Updated at: 02-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Soạn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính” chuẩn nhất 04/2024.

Soạn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 1

Video hướng dẫn giải

Câu 1

Video hướng dẫn giải

Trả lời câu 1 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

a. Nhan đề

– Bài thơ có một nhan đề dài và rất độc đáo: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.

– Nhan đề đề cập đến một đề tài hết sức đời thường, gần gũi với cuộc sống của người lính trên đường ra trận. Đó là chất thơ của hiện thực khắc nghiệt, chất lãng mạn của tuổi trẻ trước vận mệnh vinh quang: chiến đấu để giải phóng quê hương, chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.

-Khi đọc nội dung, người đọc chắc hẳn biết được đó là một “bài thơ”. Vậy mà Phạm Tiến Duật lại đưa vào nhan đề là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Hai chữ “bài thơ” đã cho ta thấy rõ cách khai thác, cách nhìn hiện thực cuộc sống của tác giả. Không chỉ viết về những chiếc xe không kính hay hay hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà chủ yếu nói về chất thơ từ hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ của những người lính lái xe.

– Hình ảnh những chiếc xe không kính độc đáo: Những chiếc xe không kính vốn không phải vì không có kính, mà trải qua những năm tháng bom rơi, bão đạn khiến kính của chúng bị vỡ đi. Không chỉ một chiếc xe mà là “tiểu đội” – đơn vị quân đội nhỏ nhất: Đây không phải là một trường hợp hy hữu mà là hoàn cảnh chung của những chiếc xe vận chuyển trên tuyến đường Trường Sơn. Tiểu đội xe không kính được tác giả khắc họa cũng chỉ là một trong rất nhiều tiểu đội như vậy.

b. Hình ảnh những chiếc xe không kính là hình ảnh độc đáo vì:

– Những hình ảnh trong thơ thường là những hình ảnh đẹp, sáng ngời, hào nhoáng ít ai miêu tả những chiếc xe không kính.

– Những chiếc xe không kính diễn tả sự thật trần trụi, khốc liệt của chiến tranh.

– Những chiếc xe bị bom đạn phá hủy, nhưng không vì thế mà dừng bước. Chúng vẫn hăng hái lên đường, cùng những người chiến sĩ vào miền Nam giải phóng đất nước.

Câu 2

Video hướng dẫn giải

Trả lời câu 2 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

– Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ:

+ Tư thế ung dung, lạc quan yêu đời trước hoàn cảnh gian nguy càng tôn thêm phẩm chất của người lính:

Không có kính, ừ thì có bụi,

        Bụi phun tóc trắng như người già.

                 Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

   Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

+ Tình cảm đồng đội thắm thiết:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

   Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

+ Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam:

       Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

=> Bức chân dung của người lính lái xe trong bài thơ là bức chân dung tràn đầy sức sống, bức chân dung của niềm tin thắng lợi.

* Tinh thần lạc quan:

– Họ phải đối mặt với khó khăn khi chiếc xe không có kính: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”.

– Nhưng thái độ trước những khó khăn: “không có… ừ thì” cho thấy một thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn của người lính.

– Hình ảnh người lính “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hay “gió lùa khô mau thôi”: cho thấy một tinh thần vui vẻ, yêu đời bất chấp những gian khổ phải đối mặt.

* Tình đồng đội ngắn bó:

– Họ “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết phản ánh chân thực tình cảm của người lính, qua cái bắt tay người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, động lực để tiếp tục những chặng đường phía trước.

– “Bếp Hoàng Cầm dựng đứng giữa trời”: Cuộc chiến tranh khốc liệt khiến họ phải dựng bếp ăn giữa trời, cuộc sống sinh hoạt hàng ngày vất vả.

– “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Họ gắn bó giống như những người thân trong gia đình, gắn bó với nhau thân thiết như tình cảm ruột thịt.

– Trên hành trình không ấy, họ chỉ có thể nghỉ ngơi trên những chiếc võng.

– Những vẫn lạc quan: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”: Điệp từ “lại đi” giống như nhịp bước hành quân của người lính trên đường hành quân.

– Hình ảnh “trời xanh thêm”: tinh thần lạc quan, yêu đời hướng về tương lai phía trước.

* Ý chí, tình yêu dành cho tổ quốc:

– Hai câu đầu vẫn là những khó khăn từ những chiếc xe: không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước…

– Nhưng khó khăn ấy chẳng thể cản nổi ý chí của người lính: xe vẫn cứ chạy vì miền Nam phía trước, vì niềm tin tất thắng và nước nhà sẽ thống nhất.

– Chỉ cần trong xe có một trái tim: hình ảnh “một trái tim” là hình ảnh hoán dụ, chỉ người lính. Trái tim họ luôn căng tràn sự sống, cũng như sôi sục lòng căm thù giặc sâu sắc. Trái tim còn tượng trưng cho nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.

Câu 3

Video hướng dẫn giải

Trả lời câu 3 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

– Ngôn ngữ giọng điệu của bài thơ đã góp phần quan trọng trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn.

– Giọng thơ ngang tàn có cả chất nghịch ngợm phù hợp với đối tượng miêu tả là những chàng trai trong chiếc xe không có kính.

– Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, rất tự nhiên nhưng vẫn rất thú vị, rất thơ.

Câu 4

Video hướng dẫn giải

Trả lời câu 4 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

* Thế hệ trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ:

– Tư thế ung dung, chủ động, lạc quan, yêu đời.

– Coi thường mọi khó khăn, thiếu thốn, hiểm nguy.

– Ý chí chiến đấu vì sự thống nhất của đất nước.

So sánh: 

– Giống nhau: lí tưởng chiến đấu cao cả, ý chí vượt lên mọi khó khăn, thiếu thốn, gian khổ, tinh thần lạc quan, tình đồng đội sâu sắc. Họ đều mang trong mình tình yêu dành cho quê hương đất nước, tinh thần chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp, tình đồng đội gắn bó sâu sắc.

– Khác nhau:

+ Bài thơ về tiểu đội xe không kính khắc họa hình ảnh người lính trẻ trung, tinh nghịch, lạc quan, yêu đời mang phong cách của tầng lớp trí thức vừa rời ghế nhà trường, xếp bút nghiên tham gia chiến đấu.

+ Đồng chí lại vẽ lên hình ảnh những người lính đầy tình cảm, mang hơi thở từ những người nông dân đi ra từ mảnh đất miền trung nghèo khó, bởi vậy mà họ trầm lắng, suy tư hơn.

Luyện tập

– Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả rất cụ thể, sinh động.

– Không có kính chắn, người lính lái xe trên đường ra mặt trận đa có những cảm giác, ấn tượng rất đặc biệt, thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ hai.

– Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng: gió trên đường đi ùa vào buồng lái, khiến đôi mắt người chiến sĩ trở nên cay. Tác giả sử dụng từ “đắng” để diễn tả cảm giác ấy, khiến cảm giác cay vì gió ở mắt được vị giác hóa, chân thực hơn.

– Thấy con đường chạy thẳng vào tim, sao trời và đột ngột cánh chim như sa như ùa vào buồng lái: Giữa người lính lái xe và những sự vật, khung cảnh trên đường không có rào cản. Mọi thứ trở nên gần hơn, rõ nét hơn.

=> Phép phóng đại, ẩn dụ: chạy thẳng vào tim, như sa như ùa vào buồng lái khiến không gian trong xe và ngoài xe như hòa vào làm một, người lính và chiếc xe không kính có thêm những người bạn đồng hành.

