, sự việc và nhân vật trong truyện đều được phản ánh chân thực, khắc hoạ rõ nét, góp phần nêu bật nội dung tư tưởng của tác phẩm.

Truyện “Chiếc lược ngà” đã diễn tả một cách xúc động tình cảm thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và ngời sáng. Câu chuyện không chỉ nói lên tình cha con thiêng liêng mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Vì vậy mà ý nghĩa tố cáo, lên án chiến tranh xâm lược của truyện khá sâu sắc.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Soạn bài Chiếc lược ngà” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 10/2024!