Updated at: 20-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Phát biểu cảm nghĩ về ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng” chuẩn nhất 03/2024.

1. PHÂN TÍCH YÊU CẦU ĐỀ BÀI

– Yêu cầu về nội dung: nêu cảm nghĩ về nhân vật ông Sáu thông qua các tình huống, lời nói, hành động và cảm xúc của nhân vật thể hiện trong đoạn trích Chiếc lược ngà

– Phạm vi tư liệu dẫn chứng: các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết… xoay quanh nhân vật ông Sáu trong tác phẩm Chiếc lược ngà.

– Phương pháp lập luận chính: phân tích, cảm nhận

2. LUẬN ĐIỂM VỀ NHÂN VẬT ÔNG SÁU

– Luận điểm 1: Hoàn cảnh của nhân vật ông Sáu

– Luận điểm 2: Tình yêu dành cho con của ông Sáu

II. LẬP DÀN Ý BÀI VĂN CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT ÔNG SÁU

1. MỞ BÀI CẢM NHẬN VỀ ÔNG SÁU

– Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, truyện ngắn:

+ Nguyễn Quang Sáng – cây đại thụ của văn học miền Nam với những cống hiến to lớn, đáng trân trọng cho văn đàn.

+ Truyện ngắn Chiếc lược ngà được viết năm 1966, kể về tình phụ tử vô cùng thiêng liêng và sâu sắc của cha con ông Sáu trong cảnh ngộ sinh li tử biệt của chiến tranh ác liệt.

– Khái quát về nhân vật: Hình ảnh ông Sáu đã để lại cho bạn đọc ấn tượng sâu sắc về tình cảm và những cử chỉ dù bình dị nhưng cũng đầy thiêng liêng, ấm tình cha con mà ông dành cho bé Thu.

2. THÂN BÀI CẢM NHẬN VỀ ÔNG SÁU

a) Luận điểm 1: Hoàn cảnh của nhân vật

– Ông Sáu là một nông dân Nam Bộ, tham gia kháng chiến từ năm 1946, khi con gái chưa được một tuổi, lúc con chạc tám tuổi mới được về thăm quê ba ngày.

b) Luận điểm 2: Tình yêu dành cho con của ông Sáu

– Trong những ngày ông về thăm quê:

+ Hành động thể hiện sự nôn nóng mong gặp con: nhảy lên bờ, bước vội, kêu to gọi con.

+ Sững sờ, bàng hoàng khi con bỏ chạy: mặt sầm lại, hai tay buông xuống.

=> Ông Sáu đang xúc động thì phải nhận sự sợ hãi, xa lánh của bé Thu, tâm trạng từ trông chờ, vui sướng trở thành bàng hoàng, đau đớn.

+ Thời gian ở bên con: ông Sáu chỉ ở nhà với con, chờ con gọi một tiếng “ba”. Mọi sự cố gắng của ông từ giả vờ không nghe con gọi khi nó nói trỏng, không giúp con chắt nước cơm, gắp thức ăn cho con là một sự nỗ lực đau đớn của người cha khi con gái không nhận mình. Cảm xúc đau đớn dồn nén đến tức giận, ông đánh con.

+ Cảnh chia li: ánh mắt của ông trìu mến lẫn buồn rầu, bất lực nhìn con gái. Khi con gái nhận và ôm chặt lấy mình, ông Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con.

=> Tình phụ tử đã vượt qua sự ngăn cách của thời gian, của chiến tranh. Ông Sáu đã nhận được sự công nhận và yêu thương của bé Thu.

– Trong những ngày ông ở căn cứ:

+ Ông nhớ con, ân hận vì đã đánh con.

+ Tìm bằng được mảnh ngà voi để làm lược tặng con.

+ Ngày ngày tỉ mỉ ngồi làm chiếc lược ngà. Lúc nhớ con, ông nhìn ngắm và cài lược lên tóc.

+ Ông đã hi sinh khi chưa kịp tặng cho con gái chiếc lược ngà. Trong giờ phút cuối cùng, ông vẫn chỉ nhớ đến con, đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho đồng đội.

⇒ Chiếc lược ngà là vật chứa đựng biết bao yêu thương, nhung nhớ của ông Sáu dành cho con gái. Đó là một tín vật của tình phụ tử. Đó cũng là một lời hứa với con gái của ông. Dù ông không thể trở về, nhưng chiếc lược minh chứng cho tình yêu của ông dành cho con vẫn còn đó.

c) Nhận xét về nghệ thuật

– Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng những tình huống truyện bất ngờ, hấp dẫn mà vẫn tự nhiên, hợp lí.

– Tác giả lựa chọn ngôi kể thứ nhất nhưng đặt vào nhân vật bác Ba – người đồng đội của ông Sáu. Vì thế câu chuyện được tái hiện một cách chân thực, khách quan hơn.

– Tác giả miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.

– Ngôn ngữ đậm chất địa phương Nam Bộ, mộc mạc, tình cảm.

3. KẾT BÀI CẢM NHẬN VỀ ÔNG SÁU

– Đưa ra kết luận về tác phẩm: một trong những truyện ngắn tiêu biểu sáng tác trong thời kì kháng chiến, ca ngợi tình cảm gia đình, tình đồng chí, niềm tin và khát vọng hòa bình.

– Kết luận về nhân vật ông Sáu:

+ Là điển hình cho tính cách con người Nam Bộ: chất phác, sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của dân tộc.

+ Tình yêu của ông Sáu dành cho con: cao cả, sâu đậm, không thể dập tắt

4. SƠ ĐỒ TƯ DUY PHÂN TÍCH CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT ÔNG SÁU

So do tu duy cam nhan ve nhan vat ong Sau

Dàn ý 2:

I. Mở bài

Giới thiệu về truyện ngắn và nhân vật:

– Truyện ngắn Chiếc lược ngà được viết năm 1966, kể về tình phụ tử vô cùng thiêng liêng và sâu sắc của cha con ông Sáu trong cảnh ngộ sinh li tử biệt của chiến tranh ác liệt.

– Hình ảnh ông Sáu đã để lại cho bạn đọc ấn tượng sâu sắc về tình cảm và những cử chỉ dù bình dị nhưng cũng đầy thiêng liêng, ấm tình cha con mà ông dành cho bé Thu.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh của nhân vật: Ông Sáu là một nông dân Nam Bộ, tham gia kháng chiến từ năm 1946, khi con gái chưa được một tuổi, lúc con chạc tám tuổi mới được về thăm quê ba ngày.

2. Tình yêu dành cho con của ông Sáu:

– Trong những ngày ông về thăm quê:

+ Hành động thể hiện sự nôn nóng mong gặp con: nhảy lên bờ, bước vội, kêu to gọi con.

+ Sừng sờ, bàng hoàng khi con bỏ chạy: mặt sầm lại, hai tay buông xuống.

⇒ Ông Sáu đang xúc động thì phải nhận sự sợ hãi, xa lánh của bé Thu, tâm trạng từ trông chờ, vui sướng trở thành bàng hoàng, đau đớn.

+ Thời gian ở bên con: ông Sáu chỉ ở nhà với con, chờ con gọi một tiếng “ba”. Mọi sự cố gắng của ông từ giả vờ không nghe con gọi khi nó nói trỏng, không giúp con chắt nước cơm, gắp thức ăn cho con là một sự nỗ lực đau đớn của người cha khi con gái không nhận mình. Cảm xúc đau đớn dồn nén đến tức giận, ông đánh con.

+ Cảnh chia li: ánh mắt của ông trìu mến lẫn buồn rầu, bất lực nhìn con gái. Khi con gái nhận và ôm chặt lấy mình, ông Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con.

⇒ Tình phụ tử đã vượt qua sự ngăn cách của thời gian, của chiến tranh. Ông Sáu đã nhận được sự công nhận và yêu thương của bé Thu.

– Trong những ngày ông ở căn cứ:

+ Ông nhớ con, ân hận vì đã đánh con.

+ Tìm bằng được mảnh ngà voi để làm lược tặng con.

+ Ngày ngày tỉ mỉ ngồi làm chiếc lược ngà. Lúc nhớ con, ông nhìn ngắm và cài lược lên tóc.

+ Ông đã hi sinh khi chưa kịp tặng cho con gái chiếc lược ngà. Trong giờ phút cuối cùng, ông vẫn chỉ nhớ đến con, đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho đồng đội.