Gợi ý:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”

– Những chiếc xe không kính khiến cho những khó khăn càng thêm khắc nghiệt hơn:

  • Gió vào xoa mắt đắng: những chiếc xe không kính khiến cho bụi đường bay vào mắt – từ “đắng” được sử dụng theo lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác làm nổi bật sự khắc nghiệt về thể xác.
  • Con đường chạy thẳng vào tim, sao trời, cánh chim. Tất cả như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Không có kính khiến mội khoảng cách bị xóa bỏ.
  • Nhưng người lính vẫn không sợ hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.

Bố cục

Video hướng dẫn giải

Bố cục: (3 phần)

– Phần 1 (hai khổ thơ đầu): Tư thế hiên ngang ra trận của những người lính lái xe tiểu đội xe không kính.

– Phần 2 (bốn khổ thơ tiếp theo): Tinh thần dũng cảm, lạc quan của những người lính.

– Phần 3 (khổ thơ cuối): Ý chí quyết tâm chiến đấu vì miền Nam.

ND chính

Video hướng dẫn giải

Bài thơ của Phạm Tiến Duật khắc họa một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.

Soạn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 2

A. Nội dung tác phẩm
Bài thơ tập trung khắc họa:

– Hình tượng những chiếc xe không kính.

– Hình tượng những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn: ung dung, hiên ngang, dũng cảm, lạc quan…

Tác giả tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Ngữ văn lớp 9 (ảnh 2)
B. Đôi nét về tác phẩm
1. Tác giả
– Phạm Tiến Duật (1941- 2007)

– Quê quán: huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ

– Sự nghiệp sáng tác:

+ Năm 1964: ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tuy vậy, ông không tiếp tục với nghề mình đã chọn mà quyết định lên đường nhập ngũ.

+ Năm 1970: ông đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, ngay sau đó Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam

+ Chiến tranh kết thúc, ông trở về làm tại ban văn nghệ, Hội nhà văn Việt Nam và là Phó trưởng Ban Đối ngoại Nhà văn Việt Nam.

+ Năm 2001: ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật

+ 19-11-2007: ông được chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trao tặng Huân chương lao động hạng Nhì.

+ Năm 2012: ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

+ Các tác phẩm tiêu biểu: “Vầng trăng quầng lửa”, “Nhóm lửa”, “Tiếng bom và tiếng chuông chùa”.

+ Phong cách sáng tác: thơ của Phạm Tiến Duật được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng: giọng điệu rất sôi nổi của tuổi trẻ vừa có cả sự ngang tàng tinh nghịch nhưng lại vô cùng sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát, tiêu biểu là bài “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”.

2. Tác phẩm

a, Hoàn cảnh sáng tác

– Bài thơ viết năm 1969, trong thời kì kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt: Mĩ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bom trên con đường chiến lược Trường Sơn. Trong khi đó, những đoàn xe vận tải vẫn băng ra chiến trường vì Miền Nam phía trước. Tác giả là người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.

– Tác phẩm in trong tập “Vầng trăng – Quầng lửa”.

b, Bố cục

Chia làm 4 đoạn:

– Đoạn 1 (Khổ 1+2): Tư thế thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe không kính.

– Đoạn 2 (Khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

– Đoạn 3 (Khổ 5+6): Tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của người lính.

– Đoạn 4 (Khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam.

c, Ý nghĩa nhan đề

– Nhan đề bài thơ dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc ở sự độc đáo của nó.

– Nhan đề làm nổi bật hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính.

– Hai chữ “bài thơ” nói lên cách khai thác hiện thực: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính và hiện thực chiến tranh mà chủ yếu khai thác chất thơ của hiện thực ấy. Đó là chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam hiên ngang, dũng cảm.

d, Giá trị nội dung

– Bài thơ khắc họa nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời kì kháng chiến chống Mĩ. Họ ung dung, hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, có tinh thần đồng chí đồng đội và một ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam.

e, Giá trị nghệ thuật

– Thể thơ tự do

– Điệp từ, điệp cấu trúc câu

– Ngôn ngữ, giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên khoẻ khoắn, tinh nghịch.

C. Đọc hiểu văn bản
1. Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính

– 2 câu thơ đầu: nhấn mạnh tư thế ung dung của người lính, đường hoàng đĩnh đạc, dám nhìn thẳng vào khó khăn gian khổ không hề run sợ né tránh

– 4 câu thơ tiếp theo:

+ Phép nhân hóa “gió vào xoa”, “con đường chạy”, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “mắt đắng”

→ Tả thực cảm nhận của người lính với thế giới bên ngoài

+ “Thấy con đường chạy thẳng vào tim” → tốc độ trên chiếc xe đang lao vun vút ra mặt trận.

→ Con đường ấy còn là con đường giải phóng miền Nam, con đường của trái tim nồng nàn yêu nước.

→ Chiến tranh tuy khốc liệt nhưng người lính vẫn cảm nhận bằng một tâm hồn trẻ trung đầy lãng mạn, qua khung cửa, mọi vật dường như cũng muốn theo người lính ra chiến trường. Đây chính là chất thơ của cuộc chiến đấu.

2. Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

– 2 câu thơ đầu khổ 3 + 2 câu thơ đầu khổ 4:

+ Người lính phải đối mặt với bao khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết ở Trường Sơn: “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối”

+ Nhưng sáng ngời ở họ vẫn là sự anh dũng đón nhận những khắc nghiệt “không có… ừ thì”: thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy gian khó, coi đó như một yếu tố tất yếu trong cuộc sống chiến đấu

– 2 câu thơ cuối khổ 3 + 2 câu thơ cuối khổ 4:

+ Người lính đối mặt với khó khăn gian khổ bằng giọng cười “ha ha”.

→ Tinh thần lạc quan

+ Các từ láy tượng hình, tượng thanh “ha ha”, “phì phèo” ẩn dụ thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của các anh.

→ Đây là vẻ đẹp trong tâm hồn các anh, là chất thơ vút lên từ hiện thực chiến đấu thật đáng ngợi ca và trân trọng.

3. Tình đồng chí, đồng đội thắm thiết

– 4 câu thơ khổ 5:

+ “Đã về đây họp thành tiểu đội” → Những chiếc xe từ gian khổ hiểm nguy cùng chung một nhiệm vụ nên đã tập hợp thành “tiểu đội xe không kính”.

+ “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết chân thực nhưng rất hóm hỉnh, qua cái bắt tay, người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, trao cho nhau tình đồng chí, đồng đội thắm thiết

– 2 câu thơ đầu khổ 6:

+ “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”: chiến tranh buộc họ phải dựng bếp ăn giữa “trời”, nhưng họ vẫn ung dung và coi đó như một lẽ tự nhiên.

+ “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Chính tình đồng chí, đồng đội đã hóa gia đình, cách người lính lái xe định nghĩa về gia đình thật giản dị và độc đáo.

→ Hai tiếng “gia đình” thật thiêng liêng chan chứa tình cảm, họ truyền cho nhau sức mạnh để chiến đấu

– 2 câu thơ cuối khổ 6:

+ Điệp ngữ “lại đi” kết hợp với nhịp thơ: nhịp bước hành quân của các anh đến với những chặng đường mới.