⇒Chiếc lược ngà là vật chứa đựng biết bao yêu thương, nhung nhớ của ông Sáu dành cho con gái. Đó là một tín vật của tình phụ tử. Đó cũng là một lời hứa với con gái của ông. Dù ông không thể trở về, nhưng chiếc lược minh chứng cho tình yêu của ông dành cho con vẫn còn đó.

3. Nhận xét về nghệ thuật:

– Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng những tình huống truyện bất ngờ, hấp dẫn mà vẫn tự nhiên, hợp lí.

– Tác giả lựa chọn ngôi kể thứ nhất nhưng đặt vào nhân vật bác Ba – người đồng đội của ông Sáu. Vì thế câu chuyện được tái hiện một cách chân thực, khách quan hơn.

– Tác giả miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.

– Ngôn ngữ đậm chất địa phương Nam Bộ, mộc mạc, tình cảm.

III. Kết bài

– Đưa ra kết luận về tác phẩm: một trong những truyện ngắn tiêu biểu sáng tác trong thời kì kháng chiến, ca ngợi tình cảm gia đình, tình đồng chí, niềm tin và khát vọng hòa bình.

– Kết luận về nhân vật:

+ Là điển hình cho tính cách con người Nam Bộ: chất phác, sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của dân tộc.

+ Tình yêu của ông Sáu dành cho con: cao cả, sâu đậm, không thể dập tắt.

Phát biểu cảm nghĩ về ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng- Mẫu 1

        Chiến tranh đã qua đi hơn nửa thập kỉ, nhưng những nỗi đau mà nó để lại vẫn vẹn nguyên trong tiềm thức người Việt. Đã có bao tác phẩm ra đời tái hiện lại nối đau này và”Chiếc lược ngà” là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết về tình cha con và nỗi đau trong chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mĩ. Ông Sáu là một trong những nhân vật thể hiện sâu sắc chủ đề ấy.

        Ông Sáu, một nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước đã tham gia 2 cuộc kháng chiến (đánh Pháp và đánh Mĩ), và đã anh dũng hi sinh. Ra đi đánh giặc từ năm 1946 mãi đến năm 1954, hòa bình lập lại, ông mới được về thăm quê một vài ngày. Ngày đi bộ đội, đứa con gái bé bỏng thân yêu của ông mới lên một tuổi, ngày về thì con đã 8, 9 tuổi. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra tử được trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe con cất tiếng gọi “ba” một tiếng cũng không trọn vẹn! Đó là bi kịch thời chiến tranh. Lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới. Ông mới được một khoảnh khắc hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ “nhận ra” ba mình và kêu thét lên: ”Ba… ba”. Ông ôm con, lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con. Ông Sáu đã ra đi với nỗi nhớ thương vợ con không thể nào kể xiết. Bom đạn giặc đã làm thay đổi hình hài ông. Vết thẹo dài trên má phải – vết thương chiến tranh – đã làm cho đứa con gái thương yêu, bé bỏng không nhận ra bóng dáng người cha nữa! Ông đã ra đi, mang theo hình ảnh vợ con. Với lời hứa mang về cho con gái chiếc lược cùng với nỗi ân hận day dứt “sao mình lại đánh con” cứ giày vò ông mãi. Nỗi đau, nỗi nhớ thương và mất mát… do quân giặc gây ra đã làm cho ông Sáu, cho bao người lính, cho bao bà mẹ, em thơ trên khắp mọi miền đất nước ta không bao giờ nguôi! Sự hi sinh của thế hệ đi trước để làm nên độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình là vô giá.

        Sau năm 1954, ông Sáu không tập kết ra Bắc, ông nhận nhiệm vụ mới  lại miền Nam “nằm vùng” hoạt động bí mật. Trong những ngày ở rừng, ở cứ bị giặc ruồng bỏ triền miên. Thiếu gạo phải ăn bắp, gian khổ và nguy hiểm. Cái chết bủa vây cuộc chiến đấu thầm lặng. Ông Sáu vẫn không nguôi nhớ vợ con. Ông đã biến vỏ đạn 20 li của giặc Mĩ thành chiếc cưa nhỏ, đã tỉ mỉ, kiên nhẫn và khéo léo như một người thợ bạc chế tác khúc ngà voi thành một chiếc lược ngà xinh xắn có khắc dòng chữ: Yêu nhớ tặng Thu con của ba. Chiếc lược ngà với dòng chữ ấy mang theo bao tình cảm sâu nặng của người cha đối với đứa còn bé bỏng. Tình thương con của ông Sáu thật vô cùng tha thiết. Điều đó cho thấy, ông Sáu cũng như hàng triệu chiến sĩ, đồng bào ta hi sinh chiến đấu vì đất nước và dân tộc, vì hạnh phúc gia đình, vì tình vợ chồng, tình cha con.

        Chiếc lược ngà như một vật kí thác thiêng liêng của người lính về tình phụ – tử sâu nặng mà bom đạn quân thù không thể nào tàn phá được. Chính vì thế, khi bị trúng đạn máy bay Mĩ bắn vào ngực, lúc hấp hối, ông “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho bạn, nhìn bạn hồi lâu rồi tắt thở… Ông Sáu đã hi sinh trong những ngày đen tối và gian khổ. Ngôi mộ ông là “ngôi mộ bằng giữa rừng sâu !”. Nhưng chỉ có “tình cha con là không thể chết được!”.

        Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong truyện “Chiếc lược ngà” sâu nặng về tình cha – con. Chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng ta. Ông Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng đi trước mở đường đã nếm trải nhiều thử thách, gian khổ và hi sinh.

        Truyện “Chiếc lược ngà” và hình ảnh ông Sáu đã khơi gợi trong lòng ta bao ý nghĩa về sự hi sinh và hạnh phúc ở đời do các thế hệ cha anh đã đổ xương máu làm nên. Và bài học “uống nước nhớ nguồn” càng thêm thấm thía.

Phát biểu cảm nghĩ về ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng- Mẫu 2

Truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện đầy sâu sắc và cảm động tình cảm cha con thiêng liêng giữa ông Sáu và bé Thu. Đó là một tình cảm đáng trân trọng, nó sáng lên ngay cả trong khói lửa của chiến tranh bạo tàn. Nhân vật ông Sáu là một trong những nhân vật trung tâm của tác phẩm, thông qua tìm hiểu nhân vật ta thấy được tình cảm sâu sắc của một người cha hết lòng yêu thương con gái.

Không chỉ là một người cha tốt, ông Sáu còn là một người công dân hết lòng vì đất nước, trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, cũng như bao người yêu nước khác, ông Sáu đã tự nguyện tham gia vào đội ngũ những người lính cầm súng chiến đấu vì sự tự do, độc lập của tổ quốc. Để thực hiện trách nhiệm với đất nước, thực hiện lí tưởng cứu dân, độc lập dân tộc đầy cao đẹp thì ông Sáu đã phải rời xa quê hương, rời xa gia đình và cô con gái nhỏ. Ông chỉ được về thăm gia đình khi được nghỉ phép vài ngày.

Khi về ông Sáu mang tâm trạng bồi hồi, rạo rực bởi sắp tới đây ông sẽ được về thăm những người thân yêu, đặc biệt là Thu – cô con gái bé nhỏ mà ông hết lòng yêu thương. Từ khi bé Thu được sinh ra, ông Sáu chưa từng được gặp con, cũng chưa một lần được nâng niu, cưng nựng. Nỗi khao khát muốn gặp lại con khiến cho ông Sáu bồi hồi suốt quãng đường về nhà. Khi thuyền còn chưa kịp cập bến thì ông Sáu đã vội vàng nhảy xuống “…nhún chân, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài…” đây là hành động có phần gấp gáp, vội vàng của một người cha nóng lòng muốn gặp con.

Khi nhìn thấy đứa nhỏ chơi ở gần đó, ông Sáu biết chắc đó là con của mình, sự xúc động dâng trào khiến cho ông Sáu kêu to tên con “Thu! Con”, ông đưa tay ra đón chờ con, nhưng trái ngược với sự mong chờ, hi vọng của ông Sáu, bé Thu lại không biết người đàn ông kêu tên mình là ai. Hơn nữa, vết thẹo lớn trên mặt của ông Sáu khiến cho bé Thu sợ hãi, vừa khóc vừa gọi mẹ.

Nhìn thấy con mình vì sợ hãi mà chạy vào nhà, ông Sáu đã vô cùng đay khổ, ông thẫn thờ, khuôn mặt tối sầm lại, đôi tay thì buông thõng vô cùng đáng thương. Có lẽ, ông Sáu đã không thể ngờ được giây phút mà cha con hội ngộ lại thành ra như vậy, sự thất vọng, bất ngờ xâm chiếm khiến cho ông Sáu trở nên đáng thương.

Tâm trạng của ông Sáu trong những ngày nghỉ phép cũng rất phức tạp, vừa là niềm vui vì được về thăm gia đình, quê hương, người thân nhưng ông cũng buồn bã, đau đớn vì đứa con không chịu nhận cha. Bé Thu không những không chịu nhận cha mà còn đối xử với ông Sáu vô cùng lạnh nhạt. Ông Sáu ở nhà suốt ngày và không muốn đi đâu, ông luôn tìm cách để có thể vỗ về con. Nhưng sự quan tâm, vỗ về của ông Sáu lại không thể thay đổi được thái độ lạnh nhạt của bé Thu.

Là một người cha,ông Sáu luôn cảm thấy có lỗi với con vì không thể ở bên chăm sóc khi con ra đời, ông khao khát được một lần nghe tiếng gọi “ba” của bé Thu. Trước những hành động chối bỏ, lời nói lạnh nhạt của con, ông Sáu không lỡ giận mà chỉ khe khẽ lắc đầu và cười, nụ cười ấy không phải nụ cười của hạnh phúc mà là nụ cười của sự bất lực, cam chịu.

Dù rất yêu thương con nhưng có một lần vì quá nóng giận mà ông Sáu đã lỡ đánh bé Thu, đó là khi bé Thu dùng đũa hẩy miếng trứng cá ra khỏi bát khi ông Sáu gắp cho bé, đây cũng là hành động khiến ông Sáu vô cùng hối hận, ngay cả khi hi sinh trên chiến trường ông cũng không thôi day dứt, đau khổ.

Đến ngày lên đường, dù nhìn thấy bé Thu ở trong góc nhà, dù rất muốn đến gần ôm và tạm biệt con nhưng ông Sáu lại sợ những phản ứng sợ hãi, chối bỏ của con mà chỉ đứng đó nhìn con với ánh mắt đầy đau khổ. Khi chuẩn bị bước lên xuồng, bé Thu bất ngờ chạy đến gọi cha, ông Sáu đã vô cùng xúc động ôm chầm lấy con, lấy khăn tay lau nước mắt và âu yếm hôn lên mái tóc của con. Có thể thấy, đây là lần đầu tiên ông Sáu rơi nước mắt nhưng đây là giọt nước mắt hạnh phúc, giọt nước mắt trùng phùng của tình cảm cha con.

Khi về công tác tại đơn vị kháng chiến, tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu vẫn khiến chúng ta vô cùng cảm động. Ông hối hận vì một chút nóng nảy mà lỡ tay đánh con. Trước khi chia tay, ông đã hứa ngày trở về sẽ tặng bé Thu một chiếc lược ngà, có thể thấy tác giả NGuyễn Quang Sáng rất chú trọng tả những chi tiết đến chiếc lược ngà này.

Khi chiến đấu, ông vô tình kiếm được một mảnh ngà voi, khi ấy ông Sáu vui vẻ, hớn hở như một đứa trẻ vừa được cho quà, niềm vui, sự xúc động này được thể hiện trực tiếp qua chi tiết: “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

Tình cảm sâu sắc của người cha dành cho con được thể hiện ngay trong việc làm cho con cây lược, ông Sáu tỉ mỉ trong từng chi tiết, cưa từng chiếc răng “…tỉ mỉ cố công như một người thợ bạc…” Khi hoàn thành chiếc lược, ông Sáu đã khắc lên thân lược dòng chữ “ Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Những dòng chữ gắn gọn nhưng lại chứa chan biết bao nhiêu tình cảm khiến chúng ta xúc động.

Mỗi khi nhớ con, ông Sáu lại mang chiếc lược ra để ngắm nghía, đôi lúc mài lên mái tóc để làm cho cây lược bóng hơn vì ông không muốn khi con chải tóc sẽ bị đau. Chiếc lược trở lên ý nghĩa hơn bao giờ hết, nó không chỉ đơn thuần là món quà của người cha mà đó còn là biểu tượng của tình yêu, của nỗi nhớ của một người cha hết lòng yêu thương con.

Khi chưa kịp trao cây lược ngà cho con gái như lời hứa hẹn trước ngày lên đường thì ông Sáu đã hi sinh trên chiến trường, đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mình ông khôn nguôi nhớ về con. Ông dồn chút lực tàn để lấy ra cây lược mà ông luôn mang theo bên mình để đưa lại cho người bạn chiến đấy của mình. Đây là một lời trăng trối đầy thiêng liêng, đó là ước nguyện cuối cùng của người cha ấy.

Qua hình ảnh của ông Sáu, Nguyễn Quang Sáng không chỉ cho chúng ta thấy tình cảm cha con thật thiêng liêng, đẹp đẽ mà nó còn cho thấy sự tàn bạo của chiến tranh, nó làm cho gia đình li tán, con xa cha, vợ lìa chồng. Tuy nhiên, truyện ngắn cũng là sự khẳng định mạnh mẽ về tình cảm gia đình, thứ tình cảm thiêng liêng mà bom đạn của kẻ thù không thể nào phá hủy được.

Phát biểu cảm nghĩ về ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng- Mẫu 3

Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn Nam Bộ nên trong văn thơ của ông có cái chất hồn hậu, mộc mạc mà thấm tình người như chính con người Nam Bộ vậy. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” sáng tác năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ gay gắt, quyết liệt ở chiến trường miền Nam. Trong không khí chiến tranh, tình cảm cha con trong truyện ngắn được nhà văn làm nổi bật tạo sự xúc động mãnh liệt cho người đọc. Trong các nhân vật trong truyện ngắn, hình ảnh người cha, tức ông Sáu thật khiến người đọc cảm thấy thật bình dị song cũng thật đẹp, tình yêu ông dành cho bé Thu làm lay động tâm hồn của độc giả.

Ông Sáu sau tám năm chiến đấu ở chiến trường, khi được nghỉ phép về thăm nhà, lòng ông nôn nao vì biết sắp được gặp con gái của mình, khi ông đi, con gái của mình mới được hơn một tuổi. Vì vậy, lần này trở về không tránh khỏi cảm giác hồi hộp, mong chờ. Có lẽ, tình cảm cha con thiêng liêng khiến ông nhận ngay ra bé Thu khi thuyền vừa mới cập bến, đó là một đứa bé khoảng lên chín, lên mười đang chơi ở gốc xoài.

Sự xúc động, vui sướng khiến ông nghẹn ngào gọi tên con: “Thu! con”. Sự nôn nóng, xúc động của ông Sáu ta hoàn toàn có thể hiểu được. Với một người cha mà nói, sự xa cách, biệt li suốt tám năm ròng với chính đứa con gái mình hết mực yêu thương, nay được gặp lại vừa là niềm vui đoàn viên, vừa là niềm hạnh phúc vô bờ bến.

Tuy nhiên, mọi niềm vui của ông Sáu dường như không được lâu, bởi ngay sau đó, khi ông “bước tới vừa đưa tay đón chờ con” thì bé Thu không chạy lại ôm chặt lấy ông như ông từng mường tượng mà con bé “tròn mắt nhìn”, cái nhìn “vừa lạ lùng, vừa ngơ ngác”. Sự xúc động làm cho vết thẹo trên mặt của ông “giật giật”, giọng nói run run không còn kìm chế được sự xúc động: “Ba đây con! Ba đây con”. Vì sự nôn nóng, biểu hiện có phần gấp gáp, vồ vập của ông Sáu, lại thêm vết sẹo đỏ ửng trên mặt giật giật khiến cho bé Thu hoảng sợ, bé đã chạy đi, vừa chạy vừa kêu thét “má! Má”. Bé Thu là một đứa trẻ, trước mặt có người lạ, lại có phần đáng sợ bởi vết sẹo trên mặt, sự hoảng hốt của bé, ông Sáu cũng phần nào hiểu được.