+ Hình ảnh “trời xanh thêm”: ý nghĩa tượng trưng sâu sắc thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, chan chứa hi vọng, đó còn là hoán dụ chỉ hòa bình

4. Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam

– 2 câu đầu: Vẫn là những khó khăn nhưng giờ đây được tăng thêm gấp bội “không kính”, “không đèn”, “không mui xe”, “thùng xe có xước”: khó khăn tăng thêm như cản đi bước chân của người chiến sĩ

– 2 câu cuối

+ Lời khẳng định: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”

→ khẳng định chắc nịch bất chấp mọi gian khổ, khó khăn

+ “Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Hình ảnh “trái tim”:

hoán dụ → người lính lái xe nồng nàn yêu nước và sục sôi căm thù quân xâm lược

ẩn dụ → nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thành, dũng cảm.

D. Sơ đồ tư duy
Tác giả tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Ngữ văn lớp 9 (ảnh 1)

Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính năm 2021

Dàn ý chi tiết Bài thơ về tiểu đội xe không kính
1. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả: Phạm Tiến Duật là nhà thơ lớn, có nhiều sáng tác, trưởng thành trong đội ngũ các nhà thơ thời kháng chiến chống Mĩ.

– Giới thiệu tác phẩm: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác năm 1969 và được in trong tập Vầng trăng quầng lửa năm 1970.

2. Thân bài:

a, Biểu tượng chiếc xe không kính

– Đoàn xe là sự tiếp tế của hậu phương cho tiền tuyến

+ Lí do xe không có kính: vì bom đạn của kẻ thù bắn phá làm vỡ hết kính.

– Là biểu tượng cho chiến tranh khốc liệt, cho khó khăn gian khổ: đoàn xe chịu gió lùa, bom rơi, bụi đường, mưa giông; xe không có kính, không đèn, không có mui xe, chiếc xe xây xước như một người lính bị thương nhưng vẫn băng băng chạy.

– Hình ảnh xe không có kính là hiện thực tàn khốc, qua đó làm tôn lên sự anh hùng của con người trong chiến tranh.

b, Hình ảnh người lính lái xe

– Tư thế hiên ngang, bất khuất: ung dung, nhìn thẳng ⇒ coi thường khó khăn, nguy hiểm.

+ Điệp từ “nhìn”: khí phách kiên cường, như thách đố với khó khăn.

– Thái độ, tinh thần lạc quan, bông đùa với những khó khăn:

+ Bụi phun vào tóc, vào mặt là một trò gây cười, mưa ướt áo cứ đi tiếp vì gió lùa áo khô nhanh thôi, xe không kính cũng có cái hay đó là tầm nhìn rộng hơn, thấy được con đường “chạy thẳng vào tim”, thấy sao trời gần hơn “ùa vào buồng lái”.

+ Điệp từ “ừ thì”: như 1 cái tặc lưỡi, chép miệng đồng thuật, coi mọi khó khăn là chuyện nhỏ.

– Thái độ lạc quan, yêu đời, tự tin có chút bướng bỉnh, ngang ngạnh; hình ảnh người lính lái xe hiện lên vừa đáng yêu vừa đáng nể.

– Tình đồng đội:

+ Tiểu đội xe: là “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gặp nhau.

+ Tình đồng đội: những cái bắt tay qua “cửa kính vỡ rồi”, là dựng bếp lửa giữa trời, cùng ăn cùng ca hát, cùng mắc võng ngủ trong rừng.

– Từ trong khó khăn, người lính từ mọi miền xa lạ trở thành “gia đình” của nhau.

– Niềm tin vào chiến thắng:

+ Điệp từ “lại đi”, lí do “vì miền Nam phía trước” : Không gì ngăn cản được các anh đến chi viện cho chiến trường miền Nam.

+ Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” và hoán dụ “trong xe có một trái tim”: tình yêu thương dành cho miền Nam, cho Tổ quốc, là niềm tin và chiến thắng, vào tự do.

3. Kết bài:

– Nội dung: Bài thơ khắc họa xuất sắc hình ảnh các chiến sĩ lái xe, tái hiện lại chiến tranh tàn khốc.

– Nghệ thuật: giọng thơ vui tươi, ngôn ngữ giản dị; sử dụng điệp từ, phép đối giữa hiện thực khốc liệt với thái độ của người lính làm tôn lên vẻ đẹp hình tượng người lính.

Top 21 bài Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất (ảnh 3)

Bài văn mẫu Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 1
Thời kháng chiến chống Mĩ thấy thế mà cam go lắm, ác liệt lắm. Vậy mà Phạm Tiến Duật lại là nhà thơ trẻ tài cao trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ của ông có giọng điệu sôi nổi trẻ trung hồn nhiên tinh nghịch và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính in trong tập Vầng trăng quầng lửa năm 1969 là bài thơ hay độc đáo về hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn hiên ngang tinh thần lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Mỗi đề tài đều mang một nét hay một nét độc đáo. Người viết đề tài nào cũng phải dành tình yêu và sự hiểu biết của mình vào thì mới thành công. Phạm Tiến Duật nhà thơ trẻ tuổi tài cao chọn đề tài người lính trong thời kháng chiến chống Mĩ. Có thể nói đó là mảng đề tài hay và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ có cách viết mới mẻ độc đáo rất cuốn hút người đọc, người nghe. Đó là hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn vì mục đích tiến về Miền Nam thân yêu ruột thịt.Như tựa đề bài thơ, phần nào Phạm Tiến Duật giúp chúng ta hiểu rõ nội dung là miêu tả về hình ảnh những chiến xe không kính vẫn băng băng trên đường Trường Sơn.

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

Nhiều từ “không” được lặp đi lặp lại trong dòng thơ mở đầu như một là một lời khẳng định: xưa kia xe vẫn có kính, nó vẫn là chiếc xe lành lặn đẹp đẽ. Nhưng hôm nay “xe không có kính” vì “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh chống Mĩ ấy tàn khốc lắm, ác liệt lắm đã làm những chiếc xe rơi vỡ mất đi nhiều phụ tùng

“Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước”

Đúng như vậy đó, chiếc xe ấy chẳng những “không có kính” rồi xe “không có đèn”. Cụm từ “không có” cứ thế mà lặp đi lặp lại để thấy chính chiến tranh đã gây ra bao thiệt hại về tài sản. Dường như tác giả Phạm Tiến Duật cũng dành sự xót thương cho hình ảnh chiếc xe trên đường Trường Sơn. Nó vẫn là con chiến mã quan trọng, là một anh hùng thầm lặng cho những người lính vì mục đích tiến về Miền Nam thân yêu ruột thịt.Nếu nhắc đến hình ảnh những chiếc xe không kính trên tuyến đường Trường Sơn đã làm người đọc xúc động như thế thì hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn lại mạnh mẽ và lạc quan đáng khâm phục

 

Video bài văn mẫu Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính
“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Cụm từ “ung dung” vừa diễn tả hành động lại vừa bộc lộ trạng thái rất tự tại rất thoải mái. Những người lính trẻ cứ như đang tận hưởng tiết trời mát mẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Họ luôn “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” một cái nhìn đầy lạc quan đầy niềm tin và hi vọng. Đắt giá nhất là cụm từ “nhìn thẳng” được tác giả sử dụng như một lời khẳng định: dù có bất kì chuyện gì xảy ra những người lính ấy vẫn luôn luôn mạnh mẽ tiến về phía trước về Miền Nam yêu thương.

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái.”