Nhưng bởi vì quá hi vọng vào cuộc đoàn viên hạnh phúc này nên khi bị bé Thu khước từ đón nhận, hoảng sợ chạy vụt đi thì ông Sáu đã “ngạc nhiên, đau đớn và hụt hẫng”. Sự đau khổ của người cha bị chính con mình từ chối thừa nhận được nhà văn Nguyễn Quang Sáng miêu tả rất xúc động: “đau đớn khiến mặt anh sầm lại… hai tay buông thõng như bị gãy”. Người cha náo nức vì niềm vui được gặp con gái, muốn ôm con vào lòng với tất cả sự âu yếm dành dụm bao năm xa cách nhưng lại bị đứa con hoảng sợ, chối từ. Đó chẳng phải nỗi đau đớn, tuyệt vọng nhất của một người cha hay sao?

Hai ngày ở nhà, ông Sáu cũng chẳng dám đi đâu xa, cứ quanh quẩn tìm mọi cách để được gần con, mong mỏi sự đón nhận của bé Thu. Tuy nhiên, hiện thực diễn ra khiến ông vô cùng đau lòng, bé Thu không những nhất quyết không chịu nhận ông, mà một chút quan tâm, chút lễ phép đối với ông cũng không có. Khi được má sai vào gọi ba xuống ăn cơm, bé Thu cũng gọi cộc lốc, trống không, gọi chỉ vì bắt buộc phải làm vậy: “Cơm chín rồi”. Lúc ấy ông Sáu “vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”. Tuy là cười đấy, nhưng sao nụ cười này thật buồn, còn man mác sự thất vọng, bất lực, khổ tâm của người cha. Vì dù bao nhiêu cố gắng đi nữa thì cũng đều vô vọng, chính đứa con gái ruột thịt mình yêu quý đều một mực khước từ, thậm chí còn phủ nhận sự xuất hiện của ông.

Tuy rất buồn nhưng chưa một phút giây nào ông Sáu thôi cố gắng, thôi chăm chút, lo lắng cho bé Thu. Trong bữa cơm gia đình, vì yêu thương con nên ông Sáu đã gắp cho con miếng trứng cá to nhất, ngon nhất. Nhưng đáp lại cử chỉ ân cần ấy là sự chối bỏ quyết liệt của con bé, con bé không những không đón nhận nó mà còn dùng đũa hất miếng trứng ra ngoài. Vì quá tức giận, ông Sáu đã đánh con. Đánh con nhưng lòng người cha còn đau gấp bội. Vì hành động nóng nảy này mà đến lúc hi sinh, ông Sáu vẫn mang theo sự hối hận. Đến tận lúc chia tay, lên đường vào chiến trận, ông Sáu vẫn “buồn nẫu ruột”, ông không dám chạy lại ôm con, bế con vì sợ con bé hoảng sợ. Ông chỉ đưa mắt lên nhìn, cái nhìn cũng “buồn rầu”. Nhưng thật bất ngờ, vào giây phút cuối cùng, khi sắp phải chia tay, ông Sáu lại vỡ òa trong hạnh phúc vì tiếng gọi ba bất ngờ từ bé Thu “b…a..”. Ông Sáu sững sờ, một lần nữa không kìm nén được xúc động, người đàn ông ấy một tay ôm con, một tay lau nước mắt. Có thể nói, đây là món quà ý nghĩa nhất mà ông Sáu nhận được trước giây phút lên đường.

Vào chiến trường, ông Sáu không giây phút nào thôi nhớ con, vì lời hứa mua cho bé Thu một chiếc lược, nên khi nhặt được một mảnh ngà, ông đã vui sướng như nhặt được một thứ gì lớn lao lắm. Rồi cũng tự tay ông làm món quà này tặng cho con. Trên chiếc lược ông còn kì công khắc lên những dòng chứa đầy yêu thương: “Yêu nhớ, tặng Thu con của ba”. Khi chiến đấu, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, ông Sáu vẫn nhớ đến con. Thu hết tàn lực, ông lấy ra cây lược, trao cho ông Ba, bạn chiến đấu thân thiết của mình, cũng là người ông tin tưởng nhất lúc này. Không đủ sức chăng chối điều gì, ông Sáu chỉ nhìn ông Ba với ánh nhìn ấy ám ảnh và thiêng liêng hơn một lời di chúc. Và đến lúc nhận được lời hứa từ ông Ba: “Tôi sẽ mang về trao tận tay cháu”, ông mới nhắm mắt đi xuôi. Ông Sáu ra đi, nhưng kỉ vật là cây lược ngà, vật chứa đựng biết bao tình cảm của ông dành cho con thì vẫn còn mãi đó. Tấm lòng của người cha dành cho con đến phút cuối của cuộc đời vẫn bao la như vậy, da diết như vậy.

Thông qua nhân vật ông Sáu, nhà văn Nguyễn Quang Sáng không chỉ khắc họa được sinh động mà không kém phần chân thực hình ảnh người cha vĩ đại, cùng với tình yêu to lớn dành cho con của mình. Mà còn đánh động vào sâu thẳm trái tim mỗi độc giả tình cảm cha con. Tôi tin rằng đọc tác phẩm này, nhiều độc giả nhớ về cha mình, nhớ về những hi sinh thầm lặng của cha trong suốt cuộc đời để dành cho chúng ta. Ta cảm nhận được sự thiêng liêng, vĩ đại nơi ông Sáu, ông không chỉ dành cho bé Thu tình cảm tuyệt vời nhất mà còn lưu giữ lại cho bé Thu một kỉ vật, đó chính là chiếc lược ngà, để khi nhìn vào đó, bé Thu có thể nhớ về cha mình, biết được tình cảm của cha dành cho mình sâu đậm đến mức nào.

Không chỉ là một người cha hết lòng yêu thương con, ông Ba còn là một người chiến sĩ cách mạng kiên trung, dũng cảm. Ông gắn bó với chiến trường, ngày ngày đối đầu với mưa bom bão đạn cũng chỉ mong mỏi đất nước được hòa bình, đất nước được tự do. Ông đã dành hơn nửa cuộc đời của mình để chiến đấu, dù có thương nhớ con nhưng ông cũng chưa bao giờ từ bỏ, vẫn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh, dâng hiến bất cứ lúc nào về Tổ quốc, quê hương của mình. Ta có thể thấy, dù yêu con nhưng ông Sáu cũng biết được trách nhiệm lớn lao của mình đối với Tổ Quốc. Vì vậy mà ông gác lại mong muốn được gặp con, được ôm con vào lòng, thực hiện nghĩa vụ với Tổ quốc thân yêu. Không chỉ chịu nhiều nỗi đau về thể xác khi chiến đấu, vết tích còn để lại đó là vết thẹo dài trên mặt mà ông cũng đã hi sinh tính mạng của mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc.

Như vậy, thông qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, nhà văn Nguyễn Quang Sáng không chỉ làm nổi bật lên sự thiêng liêng của tình cha con, nỗi đau, nỗi mất mát mà chiến tranh mang lại cho mỗi gia đình. Mà nhà văn còn khắc họa thành công nhân vật ông Sáu, người chiến sĩ kiên trung, song cũng là một người cha dành cho con mình tình cảm yêu thương vô bờ bến. Câu chuyện về ông Sáu thật khiến người đọc xúc động, bồi hồi, bởi hình ảnh ấy quá đẹp, nó chạm vào phần tình cảm sâu thẳm trong trái tim mỗi độc giả, đó là tình phụ tử thiêng liêng.

Phát biểu cảm nghĩ về ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng- Mẫu 4

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn Nam Bộ, các tác phẩm của ông chủ yếu viết cho con người và cuộc sống ở Nam Bộ. Trong đó “Chiếc lược ngà” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu được viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ khi cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Điều đáng lưu ý là truyện ngắn này viết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con. Tình cảm ấy đã diễn ra một cách sâu sắc cảm động từ hai nhân vật bé Thu và ông Sáu, nhưng có lẽ xúc động và gây ám ảnh hơn cả với người đọc là tình cảm người cha – ông Sáu dành cho đứa con gái của mình.

Ông Sáu là người nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước, lúc đi kháng chiến đứa con gái của ông chưa đầy một tuổi, mãi đến khi con gái lên tám tuổi ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Nhưng bé Thu đã cự tuyệt tình cảm của ông chỉ vì trên mặt ông có vết thẹo khác với người cha trong bức hình mà em đã biết. Đến phút chia tay ông mới đón nhận được tình cảm của con nhưng giây phút ấy quá ngắn ngủi. Vì nhiệm vụ, ông phải trở lại chiến trường, ông lên đường với lời hứa sẽ mua cho con một cây lược. Chính trong hoàn cảnh ấy tình cảm ông dành cho con thật sâu nặng và cảm động.

Trước hết tình cảm của ông Sáu dành cho con được thể hiện phần nào trong chuyến về phép thăm nhà. Đến lúc được về “cái tình cha con nôn nao trong lòng anh”. Khát khao đốt cháy lòng ông lúc này là được gặp con và mong con gọi một tiếng ba để ông được sống trong tình cha con mà bấy lâu nay ông từng mong đợi, vì thế mà khi xuống xuồng vào bến thấy một đứa bé chạc bảy đến tám tuổi, đoán biết là con không chờ xuồng cập bến, ông nhún nhảy thốt lên, xô chiếc xuồng tạt ra. Ông bước vội vàng với những bước dài rồi dừng kêu to “Thu con” tiếng gọi của ông Sáu nghe thật xúc động. Nó chứa đựng bao tình cảm yêu thương và khát khao gặp lại con. Nhưng thật trớ trêu, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực lảng tránh, điều đó khiến ông vô cùng đau đớn, thất vọng “nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.

Đặc biệt, mấy ngày ông Sáu ở nhà, ông chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con, ông mong được nghe một tiếng “ba” của con bé nhưng tất cả đều không trọn vẹn. Ông Sáu càng tỏ ra gần gũi con bao nhiêu thì con bé tỏ ra lạnh nhạt bấy nhiêu. Nó nhất định không chịu gọi ông là “ba”, không nhờ ông chắt nước nồi cơm đang sôi, những lúc như vậy ông khổ tâm hết sức, yêu con ông không lỡ mắng mà chỉ ”nhìn con khe khẽ lắc đầu vừa cười”. Nụ cười lúc này không phải là vui mà phản ảnh sự khổ tâm của ông “có lẽ vì khổ tâm quá đến nỗi không khóc được nên phải cười vậy thôi. Sự mất mát trong tình cảm của ông chính là bi kịch của chiến tranh, nó đã làm cho mặt ông đổi khác “vết thẹo dài” nên con bé trông ông không còn giống trong hình với má nó. Ông vẫn không nản lòng, vẫn quan tâm tới con, nhưng ông càng quyết tâm thì nó phản ứng càng dữ dội hơn, đó là trong bữa ăn ông gắp cái trứng cá to vàng để vào chén nó, tưởng nó sẽ hiểu được thành ý nhưng ngược lại nó liền “lấy đũa soi vào chén rồi hất cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe”. Lúc này ông bị con cự tuyệt hoàn toàn, vì quá thất vọng không kịp suy nghĩ anh vung tay đánh vào mông nó và hét lên “Sao mày cứng đầu vậy hả”. Tình yêu thương con của ông trở nên bất lực.

Đến lúc chia tay, ông cũng muốn ôm con hôn con nhưng lại sợ nó từ chối và bỏ chạy nên ông chỉ nhìn con với đôi mắt trìu mến và buồn rầu nhưng rồi trước những biển hiện tình cảm mãnh liệt của con, ông thực sự xúc động khi con bé cất tiếng gọi “ba”. Không kìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên tóc con. Giọt nước mắt của ông lúc này không vì đau khổ mà nó là ”giọt châu” rơi trong sự sung sướng hạnh phúc của một người cha yêu thương con sâu sắc.

Tình cảm yêu thương của ông Sáu được thể hiện tập trung và sâu sắc ở phần sau của truyện, khi ông Sáu trở lại chiến tranh. Sau khi chia tay với gia đình, ông Sáu vô cùng nhớ con. Những lúc ấy ông lại thấy dằn vặt day dứt vì đã đánh con trong lúc nóng giân, rồi lời dặn của con: “Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe Ba”. Đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà để tặng cho con, khi kiếm được khúc ngà voi ông đã vô cùng vui mừng sung sướng “mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

Vậy đấy, khi người ta ”hóa thành” trẻ con lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình, rồi ông Sáu dồn hết tâm sức và tình yêu thương và chiếc lược “những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố gắng như một người thợ bạc”. Trên sống lưng lược có khắc một chữ nhớ mà ông gò lưng tẩn mẩn khắc từng nét “yêu nhớ tặng Thu con của ba”.

Chiếc lược ngà trở thành kỉ vật thiêng liêng của ông Sáu, là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc đằm thắm sâu nặng. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao tình cảm yêu mến nhớ thương mong đợi của người cha đến với đứa con xa cách ”cây lược ấy chưa chải được mái tóc của con nhưng như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh”. Những đêm nhớ con, anh mang chiếc lược ngà ra ngắm ngía rồi cài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Lòng yêu thương con được kết tinh trong cây lược ngà ấy đã khiến cho người cha – người đã trở thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tác ra một tác phẩm duy nhất của cuộc đời.

Nhưng rồi trong tình cảnh đau thương lại đến với ông Sáu, ông bị trúng đạn của giặc. Trong giờ phút cuối cùng không kịp chăng chối lại điều gì, ông đưa tay lên túi, móc cây lược cho ông Ba – người bạn chiến đấu và nhìn bạn một hồi lâu, cái nhìn như một lời chăng chối ủy thác thiêng liêng là ước nguyện giữ gìn tình phụ tử muôn đời. Ông Sáu đã hi sinh nhưng tình cha con ở ông thì không thể nào chết được, tình cha con mãi thiêng liêng bất diệt.

Nhân vật ông Sáu người cha giàu tình yêu thương con đã để lại bao mến phục với độc giả, một phần nhờ cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Quang Sáng, trước hết nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện bất ngờ để bộc lộ nội tâm nhân vật ngoài ra tác giả chọn ngôi kể chuyện trong vai người bạn thân thiết của ông Sáu nên không chỉ là người chứng kiến khách quan kể lại câu chuyện mà còn bày tỏ sự đồng cảm chia sẻ với nhân vật ông Sáu.

Có thể nói, chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm nhưng hình ảnh nhân vật ông Sáu và câu chuyện về “chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng vẫn để lại bao ám ảnh day dứt trong lòng bạn đọc. Câu chuyện ấy không chỉ nói lên tình cha con thắm thiết sâu nặng của cha con ông Sáu, đặc biệt là tình cảm ông Sáu dành cho con, mà còn gợi cho người đọc nỗi đau thương mất mát của chiến tranh gây ra bao nhiêu gia đình, con người. Từ đó, ta càng có ý thức trân trọng giữ gìn tình phụ tử cao đẹp đồng thời trân trọng cuộc sống hòa bình đang được hưởng hôm nay.

Phát biểu cảm nghĩ về ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng- Mẫu 5

Truyện ngắn là cưa lấy một khúc của đời sống, để chỉ qua một khoảnh khắc, một chi tiết, một hình tượng nhân vật nhà văn có thể phản ánh đầy đủ sự sống đậm đặc. Với “Chiếc lược ngà” Nguyễn Quang Sáng đã thành công khi khắc họa hình tượng nhân vật ông Sáu, một người chiến sĩ yêu nước, người cha giàu lòng yêu thương con. Qua tác phẩm nhà văn muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp ý nghĩa rằng chiến tranh dù đạn bom ác liệt nhưng không bao giờ hủy diệt được tình phụ tử thiêng liêng, bất diệt. Hình tượng ông Sáu là sự thành công tiêu biểu trong việc xây dựng hình tượng của nhà văn.

Câu chuyện kể về ông Sáu, đi chiến khu tám năm từ khi con gái ông mới chưa tròn một tuổi, đến khi trở về với một vết thẹo dài trên mặt. Vì thế mà bé Thu – con gái ông, đã không nhận ông là cha. Câu chuyện xoay quanh cuộc gặp gỡ giữa người cha và đứa con sau nhiều năm xa cách, cũng là cuộc gặp gỡ đầu tiên và cuối cùng đầy xúc động, nghẹn ngào.