Một khung cảnh hiện lên quá hoàn hảo dưới ngòi bút viết như họa của Phạm Tiến Duật. Khung cảnh ấy có gió, có cánh chim chiều, và có cả ánh sao đêm,… Với hình ảnh nhân hóa “gió vào xoa mắt đắng”, liệu có ai đặt câu hỏi rằng tại sao tác giả lại sử dụng như thế? Vì xe không có kính mà những người lính lại chạy xe xuyên đêm nên cảm giác “ đắng” như thế ấy! Họ luôn ngày đêm nỗ lực chạy thật nhanh thật nhanh tiến về Nam. Mỗi con đường xe chạy qua đều in sâu trong tim và chứa chan đầy tình cảm. Các chữ “ như sa, như ùa” đã cho ta thấy được tốc độ chạy thật phi thường của những chiếc xe không kính, lướt nhanh qua bom đạn dày đặc.Xe không kính làm các anh chiến sĩ lái xe không chỉ chịu “gió xoa mắt đắng” mà có có “bụi”,”có mưa”. Ôi! Gian khổ biết bao

“Không có kính ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

Biết bao nỗi cực nhọc mà những người lính ấy phải gánh chịu. Từ “ừ” tác giả vang lên một cách đầy thách thức, thách thức khó khăn mà mình đang gánh chịu. Họ “ừ” một cách hiên ngang tràn đầy hi vọng về ngày mai tươi sáng. Dọc tuyến đường Trường Sơn ngày ấy có bom có gió có bụi. “Bụi phun tóc trắng như người già” với những từ ngữ gợi tả đủ để ta mường tượng ra cảnh tượng ấy đáng thương như thế nào! Chúng ta phải biết trân trọng, phải biết ơn những gì mà các anh chiến sĩ ngày ấy đã làm cho chúng ta hôm nay.Ngày hôm nay, khi đi trên đường nếu mưa ta còn cảm thấy vô cùng cực nọc dù xe có đủ mọi phụ tùng. Vậy mà trong thời khắc chiến tranh cam go ấy, xe không kính, không đèn, phải chịu đựng gió, bụi, bom giật, bom rung,..

Nhiệt tình cách mạng của người lính không còn là trừu tượng nữa mà được tính bằng những cung đường “lái trăm cây số nữa”. Tác giả sử dụng từ chỉ số lượng “ trăm cây số” để chỉ còn đường ấy dù có xa dù có cách trở thì họ vẫn băng băng về trước đầy hiên ngang. Cung đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu. Câu thơ bảy từ mà có đến sáu thanh bằng diễn tả cái phơi phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!”Con đường phía trước còn dài còn khó khăn chồng chất, nhưng tinh thần hiên ngang lạc quan và vui vẻ của các anh thật mạnh mẽ. Các anh vẫn tếu táo, vẫn hồn nhiên

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây hợp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”

Sau những ngày tháng lái xe gian khổ giữa rừng Trường Sơn phải chịu mưa, gió, bụi, bom đạn,… Hôm nay họ đã có thể gặp lại đồng đội. Những cái “bắt tay” vội vàng nhưng ấm nồng tình đồng chí đồng đội. Cái “bắt tay” như tiếp thêm sức mạnh luôn tiến về phía trước dù có khó khăn và thử thách.Thời chiến tranh luôn luôn gian khó, họ là những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn kiên trung bất khuất. Con đường giữa rừng núi ấy gặp lại anh em, cùng dựng nồi nấu bếp ăn một chén cơm mà ấm tình đồng đội

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi lại đi trời xanh thêm.”

“Bếp Hoàng Cầm” là bếp dã chiến của bộ đội được đặt dưới lòng đất, khi đun khói tản ra địch sẽ không phát hiện. Mọi thứ đều gian khổ như thế ấy nhưng tinh thần họ vẫn rất vui vẻ, lạc quan. Vẫn “dùng chung bát đũa” và xem nhau là đại gia đình lớn, là anh em ruột thịt. Với hình ảnh ẩn dụ “ xanh thêm” và nghệ thuật điệp từ “lại đi” như một lời cỗ vũ, một lời động viên các anh hãy luôn mạnh mẽ kiên cường tiến về phía trước. Rồi cũng sẽ có ngày tìm thấy màu xanh hi vọng màu xanh hòa bình và độc lập!Hai câu thơ cuối bài là hai câu thơ đắt giá mà Phạm Tiến Duật viết nên một niềm hi vọng cháy bỏng dành cho các anh lái xe trên tuyến đường Trường Sơn anh dũng, lạc quan:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

“Trái tim” ấy chính là hình ảnh hoán dụ đầy yêu thương. Trái tim nhỏ của từng chiến sĩ tích góp thành một trái tim lớn hướng trọn về Miền Nam thân yêu ruột thịt. Nhưng trái tim ấy cũng chất chứa bao nỗi căm hờn, phẫn uất? Họ căm ghét chiến tranh tàn khốc đã gây ra bao nỗi khốn cùng cho nhân dân, cho những người lính không ngại khó khăn vất vả. Đó chính là trái tim có tình yêu và cả lòng căm hận rất sâu sắc. Với ngòi bút tinh tế sâu sắc và cách dùng từ độc đáo đã góp phần làm hình ảnh mà tác giả muốn truyền tải càng rõ nét hơn trong lòng độc giả.Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật qua ngòi bút tinh tế, hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ,… đã giúp hình ảnh người lính lái xe trên đường Trường Sơn càng hiên ngang dũng cảm. Họ là những con người kiên cường, bất khuất dù khó khăn gian khổ. Bài thơ đã tái hiện lại một cách đầy sống động về thời kháng chiến chống Mĩ oanh liệt trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử và những con người dũng cảm, lạc quan mãi mãi đi vào lịch sử thơ ca thời kháng chiến chống Mĩ!

Bài văn mẫu Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính – mẫu 2
“Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn

Hai đứa ở hai đầu xa thẳm

Đường ra trận mùa này đẹp lắm

Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây…”

(Trường Sơn đông, Trường Sơn tây)

Năm 1970, tập thơ Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật ra đời. Tiếng thơ của người chiến sĩ hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn cất lên hào hùng, trẻ tráng và hồn nhiên kì lạ. Thơ Phạm Tiến Duật thể hiện tình cảm yêu nước và chí khí anh hùng của thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống Mĩ qua những hình ảnh cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Lửa đèn, Trường Sơn đông, Trường Sơn tây, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em, Cô thanh niên xung phong,… là những bài thơ rất nổi tiếng của chàng lính trẻ làm thơ này.Bài thơ về tiểu đội xe không kính được anh viết vào năm 1969 – khi cuộc chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Máy bay giặc Mĩ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống con đường chiến lược mang tên con đường Hồ Chí Minh. Các trọng điểm mịt mù lửa khói suốt đêm ngày. Những đoàn xe vận tải quân sự vẫn nối đuôi nhau đi lên phía trước. Bài thơ đã ghi lại những nét ngang tàng, dũng cảm và lạc quan của người chiến sĩ lái xe trong binh đoàn vận tải quân sự, qua đó ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đánh Mỹ.Bài thơ làm hiện lên chiếc xe không kính đang vượt qua bom đạn băng băng tiến ra tiền phương. Một hình tượng thật độc đáo vì xưa nay ít có, ít thấy loại xe không kính qua lại trên mọi nẻo đường. Thế mà, trên con đường chiến lược Trường Sơn vẫn có loại xe như vậy, không phải đôi ba chiếc mà là hàng vạn chiếc xe “không kính “đang vượt qua mưa bom bão đạn, đi qua mọi địa hình: đèo cao, dốc thẳm, khe suối, ngầm sông, chạy trong mưa gió, đêm tối mịt mùng, để chở hàng, tiếp viện cho chiến trường miền Nam. Hình tượng độc đáo vì chiếc xe mang sức mạnh thần kì của một dân tộc đang chiến đấu vì một quyết tâm sắt đá “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Nó còn thể hiện cuộc chiến đấu diễn ra trên mặt trận giao thông vận tải, trên con đường chiến lược Trường Sơn là vô cùng ác liệt, dữ dội, con người và binh khí kĩ thuật mang tầm vóc kì vĩ sử thi hào hùng.Hai câu thơ đầu nói rõ vì sao xe “không có kính”. Cấu trúc câu thơ dưới hình thức “hỏi-đáp”. Ba chữ “không” đi liền nhau, hai nốt nhấn “bom giật, bom rung” biểu lộ “chất lính” trong cách nói phóng túng hồn nhiên. Câu thơ đậm đặc chất văn xuôi, nhưng đọc lên nghe vẫn thú vị:

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.”