Trước hết ông Sáu hiện lên là một người chiến sĩ nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước. Ông đã tham gia vào hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Từ năm 1946 đến tận năm 1954 mới trở về. Khi ra đi đứa con gái đầu lòng của ông mới chưa tròn một tuổi. Vậy là ông Sáu đã hi sinh tình riêng, đặt tình chung lên trên, đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, quyết hi sinh đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ mảnh đất, ngọn cỏ dân tộc, bỏ lại sau lưng ánh mắt non nớt của đứa con thơ và người vợ tảo tần ngày đêm mong ngóng. Lòng yêu nước của người nông dân Nam Bộ được khắc họa thật mạnh mẽ, quyết liệt.

Không chỉ là một người chiến sĩ yêu nước, ông Sáu còn là một người cha giàu lòng yêu thương con. Sau nhiều năm xa cách, khi mới trở về nhà “cái tình người cha cứ nôn nao trong lòng anh”. Xuồng chưa cập bến, nhìn thấy một đứa trẻ chơi nhà tròi, đoán biết là con, không chờ xuồng cập bến anh đã nhún chân nhảy thót lên làm xuồng chới với. Bước vội vàng với những bước dài, anh gọi to “Thu! Con.” Đáp lại tình cảm của ông Sáu, bé Thu nhìn một cách ngơ ngác, lạ lùng và bỏ chạy, điều ấy đã khiến ông Sáu vô cùng đau đớn, thất vọng (hai tay buông thõng ra như bị gãy).

Mặc dù vậy, nhưng ông vẫn rất thương con, ông rất hiểu sự ngây thơ, bồng bột của con cho nên suốt ba ngày được nghỉ phép, ông luôn tìm cách vỗ về con, chăm sóc và bù đắp cho con những tháng ngày sống thiếu hơi ấm của tình cha. Ông chăm sóc, chiều chuộng con và chỉ mong một tiếng “ba” từ con, mặc cho Thu bướng bỉnh, nhưng ông Sáu vẫn giành cho con những tình cảm sâu sắc. Trong bữa cơm, ông đã ân cần gắp cho Thu miếng trứng cá to và ngon vào bát của Thu. Hành động này chứng tỏ tình cảm cha con rất sâu đậm. Kể cả khi ông Sáu đánh bé Thu vì đã hất miếng trứng cá ra khỏi bát làm mâm cơm lộn xộn thì đó cũng chỉ là bởi ông quá thương con, quá đau đớn khi nhìn thấy sự lạnh lùng của cô bé giành cho mình nên lỡ đánh con rồi sau đó dằn vặt, day dứt khôn nguôi.

Tình yêu thương con của ông Sáu trong những ngày ở chiến khu càng thêm da diết. Sau buổi chia tay với con gái yêu để trở lại chiến trường Nam Bộ tiếp tục kháng chiến. Ông Sáu đã mang theo tình yêu thương và nỗi nhớ con vào chiến trường xen lẫn cả sự ân hận vì đã đánh con. Đồng thời ông đã dồn hết tâm sức vào việc làm chiếc lược ngà. Ông vui mừng phấn khởi khi kiếm được khúc ngà, sau đó dùng vỏ đạn hai mươi li đập mỏng thành răng cưa ngà voi thành chiếc lược ngà một cách tỉ mỉ, công phu và khéo léo.

Khi cây lược được hoàn thành, ông tỉ mẩn, gò công khắc lên chiếc lược dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Sau khi làm xong cây lược ông Sáu phần nào vơi đi nỗi nhớ con, nỗi ân hận vì đã đánh con, có cây lược bên cạnh thì ông như có đứa con gái bên mình. Có cây lược ông càng khao khát được gặp con và tận tay trao cho con chiếc lược. Nhưng trớ trêu thay, ông Sáu đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay con món quà ấy, thế nhưng ánh mắt, cái nhìn không đủ lời diễn tả của ông đã nói lên tất cả tình yêu thương ông giành cho bé Thu.

Trong giờ phút cuối cùng, không đủ sức để trăn trối điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, ông đưa tay vào túi, móc cây lược…”. Đó là tình cảm cao đẹp, sâu nặng cảm động trong tình cảnh éo le của chiến tranh. Tình phụ tử bất diệt ấy không bao giờ chết đi và mãi mãi bất tử ở chiếc lược ngà, trong lòng bé Thu, trong lòng bác Ba, trong trái tim âm thầm của độc giả.

Bằng cách xây dựng hình tượng nhân vật ông Sáu, Nguyễn Quang Sáng muốn gửi đến chúng ta thông điệp đầy nhân văn: tình phụ tử cao đẹp, thiêng liêng mà bom đạn có thể hủy diệt tất cả nhưng không thể cướp đi tình cha con sâu nặng, thiêng liêng. Với cách kể chuyện theo ngôi thứ nhất, cách xây dựng tình huống truyện độc đáo đã góp phần thể hiện chân thực, chính xác hình tượng ông Sáu, để lại vết khắc trong lòng bạn đọc bao thế hệ.

Phát biểu cảm nghĩ về ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng- Mẫu 6

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng được biết đến là một nhà văn gắn bó với chiến trường Nam Bộ. Đến với đoạn trích “Chiếc lược ngà”, ta bắt gặp một tình huống truyện bất ngờ mà lại tự nhiên, hợp lý, thể hiện được sâu sắc tính cách nhân vật. Trong đoạn trích, nhân vật ông Sáu đã được khắc họa rõ nét tính cách thông qua những lời nói và hành động, thể hiện được một tình cảm thiêng liêng, đáng quý của người cha đối với con.

Câu chuyện kể về tình cảm cha con sâu sắc giữa nhân vật ông Sáu và nhân vật bé Thu. Sau 8 năm xa cách, ông Sáu mới được một lần về thăm gia đình, thăm con. Gặp lại con, ông tưởng sẽ được con ôm chầm lấy con vào lòng, nhưng ông lại phải chịu sự xa lánh của đứa con gái đầu lòng cũng là đứa con duy nhất. Trong mấy ngày nghỉ phép, ông Sáu muốn dành hết tình cảm cho con gái, nhưng con bé lại càng cố gạt ra. Trong một lần không nén nổi tức giận, ông Sáu đã quơ đũa đánh con, sau đó ông cũng đã rất hối hận về hành động của mình. Đến khi phải lên đường, thì bé Thu mới nhận ông là ba, ông vẫn phải ra đi, mang trong mình lời hứa mua cho con một cây lược, Khi bị thương nặng, ông vẫn dùng ánh mắt khẩn thiết của mình để nhờ bác Ba có ngày trao tận tay hộ ông chiếc lược ngà.

Ông Sáu là một người cha hết mực yêu thương con. Xa cách con từ những ngày đầu, ông Sáu luôn canh cánh trong lòng nỗi nhớ thương con. Điều đó thể hiện rõ qua lần gặp đầu tiên của ông Sáu đối với bé Thu. Ngay cả khi xuồng chưa cập bến, ông Sáu đã rất nôn nóng được ôm chầm lấy con, và ông xúc động vô cùng vào giây phút ấy, vết thẹo trên má ông bắt đầu giật giật. Và tình cảm cho con cháy bỏng bao nhiêu, ông lại thất vọng và hụt hẫng bấy nhiêu khi bé Thu nhìn ông với ánh mắt ngạc nhiên và chạy đi. Sự hụt hẫng biết bao khi tình cảm, mong chờ của mình không được con gái đáp lại thể hiện qua cái buông thõng tay của ông Sáu.

Trong những ngày nghỉ phép, ông Sáu luôn muốn dành tình cảm cho con, nhưng con bé lại càng lúc càng muốn đẩy ra. Ông mong chờ ở bé Thu một tiếng gọi ba nhưng càng lúc càng vô vọng, con bé bướng bỉnh và nhất quyết không gọi. Đối với những người cha khác, được nghe tiếng con gái gọi “ba” là một điều dễ dàng, nhưng đối với ông Sáu lại là một khát khao cháy bỏng. Ông dành tình yêu thương cho con nên khi con bé bị đẩy vào tình huống khó xử lúc cơm sôi ông cũng chưa giúp, chỉ mong con bé vào thế bí mà gọi ông bằng “ba”, nhưng cũng không được. Ông chỉ biết cười trừ, mà nụ cười ấy chất chứa đầy đắng cay, bất lực.