Mười bốn câu thơ tiếp theo khắc họa hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn qua một loạt hình ảnh hoán dụ: con mắt, mái tóc, tim, mặt, nụ cười… Một tư thế ngồi lái “ung dung” tuyệt đẹp: thong thả, khoan thai.Những cái nhìn khoáng đạt, nhìn thấp, nhìn thẳng, nhìn cao, nhìn xa. Dũng mãnh và hiên ngang:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Hai chữ “ta ngồi ” với điệp từ “nhìn ” láy lại 3 lần; giọng thơ, nhịp thơ mạnh mẽ, đĩnh đạc.Phạm Tiến Duật đã dành trọn một khổ thơ nói lên những gì người chiến sĩ “nhìn thấy”. Những câu thơ nối tiếp xuất hiện với bao hình ảnh chẳng khác nào một đoạn phim quay nhanh:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái.”

Có gió thổi, có cánh chim chiều và cả ánh sao đêm. Gió được nhân hóa và chuyển đổi cảm giác đầy ấn tượng: “gió vào xoa mắt đắng”. Xe chạy thâu đêm, xe lại không có kính nên mới có cảm giác “đắng” như thế. Con đường phía trước là con đường chiến lược cụ thể, nó còn mang hàm nghĩa, “chạy thẳng vào tim”, con đường chiến đấu chính nghĩa vì lẽ sống, vì tình thương, vì độc lập tự do của đất nước và dân tộc. Các từ “nhìn thấy”… “nhìn thấy… ” “thấy… “với các chữ “sa”, chữ “ùa” góp phần đặc tả tốc độ phi thường của chiếc xe quân sự đang bay đi, đang lướt nhanh trong bom đạn!Nếu khổ thơ trên nói đến “gió” thì khổ thơ tiếp theo nói đến “bụi”. Gió bụi tượng trưng cho gian khổ, thử thách. Chữ “ừ” vang lên như một thách thức, một chấp nhận nhưng chủ động của người chiến sĩ lái xe:

“Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già.

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!”

Bao chi tiết hiện thực đầy ắp vần thơ. Một mái tóc xanh của chàng trai qua mấy dặm trường có sự đổi thay đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Một hình ảnh so sánh hóm hỉnh, độc đáo, một kiểu hút thuốc rất “lính”. Một nụ cười lạc quan yêu đời và hồn nhiên “ha ha” cất lên từ một gương “mặt lấm “khi đồng đội gặp nhau: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!”.Sau “bụi” nói đến “mưa”: “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”. Thế là người lính nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mưa đã “tuôn” tất nhiên phải “xối”. Bao nhiêu áo quần ướt sạch vì ngồi trong buồng lái mà “như ngoài trời”. Chấp nhận, ngang tàng, phơi phới lạc quan:

“Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời

Chưa cần thay lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!”

Nhiệt tình cách mạng của người lính không còn là trừu tượng nữa mà được tính bằng những cung đường “lái trăm cây số nữa”. Cung đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu. Câu thơ 7 từ mà có đến 6 thanh bằng diễn tả cái phơi phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!”.Hai khổ thơ thứ 5, thứ 6 ghi lại hình ảnh tiểu đội xe không kính và cuộc trú quân giữa rừng. Sau những chặng đường gian khổ, những tháng ngày mưa gió, bụi mù và bom đạn, họ gặp lại nhau, cái bắt tay cũng vô cùng độc đáo. Trong niềm vui gặp gỡ đã có nhiều mất mát hi sinh:

“… Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

Có bữa cơm hội ngộ. Tình đồng đội cũng là tình anh em gia đình ruột thịt. Cảnh mắc võng dã chiến “chông chênh ” bên đường. Rồi đoàn xe “lại đi, lại đi”, nối tiếp nhau ra tiền phương. Trên đầu họ, trong tâm hồn họ “trời xanh thêm”, chứa chan hi vọng, lạc quan dạt dào:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Khổ cuối bài thơ làm nổi bật cái dữ dội và khốc liệt của chiến tranh: Chiếc xe vận tải quân sự mang trên mình đầy thương tích. Đã có biết bao chiến sĩ lái xe dũng cảm hi sinh. Chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường, 3 cái “Không có” và chỉ có 1 cái “có”: “Không có kính, rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước. Sau cái “thùng xe có xước”, người chiến sĩ lái xe tự hào khẳng định cần “có một trái tim “trong xe. “Có trái tim?” ấy là sẽ có tất cả: “Trái tim”- hình ảnh hoán dụ thể hiện sức mạnh chiến đấu, ý chí kiên cường của người chiến sĩ lái xe trẻ vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thân yêu, vì sự nghiệp thống nhất đất nước:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước;

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

“Trái tim” ấy là trái tim yêu thương, trái tim sục sôi căm giận? Phải chăng câu thơ của Phạm Tiến Duật khơi nguồn cảm hứng từ câu nói nổi tiếng của Hồ Chủ tịch kính yêu: “Miền Nam luôn luôn trong trái tim tôi”?Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là một bài thơ hay. Chất hiện thực ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng của các chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn thời đánh Mĩ đã kết hợp một cách hài hòa với cảm hứng sử thi tạo nên những vần thơ “góc cạnh” đầy ấn tượng. Nếu có gió, bụi, mưa, cánh chim, ánh sao sa vào, ùa vào buồng lái chiếc xe không kính thì cũng có những câu thơ rất gần với lối nói thường đậm chất văn xuôi tràn vào bài thơ. Có nhiều câu thơ mang cái dáng vẻ thô mộc, bình dị rất lính tráng một thời trận mạc.

Nếu tước đi những câu thơ ấy, thay vào bài thơ bằng những câu óng ả êm xuôi, chắc chắn giọng điệu, chất thơ, hồn thơ của Bài thơ về tiểu đội xe không kính sẽ chẳng còn gì nữa. Đúng như Vũ Quần Phương đã nhận xét: “Chỗ đặc sắc của thơ Phạm Tiến Duật: lấy cuộc sống để nói tình cảm. Cái sâu sắc tình cảm trong thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không tìm trong chữ nghĩa.Hình tượng những chiếc xe không kính thật là li kì, độc đáo. Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Họ là những chiến binh sống và chiến đấu trong tư thế hiên ngang, quả cảm bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm, lạc quan, sôi nổi yêu đời, hi sinh chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam.Ngoài các ẩn dụ, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, Phạm Tiến Duật rất thành công trong sáng tạo các hình ảnh hoán dụ (gió, bụi, mưa, mắt, tóc, tim,…) khắc họa vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp ý chí của người chiến sĩ lái xe tiền phương.

Con đường chiến lược Trường Sơn là một chiến tích mang màu sắc huyền thoại của dân tộc ta trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã làm sống lại một thời gian khổ, oanh liệt của anh bộ đội Cụ Hồ. Chất anh hùng ca dào dạt bài thơ. Bài thơ cũng là một chứng tích tuyệt đẹp của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn anh hùng.

Soạn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 3

I. Tác giả

– Phạm Tiến Duật (1941 – 2007) quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

– Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn.

– Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.

– Thơ ông tập trung thể hiện hình ảnh các người lính và cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

– Giọng thơ của Phạm Tiến Duật trẻ trung, sôi nổi, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.

– Phạm Tiến Duật được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001 và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012.

– Một số tác phẩm tiêu biểu:

  • Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970)
  • Ở hai đầu núi (thơ, 1981)
  • Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983)
  • Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994)
  • Nhóm lửa (thơ, 1996)
  • Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997)
  • Tuyển tập Phạm Tiến Duật (in xong đợt đầu ngày ngày 17 tháng 11 năm 2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng).
  • Vừa làm vừa ghi (tập tiểu luận, 2003)…

II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

– Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969.

– Bài thơ nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969, được đưa vào tập “Vầng trăng và quầng lửa” (1970).

2. Bố cục

Gồm 4 phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “Như sa như ùa vào buồng lái”. Tư thế hiên ngang của người lính lái xe.
  • Phần 2: Tiếp theo đến “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”. Tinh thần lạc quan của người lính lái xe trước hoàn cảnh nguy hiểm, khó khăn.
  • Phần 3. Tiếp theo đến “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Tình động đội của những người lính.
  • Phần 4. Còn lại. Lòng yêu nước, quyết tâm chiến đầu vì miền Nam, vì tổ quốc.

III. Đọc – hiểu văn bản

1. Tư thế hiên ngang của người lính lái xe

– Câu thơ mở đầu: “Không có kính không phải vì xe không có kính” – điệp ngữ “không có… không… không có…” như muốn nhấn mạnh hình ảnh những chiếc xe không kính.

– Các động từ mạnh “giật”, “rung” kết hợp với hình ảnh “bom” khắc họa sự khốc liệt nơi chiến trường.

=> Giải thích nguồn gốc của những chiếc xe không kính. Vốn là những chiếc xe vận tải chở hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, nhưng lại bị bom đạn của kẻ thù bắn phá nên kính xe vỡ đi trở thành những chiếc xe không kính.

– Trước hoàn cảnh đó, tư thế của người lính lái xe: “Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Trong mưa bom, bão đạn nhưng họ vẫn nhìn thẳng về con đường phía trước.

– Những chiếc xe không kính khiến cho những khó khăn càng thêm khắc nghiệt hơn:

  • Gió vào xoa mắt đắng: những chiếc xe không kính khiến cho bụi đường bay vào mắt – từ “đắng” được sử dụng theo lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác làm nổi bật sự khắc nghiệt về thể xác.
  • Con đường chạy thẳng vào tim, sao trời, cánh chim. Tất cả như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Không có kính khiến mội khoảng cách bị xóa bỏ.
  • Nhưng người lính vẫn không sợ hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.

2. Tinh thần lạc quan của người lính lái xe trước hoàn cảnh nguy hiểm, khó khăn

– Họ phải đối mặt với khó khăn khi chiếc xe không có kính, nhưng thái độ thật thản nhiên như một điều bình thường: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”.

– Cách nói “không có… ừ thì” cho thấy một thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn của người lính.

– Hành động của người lính trước khó khăn: “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hay “gió lùa khô mau thôi”: cho thấy sự ngang tàng cũng như một tinh thần vui vẻ, yêu đời bất chấp những gian khổ phải đối mặt.

3. Tình động đội của những người lính

– Hình ảnh “những chiếc xe họp thành tiểu đội”: những chiếc xe từ trong mưa bom, bão đạn đã tập hợp lại thành một tiểu đội xe không kính. Họ là những đồng đội cùng chung một lý tưởng.

– Họ “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết phản ánh chân thực tình cảm của người lính, qua cái bắt tay người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, động lực để tiếp tục những chặng đường phía trước.

– “Bếp Hoàng Cầm dựng đứng giữa trời”: Cuộc chiến tranh khốc liệt khiến họ phải dựng bếp ăn giữa trời, gợi nên một cuộc sống sinh hoạt hàng ngày vất vả.

– “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Họ gắn bó giống như những người thân trong gia đình, gắn bó với nhau thân thiết như tình cảm ruột thịt. Giọng thơ đầy hồn nhiên, vui vẻ.

– Trên hành trình không ấy, họ chỉ có thể nghỉ ngơi trên những chiếc võng. Giấc ngủ chập chờn không yên.

– Những vẫn lạc quan: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”: Điệp từ “lại đi” giống như nhịp bước hành quân của người lính trên đường hành quân.

– Hình ảnh “trời xanh thêm”: tinh thần lạc quan, yêu đời hướng về tương lai phía trước.

4. Lòng yêu nước, quyết tâm chiến đầu vì miền Nam, vì tổ quốc

– Hai câu đầu vẫn là những khó khăn từ những chiếc xe: không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước…

– Nhưng khó khăn ấy chẳng thể cản nổi ý chí của người lính: xe vẫn cứ chạy vì miền Nam phía trước, vì niềm tin tất thắng và nước nhà sẽ thống nhất.

– Chỉ cần trong xe có một trái tim: hình ảnh “một trái tim” là hình ảnh hoán dụ, chỉ người lính. Trái tim họ luôn căng tràn sự sống, cũng như sôi sục lòng căm thù giặc sâu sắc. Trái tim còn tượng trưng cho nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.
Tổng kết: – Nội dung: Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã khắc họa hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kháng chiến chống Mỹ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm nơi chiến trường.

– Nghệ thuật: Ngôn ngữ, giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn…

Soạn văn Bài thơ về tiểu đội xe không kính ngắn gọn

I. Trả lời câu hỏi

Câu 1. Nhan đề bài thơ có gì khác lạ? Một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính. Vì sao có thể nói hình ảnh ấy là độc đáo?

– Nhan đề có điểm khác lạ: Khi đọc nội dung, người đọc chắc hẳn biết được đó là một “bài thơ”. Vậy mà Phạm Tiến Duật lại đưa vào nhan đề là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Hai chữ “bài thơ” đã cho ta thấy rõ cách khai thác, cách nhìn hiện thực cuộc sống của tác giả. Không chỉ viết về những chiếc xe không kính hay hay hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà chủ yếu nói về chất thơ từ hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ của những người lính lái xe.

– Hình ảnh những chiếc xe không kính độc đáo:

  • Những chiếc xe không kính vốn không phải vì không có kính, mà trải qua những năm tháng bom rơi, bão đạn khiến kính của chúng bị vỡ đi.
  • Không chỉ một chiếc xe mà là “tiểu đội” – đơn vị quân đội nhỏ nhất: Đây không phải là một trường hợp hy hữu mà là hoàn cảnh chung của những chiếc xe vận chuyển trên tuyến đường Trường Sơn. Tiểu đội xe không kính được tác giả khắc họa cũng chỉ là một trong rất nhiều tiểu đội như vậy.