Đó là sự bất lực khi tình yêu con dạt dào mà không được con chấp nhận. Đến bữa cơm, ông cũng dành cho con miếng trứng cá to và ngon nhất, nhưng con bé lại hất văng cái trứng cá ra. Quá bất lực, sự mong ngóng con chấp nhận ba hàng ngày đã dồn nén thành nỗi đau đớn, hóa thành tức giận nhất thời mà ông Sáu đã đánh con. Cái đánh con ấy, cũng khởi nguồn từ tình yêu con quá sâu nặng, sự mong ngóng được hồi đáp tình cảm từ con quá mãnh liệt. Sau khi đánh con, ông Sáu cũng đã rất ân hận, vì sao lúc đó lại đánh con, ông cũng rất thương con của mình.

Đặc biệt, tình yêu thương con mãnh liệt của ông Sáu được thể hiện rõ qua khung cảnh chia tay. Lúc bé Thu nhận ba, gọi tiếng “ba” xé gan xé ruột, ông Sáu như vỡ òa trong niềm hạnh phúc. Ông khóc, những giọt nước mắt của sự chờ đợi tình cảm dồn nén qua bao nhiêu năm, được giải tỏa bởi vì con đã chịu nhận ba. Tình cảm dành cho con sâu nặng đã được đền đáp, ông Sáu đã vô cùng mãn nguyện. Tuy nhiên, ông vẫn phải lên đường làm nhiệm vụ. Ông thương con, nhớ con, giữ lời hứa mang về cho con một cây lược. Hình ảnh “chiếc lược ngà” được làm tỉ mỉ, chính là thể hiện sâu sắc nhất tình cảm của ông Sáu với bé Thu, minh chứng cho một tình cha mãnh liệt, sâu nặng.

Ông Sáu còn là một người chiến sĩ Cách mạng tận tâm, kỉ luật, trách nhiệm. Ông là người chồng, người cha giàu tình yêu thương như thế, nhưng khi làm một người lính, được nghỉ phép ông mới về thăm nhà, mặc dù quãng thời gian xa gia đình xa con ông luôn canh cánh nỗi nhớ. Và kể cả khi thời gian về thăm gia đình rất ít, phải đến giây phút chia tay con mới nhận cha, được người đồng đội là bác Ba gợi ý hay là ở lại nhà một vài hôm, ông Sáu cũng không đồng ý, ông vẫn quyết lên đường làm nhiệm vụ. Ta có thể thấy ở đây, ông Sáu khi mang trên mình trách nhiệm đối với đất nước, ông luôn làm nhiệm vụ một cách trách nhiệm, kỉ luật.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện và khắc họa tính cách nhân vật ông Sáu điển hình, với cách phân tích diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế. Qua đó, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh ông Sáu bên cạnh là một người cha hết mực thương con, còn là một người chiến sĩ kỉ luật, trách nhiệm, giàu tình yêu quê hương, đất nước.

Phát biểu cảm nghĩ về ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng- Mẫu 7

Trong các tác phẩm văn học thời kỳ kháng chiến về đề tài gia đình, có lẽ chúng ta không thể bỏ qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Đặc biệt là hình ảnh của ông Sáu, một người chiến sĩ cách mạng dũng cảm và một người cha với tình yêu thương con sâu sắc, mãnh liệt.

Nguyễn Quang Sáng đã được biết đến như một nhà văn chiến sĩ, ông tích cực tham gia kháng chiến cũng như viết văn, chủ yếu về con người Nam Bộ. Năm 1966, khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, ông đã viết truyện ngắn này và dược in trong tập truyện cùng tên. Nhân vật ông Sáu trong truyện, theo tiếng gọi của tổ quốc ông đã lên đường đi kháng chiến, sau 8 năm mới có dịp về thăm nhà. Trong giây phút ấy, ông nôn nao, mong ngóng được gặp con và ôm ấy con vào lòng, bù đắp sự thiếu hụt của tình phụ tử bao năm. Nhưng trái lại với những mong mỏi của ông, bé Thu đối xử với ông như người xa lạ, không chịu gọi ba, bao nhiêu tình yêu thương ông dành cho con đều không được đền đáp. Giây phút hạnh phúc nhất của ông là khi bé Thu nhận ra ông nhưng đó cũng là lúc người chiến sĩ cách mạng ấy phải lên đường, bao nhiêu tình cảm ông dành vào việc làm chiếc lược ngà tặng con khi ở khu căn cứ.Ông Sáu đi kháng chiến khi bé Thu- đứa con gái đầu lòng của ông chưa đầy 1 tuổi, ông chưa một lần được gặp con, chỉ nhìn con qua những bức ảnh mà vợ mang đến. Vì vậy, nỗi nhớ con luôn trào dâng mãnh liệt trong lòng ông. “Xuồng vừa cập bến, thấy một đứa bé mặc quần đen áo bông đỏ đang chơi ở nhà chòi, đoán biết là con, ông nhún chân nhảy thót lên.” Hành động của ông vội vàng, cuống quýt chứng tỏ khao khát được gặp con trong ông lớn đến chừng nào. “Thu, con”, ấy là tiếng gọi dồn nén bao nhiêu lâu nay trong lòng người cha ấy. Khi thấy Thu tỏ ra ngạc nhiên, ông hụt hẫng, vết thẹo trên má phải giật giật và hai tay đưa về phía trước “Ba đây con”, “Ba đây con”. Nhưng Thu lại hoảng sợ và bỏ chạy, hai tay ông buông thõng xuống như bị gãy. Với tình cha mãnh liệt, thái độ của Thu đã khiến ông Sáu đau đớn và thất vọng, một người cha tội nghiệp, đáng thương.Trong ba ngày, ông chẳng đi đâu xa, chỉ muốn ở gần con nghe con gọi tiếng ba, nhưng con bé bướng bỉnh, có phần vô lễ, khi bị ép thì nó chỉ nói trổng: “Vô ăn cơm”. Trước thái độ của con, ông Sáu chỉ biết cười vậy thôi. Khi ông gắp cái trứng cá to cho Thu, nó đã hất ra làm cơm văng tung tóe. Vì tức giận ông đã đánh con. Trong giờ phút chia tay, ông muốn thể hiện tình cảm với con nhưng lại sợ Thu phản ứng, ông chỉ nhìn con với đôi mắt trìu mến xen lẫn nỗi buồn: “Thôi, ba đi nghe con”. Khi Thu cất tiếng gọi ba và thổ lộ tình cảm với ông. Ông sáu hạnh phúc và xúc động nghẹn ngào, một tay ôm con, tay kia lau nước mắt. Đó là giọt nước mắt của hạnh phúc và tình phụ tử thiêng liêng, vỡ òa trong một tiếng gọi ba.

Tình cảm yêu thương con của ông thể hiện rõ trong những ngày ông ở khu căn cứ. Tình cảm yêu thương và nỗi nhớ con dâng trào mãnh liệt, ông Sáu day dứt vì đã đánh con. Với ông, lúc này việc làm cây lược như một bổn phận, là cây lược của tình phụ tử. Ông lấy vỏ đạn 20li đập mỏng, làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc ngà thành từng miếng nhỏ, những lúc rảnh ông chưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ, cố công như một người thợ bạc. Trên sống lược, ông gò lưng tẩn mẩn khắc lên từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Tất cả những hành động ấy cho thấy tình yêu thương mãnh liệt mà ông dành cho Thu. Ông thường lấy cây lược chải lên mái tóc mình cho thêm bóng. Chính tình yêu thương con đã biến ông Sáu không chỉ là một chiến sĩ mà còn là một nghệ nhân chỉ sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật duy nhất, đó là cây lược kết tinh tất cả tình phụ tử mộc mạc đằm thắm, đơn xơ, kì diệu mà giản dị. Mỗi nét chữ là bao tình cảm ông dành cho con. Cây lược đã làm vơi bớt đi sự khốc liệt của chiến tranh, làm vơi đi nỗi nhớ con. Nhưng chưa trao được cây lược cho thu, ông Sáu đã hy sinh, ông nhìn bác Ba một hồi lâu, đó là bản di chúc không lời, ước vọng níu giữ tình cảm cha con.

“Chiếc lược ngà” đã khắc họa thành công tình phụ tử thiêng liêng, tình cảm gia đình trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt qua hình ảnh ông Sáu hiền từ, dũng cảm với tình yêu thương con sâu sắc. Đó chính là động lực tinh thần giúp con người vượt lên bom đạn, chiến đấu và chiến thắng.