=> Nổi bật lên sự khốc liệt của chiến tranh, sự hiểm nguy nơi chiến trường và tinh thần lạc quan của người lính lái xe.

Câu 2. Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Em hãy phân tích hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ.

* Tư thế của người lính khi đối mặt với khó khăn:

– Tư thế của người lính lái xe: “Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”: Cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Trong mưa bom, bão đạn nhưng họ vẫn nhìn thẳng về con đường phía trước.

– Những chiếc xe không kính khiến cho những khó khăn càng thêm khắc nghiệt hơn:

  • Gió vào xoa mắt đắng
  • Con đường chạy thẳng vào tim
  • Sao trời, đột ngột cánh chim

=> Tất cả như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Nhưng người lính vẫn không sợ hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.

* Tinh thần lạc quan:

– Họ phải đối mặt với khó khăn khi chiếc xe không có kính: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”.

– Nhưng thái độ trước những khó khăn: “không có… ừ thì” cho thấy một thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn của người lính.

– Hình ảnh người lính “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hay “gió lùa khô mau thôi”: cho thấy một tinh thần vui vẻ, yêu đời bất chấp những gian khổ phải đối mặt.

* Tình đồng đội ngắn bó:

– Họ “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết phản ánh chân thực tình cảm của người lính, qua cái bắt tay người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, động lực để tiếp tục những chặng đường phía trước.

– “Bếp Hoàng Cầm dựng đứng giữa trời”: Cuộc chiến tranh khốc liệt khiến họ phải dựng bếp ăn giữa trời, cuộc sống sinh hoạt hàng ngày vất vả.

– “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Họ gắn bó giống như những người thân trong gia đình, gắn bó với nhau thân thiết như tình cảm ruột thịt.

– Trên hành trình không ấy, họ chỉ có thể nghỉ ngơi trên những chiếc võng.

– Những vẫn lạc quan: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”: Điệp từ “lại đi” giống như nhịp bước hành quân của người lính trên đường hành quân.

– Hình ảnh “trời xanh thêm”: tinh thần lạc quan, yêu đời hướng về tương lai phía trước.

* Ý chí, tình yêu dành cho tổ quốc:

– Hai câu đầu vẫn là những khó khăn từ những chiếc xe: không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước…

– Nhưng khó khăn ấy chẳng thể cản nổi ý chí của người lính: xe vẫn cứ chạy vì miền Nam phía trước, vì niềm tin tất thắng và nước nhà sẽ thống nhất.

– Chỉ cần trong xe có một trái tim: hình ảnh “một trái tim” là hình ảnh hoán dụ, chỉ người lính. Trái tim họ luôn căng tràn sự sống, cũng như sôi sục lòng căm thù giặc sâu sắc. Trái tim còn tượng trưng cho nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.

Câu 3. Em có nhận xét gì về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ này. Những yếu tố đó đã góp phần như thế nào trong việc khắc họa hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn.

– Ngôn ngữ thơ giàu tính khẩu ngữ, giọng thơ tự nhiên, khỏe khoắn.

– Ngôn ngữ, giọng điệu góp phần thể hiện vẻ đẹp của những người lính lái xe: ngang tàn, hóm hỉnh và lạc quan, yêu đời.

Câu 4. Cảm nghĩ của em về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ? So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này và ở bài Đồng chí.

* Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ qua hình ảnh người lính trong bài thơ hiện lên với vẻ đẹp:

  • Tư thế ung dung, hiên ngang
  • Tinh thần lạc quan, yêu đời
  • Coi thường mọi khó khăn, nguy hiểm

* So sánh:

– Giống nhau: Họ đều mang trong mình tình yêu dành cho quê hương đất nước, tinh thần chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp, tình đồng đội gắn bó sâu sắc.

– Khác nhau:

a. Đồng chí:

  • Những người lính kháng chiến chống Pháp
  • Xuất thân từ tầng lớp nông dân
  • Ca ngợi tình đồng đội, đồng chí

b. Bài thơ về tiểu đội xe không kính:

  • Những người lính kháng chiến chống Pháp
  • Xuất thân chủ yếu từ tầng lớp trí thức, tiểu tư sàn
  • Khắc họa hình ảnh người lính lái xe.

II. Luyện tập

Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả hết sức cụ thể, sinh động. Em hãy phân tích khổ thơ thứ hai để làm rõ điều ấy.

Gợi ý: Những chiếc xe không kính khiến cho những khó khăn càng thêm khắc nghiệt hơn:

– Gió vào xoa mắt đắng: những chiếc xe không kính khiến cho bụi đường bay vào mắt – từ “đắng” được sử dụng theo lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác làm nổi bật sự khắc nghiệt về thể xác.

– Con đường chạy thẳng vào tim, sao trời, cánh chim. Tất cả như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Không có kính khiến mội khoảng cách bị xóa bỏ.

– Nhưng người lính vẫn không sợ hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.

Gợi ý:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”

– Những chiếc xe không kính khiến cho những khó khăn càng thêm khắc nghiệt hơn:

  • Gió vào xoa mắt đắng: những chiếc xe không kính khiến cho bụi đường bay vào mắt – từ “đắng” được sử dụng theo lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác làm nổi bật sự khắc nghiệt về thể xác.
  • Con đường chạy thẳng vào tim, sao trời, cánh chim. Tất cả như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Không có kính khiến mội khoảng cách bị xóa bỏ.
  • Nhưng người lính vẫn không sợ hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.

Soạn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Mẫu 4

1. Ý nghĩa nhan đề Bài thơ về Tiểu đội xe không kính:

Nhan đề bài thơ là: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”:

Khi in lại bài thơ này để xuất bản, nhà biên tập đã có ý muốn lược bỏ đi ba chữ đầu tiên là “bài thơ về”, chỉ để lại “Tiểu đội xe không kính”, vì đã cho rằng “ba chữ bài thơ về là thừa ra, vì ai đọc lên chẳng biết đây là bài thơ”. Nhưng nếu nhận định như nhà biên tập là chưa thực sự hiểu được dụng ý của tác giả Phạm Tiến Duật. Trong bài thơ này, là hình ảnh vui vẻ, lạc quan của những người lính vận tải trên tuyến đường luôn ngập tràn bom đạn Trường Sơn, tác giả đã nhìn bức tranh thực tế dưới ánh nhìn của người chiến sĩ lái xe: Với họ mọi gian khổ, nguy hiểm chập chùng chỉ là chuyện vặt, chiếc xe không có kính lại có điểm hay, có cái khác biệt so với những chiếc xe có kính! Hay hiểu theo một cách khác, Phạm Tiến Duật dành tặng bài thơ cũng như nhan đề độc đáo này để ca ngợi  về tiểu đội xe không kính mà biểu hiện của sự ngợi ca ấyd được tác giả báo hiệu trước trong ba chữ “bài thơ về: nằm ở đầu đề. Đó vừa là chất thơ trong tình thần, vẻ đẹp chiến đấu của những chàng lính trẻ tuổi và vừa khẳng định cái chất thơ ấy được biểu hiện ngay ở hình ảnh chiếc xe không có kính- tức là bộc lộ luôn trong cái được coi là dấu tích của khó khăn, nguy hiểm đang cận kề.

Bài thơ ra đời trong giai đoạn trong những năm từ 1959 đến 1975 tuyến đường Trường Sơn của chúng ta thực hiện nhiệm vụ chuyên chở vào chiến trường miền Nam lương thực và quân trang với số lượng lên đến hơn một triệu tấn nhưng gặp phải sự đánh phá của máy bay của đế quốc Mỹ nên bị tổn thất hơn nghìn tấn hàng và khoảng 14.500 phương tiện di chuyển hàng. Đây là thời kì cả dân tộc đang gồng mình lên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Vì vậy đặt nhan đề như vậy cũng góp phần tạo nên giọng điệu tươi trẻ, sôi nổi và có nét “tinh nghịch” nhưng lại rất sâu sắc trong đặc trưng phong cách sáng tác của tác giả.

Hình ảnh những chiếc xe không có kính là độc đáo ở chỗ:

Chính nhà thơ Phạm Tiến Duật từng nêu quan điểm: “Mỗi trọng điểm là một nghĩa địa ô tô. Xác xe cháy ngổn ngang lưng đèo, đỉnh núi”. Như vậy trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ nguy hiểm ấy những người lính đã sử dụng những chiếc xe đã từng bị bom dội xuống nên đương nhiên chẳng thể còn nguyên vẹn, họ đã chắp nhặt từng bộ phận của chiếc xe từ các nghĩa địa ô tô để tạo nên phương tiện vận chuyển. Với những người lính ấy chỉ cần có bánh và xe còn nổ được là có thể đi được rồi. Và thế là những chiếc xe không chính trở thành điều độc đáo bởi vì vừa vẽ nên thực tế chiến trường ác liệt nhưng lại vừa là biểu hiện tinh thần lạc quan vượt lên trên hoàn cảnh của những người lính. Đã có biết bao những tiểu đội xe vận tải sử dụng những chiếc xe như thế để chạy bon bon trên đường, chuyên chở hàng hóa về miền Nam đã hoạt động ngày đêm trên tuyến đường Trường Sơn ấy. Vì thế thì việc mất kính cũng chẳng làm sao, chẳng ảnh hưởng gì ngoài việc tạo nên sự phóng túng và tư thế hiện ngang cho lính lái xe.

Bài thơ khắc họa cuộc đấu tranh gian khổ và đầy thiếu thốn của những người lính lái xe dọc tuyến đường Trường Sơn để trở trang vũ khí và lương thực vào chiến trường miền Nam với hình ảnh những chiếc xe không có kính do bị chiến tranh tàn phá. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh họ vẫn có những phẩm chất sáng ngời về lòng quả cảm không ngại nguy hiểm, khó khăn, tinh thần lạc quan hài hước và tình đồng chí vô cùng thắm thiết.

2. Hình ảnh người lính xe trong Bài thơ về Tiểu đội xe không kính:

Hình ảnh người lính lái xe được khắc họa trong chi tiết sau:

Trạng thái ung dung:

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng.

Những người chiến sĩ lái xe ấy chẳng hề bận tâm về hình ảnh những chiếc xe mình thiếu cửa kính, ngược lại,  nét khác biệt trong xe không có kính ấy lại cho anh cái thế ung dung, tự tại ngồi trong buồng lái để hòa mình với thiên nhiên, đất trời cảnh vật.

Tư thế ung dung, tinh lạc quan trước hoàn cảnh luôn trực trào những gian nguy lại càng khắc họa sâu sắc hơn thêm phẩm chất và tính cách của những người lính.

Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già.

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Điệp ngữ ừ thì thể hiện thái độ đã biết hết cái tình cảnh nếu không có ấy, đây chẳng phải là một lẽ tự nhiên mà họ đã lường trước được. Bụi thì cũng chỉ làm trắng tóc người lính trẻ, chỉ là chuyện gây hài, là khoảng khắc giải tỏa căng thăng thêm vui thú cho hành trình chạy xe gian nan.

Tác giả đã khai thác từ chuyện khó khăn do việc xe không có kính mang lại trở thành cái thuận lợi, cái ưu điểm đó là việc có thể dễ dàng thể hiện tình đồng đội, đồng chí, tình giữa những người lính lái xe trên quãng đường Trường Sơn:

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Động tác bắt tay nhau trong khoảnh khắc thật vui vẻ, sảng khoái làm sao, và điều này không thể làm được nếu xe không có kính.

Ý chí quyết tâm vì mục đích cuối cùng là tất cả vì công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vinh quang:

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

3. Nghệ thuật sáng tạo, linh hoạt trong Bài thơ về Tiểu đội xe không kính:

– Giọng điệu câu thơ luôn tràn ngập trạng thái vui vẻ, hóm hỉnh khiến cho cả bài thơ trở nên vô cùng vui tươi như đây chỉ là một hành trình lái xe đi chơi giữa những người bạn.

– Ngôn từ thơ giản dị, linh hoạt kết hợp vói những hình ảnh thơ chân thực và gần gũi với những người lính lái xe trên chiến trường.

– Cả bài thơ là bức tranh về cuộc chiến đấu gian khổ, khó khăn trường kì của dân tộc nhưng vẫn khẳng định được tư thế, trạng thái ung dung, tâm hồn lạc quan của người lính

4. Hình ảnh thế hệ trẻ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ:

Cảm nghĩ của cá nhân về hình ảnh thế hệ trẻ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ:

Và nếu như trong bài thơ Đồng chí là những câu thơ:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

thì trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính những người lính lái xe phải di chuyển trong cơn mưa bom đạn, cùng với sự khắc nghiệt của thời tiết trên quãng đường Trường Sơn gian khổ:

Bụi phun tóc trắng như người già

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời.

Cả hai bài thơ đều khắc họa những người anh hùng không tên luôn yêu nước, không ngại khó khăn, một vì Tổ quốc. Trong họ là những lí tưởng sống vĩ đại, những con người vì nước quên thân.

5. Cảm nhận ngắn gọn về Bài thơ về tiểu đội xe không kính:

Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với nhiều tác phẩm đã đi sâu và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những tác phẩm như vậy. Ra đời vào thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt, bài thơ đã xây dựng thành công hình tượng người chiến sĩ lái xe chân thực, trong sáng với nhiều phẩm chất cao đẹp đáng quý. Trước hết, hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ hiện lên với tư thế hiên ngang, bất khuất. Tác giả đã tái hiện một cách chân thực sự khốc liệt của chiến tranh qua hình ảnh chiếc xe không kính – minh chứng cho sự tàn phá khủng khiếp của một thời đã qua và sau đó là trên nền của chiến tranh. Họ không trốn tránh, không sợ hãi mà luôn sẵn sàng, bình tĩnh và dũng cảm nhìn thẳng vào chặng đường khó khăn, gian khổ phía trước để vượt qua. Ngoài ra, tư thế ung dung, kiêu hãnh của người lính ra trận được khắc họa đậm nét hơn qua những hình ảnh hòa mình vào thiên nhiên. Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường chạy dài, gió thổi vi vút, sao trên trời và cả những cánh chim bay. Tất cả thiên nhiên, vũ trụ như ùa vào buồng lái của những người lính. Ngoài ra, những người lính trong bài thơ là những người luôn tràn đầy lạc quan, bất chấp mọi hiểm nguy, bất chấp mọi gian khổ. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, những người lính luôn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, hiểm nguy nhưng dù trong hoàn cảnh nào, những người lính ấy vẫn luôn hiên ngang tràn đầy tinh thần lạc quan vượt lên tất cả, chiến đấu và chiến thắng kẻ xâm lược.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Soạn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!