Phát biểu cảm nghĩ về ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng- Mẫu 8

Năm 1966, cuộc kháng chiến chống Mỹ đã diễn ra ác liệt, biết bao nhiêu người đã phải hi sinh, mãi mãi nằm lại trong lớp đất sâu. Nguyễn Quang Sáng cũng đã kịp thời viết nên truyện ngắn Chiếc lược ngà cổ vũ mạnh mẽ cho tinh thần chiến đấu của nhân dân miền Nam. Chiếc lược ngà một tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng đã gây nhiều xúc động cho độc giả. Có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng người đọc chính là nhân vật ông Sáu – cha bé Thu, một chiến sĩ cách mạng phải rời xa gia đình khi đứa con bé bỏng chưa tròn một tuổi.

Nét đẹp đầu tiên chúng ta cảm nhận được từ ông Sáu là tình yêu đất nước tha thiết. Khi đất nước bị xâm lược, ông sẵn sàng từ bỏ quê hương, gia đình để đi chiến đấu. Ở khu căn cứ, ông kiên cường chiến đấu quên mình vì trong lòng anh có khao khát đất nước được hòa bình, mọi người không phải chia xa với gia đình, quê hương, đất nước.

Đâu ai biết được, trong lòng ông vẫn ngày đêm mong mỏi ngày được trở về với gia đình. Muốn được về ôm đứa con vào lòng và âu yếm nó. Nhưng đất nước vẫn còn tràn ngập bóng quân thù, ông không nào vì lợi ích cá nhân, hạnh phúc gia đình mà quên đi đất nước được? Ông Sáu hiểu được rằng một khi đất nước còn bị kẻ thù xâm lược thì sẽ không có gia đình nào được hạnh phúc. Vì vậy, càng yêu gia đình, ông càng quyết tâm chiến đấu đến cùng.

Mặc dù ở chiến trường tràn đầy nguy hiểm, có thể đối mặt với sự chết chóc bất cứ lúc nào nhưng hình ảnh một gia đình hạnh phúc vẫn tràn ngập trong tim ông. Nó là động lực để ông vững tin chiến đấu để rồi một ngày được trở về.

Suốt thời gian đi chiến đấu, ông chỉ được nhìn hình ảnh của người con qua tấm ảnh hồi nhỏ. Hình ảnh lớn dần của bé Thu chỉ qua trí tưởng của ông mà thôi. Mỗi lần vợ ra thăm, ông cứ nằng nặc bảo mang con đến, nhưng vì sự khốc liệt của chiến trường miền Đông nên chị Sáu đâu dám mang con đến.

Để rồi, cho đến khi được nghỉ phép trở về thăm con, ông Sáu đã không thể giấu hết nỗi vui mừng. Hình ảnh “xuồng chưa cập bến, anh đã nhún chân nhảy thót lên” đã một phần diễn tả được tâm trạng háo hức được gặp con của ông. Ông chờ đợi bé Thu chạy tới ôm chầm lấy và gọi lên một tiếng “ba” tha thiết. Tất cả rộn ràng trong trái tim ông.

Nhưng sự thật lại hoàn toàn không giống như những gì ông đã nghĩ. Bé Thu nhìn ông ngơ ngác rồi hét lên, chạy vào kêu “má”. Còn nỗi đau nào sánh kịp khi đứa con mình mong mỏi gặp từng ngày lại không nhận ra cha nó. Ông Sáu hụt hẫng, “hai tay buông xuống như bị gãy”. Ông đâu nào biết được hóa ra vết sẹo dài trên mặt anh đã làm cho bé Thu không nhận ra cha mình bởi vì vết sẹo làm cho ông khác với trong hình. Chính điều đó dẫn đến những căng thẳng giữa ông và con trong mấy ngày về nhà.

Ba ngày ngắn ngủi, những hành động và cách nói chuyện của bé Thu đã làm cho trong lòng ông Sáu như có thêm một vết sẹo khác nữa. Ông đã làm mọi cách nhưng bé Thu vẫn không chịu gọi ông là ba. Không biết làm gì hơn, ông Sáu chỉ biết trông đợi và lo lắng vì ba ngày nghỉ phép đã sắp trôi qua.

Căng thẳng lên đến đỉnh điểm khi bé Thu thẳng tay hất cái trứng cá ra khỏi chén. Hành động vô lễ ấy khiến ông Sáu không thể kìm nén cơn giận, như giọt nước làm tràn ly, ông Sáu đã đánh con. Sau khi đánh xong, anh đã rất hối hận vì hành động ấy của mình. Đó cũng là sự bất lực của anh trước sự ngang bướng của con bé.

Tưởng chừng như ông Sáu sẽ thất bại trong lần về nhà này. Nhưng không phải thế. Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo cài đặt các tình tiết, nhẹ nhàng cởi mở mâu thuẫn và căng thẳng cho truyện. Nhờ bà ngoại giải thích về vết sẹo trên khuôn mặt ông Sáu mà bé Thu đã hiểu ra tất cả. Ông Sáu, người mấy hôm nay ở nhà nó đích thực là cha nó đấy. Cả đêm hôm ấy con bé đã không thể ngủ được. Nó cứ nằm trằn trọc. Đôi lúc khẽ thở dài. Nó đang hối hận. Nó muốn nhanh tới sáng để mau về với cha nó, nó cần làm một vài việc rất cần thiết.

Buổi sáng chia tay trên bến sông là cảnh tượng vô cùng cảm động. Ngay lúc ông Sáu đã hoàn toàn thất vọng thì bé Thu cất tiếng gọi ba tha thiết rồi chạy thật nhanh lại ôm chầm lấy ông. Quá bất ngờ và xúc động, ông Sáu cũng ôm con thật chặt trong niềm hạnh phúc tột cùng. Con bé cứ gọi ba tha thiết và vồ vập hôn lên khắp khuôn mặt ông. Nó hôn lên cả vết sẹo như muốn nói lời xin lỗi đã ngộ nhận nó bấy lâu. Nó bấu riết lấy ông Sáu, không muốn rời xa. Cảnh tượng ấy khiến những người tiễn đưa không cầm được nước mắt. Ông Sáu lên đường mang theo ước muốn của con. Nó muốn có một chiếc lược để chải tóc.

Khi trở về chiến khu ông Sáu đã tìm được một khúc ngà, mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà. Sau đó ông tỉ mỉ cưa từng chiếc răng lược bằng tất cả tâm tình ông dành cho đứa con của mình. Những đêm nhớ con, ông lại lấy chiếc lược ra ngắm, thỉnh thoảng lại mài lên tóc cho cây lược thêm bóng. Nhưng còn chưa kịp trao cây lược đến tay con ông đã hi sinh trong một trận càn khốc liệt của địch.

Đối với nông Sáu, phần quan trọng nhất trong thâm tâm của ông chính là bé Thu. Tình yêu cha con lúc chiến tranh sao mà mãnh liệt, tang thương như vậy.Tình cảm gia đình của ông Sáu, bé Thu chưa được bao lâu đã bị biến mất. Chính chiến tranh đã làm cho biết bao nhiêu gia đình phải chia lì. Chính chiến tranh đã chia cắt họ mãi mãi. kẻ thù như những bóng ma len lỏi vào từng ngóc ngách cuộc sống của con người.

Qua nhân vật ông Sáu, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu nặng của người cha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những em bé, những gia đình. Ông Sáu đã hi sinh nhưng tình cảm cha con không bao giờ chết. Tình yêu thương cha tha thiết của bé Thu đã trở thành sức mạnh chiến đấu sau này của cô bé, khi em trở thành cô giao liên, tiếp tục nhiệm vụ chiến đấu dang dở của cha. Nó chứng minh một điều rằng bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của con người, tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được.

Đọng lại trong mỗi chúng ta là hình ảnh nhân vật ông Sáu trong cuộc chiến tranh khốc liệt. Dù hoàn cảnh có khốc liệt đến mấy thì tình yêu cha con ấy vẫn bất diệt. Bằng cách xây dựng nhân vật và cốt truyện hoàn hảo. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã để dư âm mãi trong lòng chúng ta.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách ” Phát biểu cảm nghĩ về ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 03/2024!