Updated at: 30-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Phân tích và nêu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” chuẩn nhất 04/2024.

 Dàn ý Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang:

1.1. Mở bài:

– Giới thiệu nhân vật và đoạn trích

1.2. Thân bài:

a. Bức chân dung tự họa của nhân vật Robinson vẽ ở đảo hoang:

– Bằng lối kể chuyện hóm hỉnh, hóm hỉnh đã thể hiện được một bức tranh vô cùng nồng nàn, hài hước,

– Rô-bin-xơn với trang phục cổ quái, dị thường và những sáng tạo thông minh về cách ăn mặc

-Thiết bị của Robinson đầy đủ, nhưng lộn xộn, nhiều và thô sơ.

-Robinson ngoại hình thì không thể chê vào đâu được, không đen lắm, râu dài

b.Con người Robinson sau bức chân dung:

– Có tinh thần lạc quan, yêu đời

– Nghị lực phi thường, lòng dũng cảm

– Lao động sáng tạo và con người sáng tạo trong công việc

– Robinson đã vượt qua thời gian khắc nghiệt, hoàn cảnh khó khăn để thể hiện mình

– Phản đối vì một cuộc sống tốt đẹp hơ

=> Đánh giá

+ Nội dung: ca ngợi ý chí, nghị lực, tinh thần lạc quan của con người trong cuộc đấu tranh vì cuộc sống tốt đẹp hơn

+ Nghệ thuật: lựa chọn ngôi kể, cách kể chuyện tự nhiên, hài hước, hấp dẫn

1.3. Kết bài:

– Ý nghĩa và giá trị không mặc định của trích dẫn

Phân tích và nêu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang- Mẫu 1

Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích chương 10 tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô của nhà văn Đi-phô người Anh trong thế kỉ XVIII. Tác phẩm lúc đầu mang một cái tên dài. Cuộc đời và những chuyện phiêu lưu kỳ lạ của Rô-bin-xơn Cru-xô. Phiêu lưu và tự truyện là 2 tính chất nổi bật của tác phẩm này. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang cũng như toàn bộ cuốn tiểu thuyết thấm nhuần một vẻ đẹp nhân văn, vừa cảm thông với sự rủi ro, bất hạnh của một con người, vừa ca ngợi sức sống mạnh mẽ, đầy nghị lực và sáng tạo của một thanh niên giữa một thiên nhiên hoang dã, ngoài hoang đảo!
Nhiều năm tháng đã trôi qua, Rô-bin-xơn đã sống một mình giữa hoang vu. Trước mắt vẫn là những chặng đường đầy thử thách. Anh nói: “Tôi sống yên ổn trên đảo và chịu đựng số phận của mình hơn một năm nữa”. Ta như đang nghe tiếng anh thầm thì kể lại những nếm trải cay đắng ngọt bùi. Tiếng anh như chìm đi trong sóng gió đại dương đang bủa vây hoang đảo.
Anh đã nói với chúng ta những gì anh đã làm và anh đã sống trong ngót ba thập kỷ. Cô đơn, thú dữ, bệnh tật, thiếu thốn. Không thể chết được! Phải sống và biết cách sống, vốn là một thanh niên ưa mạo hiểm, thích làm giàu, giờ đây hoàn cảnh khắc nghiệt đã rèn luyện anh trở thành một con người “lành nghề trong nhiều ngành thủ công”. Anh làm việc không mệt mỏi để không còn thì giờ “nghĩ ngợi vẩn vơ”. Đó cũng là một phương pháp tư tưởng đúng đắn tích cực. Nhờ thế, anh đã trở thành một thợ nặn rất khéo, nặn được đủ thứ vật dụng, từ chum vại, bình vò đến bát đĩa. Anh đã trồng được thuốc để hút, giờ đây lại nặn được cái lẩu “tuyệt mĩ” nữa, vì thế anh vô cùng “thích thú”. Anh dùng cây miên liễu để đan lát. Đan thúng để quảy mồi săn được, đựng hoa trái kiếm được. Đan bồ đựng thóc, đan được nhiều đồ dùng khác nữa. Nói lao động là sáng tạo, lao động là phát triển năng khiếu thẩm mĩ của con người, trong trường hợp này đối với Rô-bin-xơn là hoàn toàn đúng.
Ở đời, những kẽ yếu hòn dễ bị khó khăn quật ngã. Với Rô-bin-xơn, anh đã trải qua một vạn ngày cô đơn trên hoang đảo rồi! Tuổi trẻ đã trôi qua. Thể lực và chí khí đã hao mòn. Chặng cuối cùng bao giờ cũng vậy, khó khăn, thử thách như được nhân lên một cách ghê gớm! “Thuốc đắng cạn liều cũng thấy đắng – Đường gay cuối chặng lại thêm xay” (Hồ Chí Minh). Đó là quy luật. Rô- bin-xơn cho biết hoàn cảnh mình: “Thuốc đạn ngày càng khan, thực phẩm cũng vơi dần”. Bước sang năm thứ 11 ở trên đảo, anh đã bắt tay vào việc chăn nuôi, sau khi đã trồng lúa, trồng mạch thành công. Anh đã đánh bẫy dê rừng, làm chuồng và nuôi nấng, thuần dưỡng dê. Chỉ 2 năm sau, anh đã có một đàn dê lên tới 43 con để giết thịt ăn dần. Vừa giàu chí khí, vừa giàu sáng tạo và khéo chân tay, anh đã biết vắt sữa, làm hơ, làm phó mát, thuộc da dê may áo quần, trồng hoa quả. Anh đã nổi về đời sống vật chất của mình trên hoang đảo sau những năm dài vật lộn, với tất cả niềm vui ánh lên tự hào:

“Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bữa ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và phó mát; tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn”.
Rô-bin-xơn đã không bị thiên nhiên khuất phục. Trái lại, anh biết dùng trí tuệ, đôi bàn tay và ý chí của mình của CON NGƯỜI  để cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ đời sống mình. Việc nuôi dưỡng và thuần dưỡng dê rừng của Rô-bin-xơn là một kỳ công. Sữa tươi, phó mát, hơ, áo da mà anh làm ra là thành quả lao động trong gian khổ và cô đơn. Người đọc gần 300 năm nay trên trái đất vô cùng khâm phục anh một con người bất hạnh mà vĩ đại.
Phần sau của chương 10 nói về “Một vài nét hình thù ông “chúa đảo” khi di chu du trong vương quốc của mình”. Đây là bức chân dung tự họa rất hóm hỉnh giàu giá trị nhân bản. Có một điều rất thú vị là trên cái “vương quốc” hoang đảo này, chỉ có một vị chúa đảo” là Rô-bin-xơn, chỉ có một thần dân, đó cũng là Rô-bin-xơn. Anh đã nói về trang phục, về mày râu của mình. Ta có thể đi theo vị “chúa đảo” mà chiêm ngưỡng. Bộ áo quần bằng da rất kỳ lạ, có thể làm “kinh sợ” hay “bò ra mà cười” ai đổ khi lần đầu bắt gặp. Cái mũ bằng da dê “cao lêu đêu”. Một cái áo chẽn cũng cắt bằng da dê “tà áo chấm ngang đầu gối” rất quý tộc; cái quần ngắn may bằng da dê xồm, lông dê dài lê thê, buông thõng đến mắt cá, thành ra quần đùi mà không khác quần dài! Cái thắt lưng cũng bằng da dê để giắt cưa và búa. Hai cái túi bằng da dê “hình dáng lạ lùng” để đựng đạn ghém và đựng thuốc súng, đeo lủng lẳng bằng một dây da vòng qua cổ. Đây là những nét miêu tả rất hiện thực nói lên cuộc sống của con người nơi hoang đảo về mặt trang phục, hình hài đã trở nên “cổ quái”, kỳ dị. Vì thế chàng trai Rô-bin-xơn càng ngày càng “rám nắng, đen sạm lại” Râu thỉnh thoảng được cạo nhưng vẫn “đảm ra tua tủa như chổi xể”. Trên mép là một cặp ria theo kiểu người Thổ Nhĩ Kỳ “vừa dài vừa rậm khác thường”. Chó vốn là một vật nuôi vô cùng tinh khôn. Rô-bin-xơn có một con chó như một người bạn, một vệ sĩ rất trung thành với chủ, từng chia ngọt sẻ bùi với chủ, mà nay, có lúc nhìn “lệ bộ” da dê, râu ria của Rô-bin-xơn, nó có vẻ “kinh ngạc khiếp sự”, nó “nghi nghi hoặc hoặc”, sợ hãi, dò xét “cái con quái vật kỳ dị kia là bạn ây là thù”. Đó là chất hoang dã lấn chiếm, hoang dã hóa con người. Phải có một sức mạnh to lớn lắm mới chế ngự và hạn chế sức mạnh ghê gớm của thiên nhiên nơi hoang đảo.

Nhân vật “tôi” tự kể chuyện mình. Một giọng văn trầm, có lúc thoáng một nét buồn, có lúc hài hước. Một trang đời vất vả, cay đắng cũng có khoảnh khắc “thịnh soạn” đàng hoàng. Cái rủi ro phải trả giá cả một thời thanh xuân trong cô đơn và gian nan. Rô-bin-xơn hiện lên với tất cả sức mạnh của con người. Anh đã khẳng định và cho mọi người tìm được một bài học: Dám sống và biết cách sống, sống một cách mạnh mẽ, dũng cảm và sáng tạo trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Có người đã từng ngợi ca, đoạn văn Rô-bin-xơn ngoài hoang đảo là bài ca lao động sáng tạo hào hùng của con người. Rô-bin-xơn đã phiêu lưu và mạo hiểm. Cái vĩ đại và đáng quý nhất ở anh là anh đã sống đẹp như một con người chân chính.

Phân tích và nêu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang- Mẫu 2

Đ. Đi-phô (1660 – 1731) là đại văn hào của Vương quốc Anh, sống ở cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII. Những độc giả yêu văn khắp nơi trên thế giới đều biết đến tên tuổi của Đ.Đi-phô qua kiệt tác Rô-bin-xơn Cru-xô. Đặc biệt, hình ảnh của nhân vật Rô-bin-xơn trong trích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang của tiểu thuyết này đã đọng lại trong tâm hồn người đọc nhiều suy nghĩ và cảm xúc.

Rô-bin-xơn là một chàng trai thích hoạt động, ưa phiêu lưu, say sưa đến những miền đất lạ, bất chấp sóng to, gió lớn và bao nỗi gian nan, nguy hiểm khác. Rô-bin-xơn xuống tàu ở Hơn, theo bạn đi Luân Đôn bằng đường biển. Cuộc hành trình không gặp may mắn, con tàu bị đắm chìm ở Y-ac-mao. Thế nhưng, tai họa ấy không làm chàng nản lòng. Cha mẹ khóc lóc, bạn bò can ngăn vẫn không lay chuyển được quyết tâm của chàng – chàng làm quen với một viên thuyền trưởng tàu buôn; lần này rời bến ở Ghi-nê. Chuyến đầu tiên thuận buồm xuôi gió. Chuyến thứ hai gặp cướp biển, Rô-bin-xơn bị bắt làm nô lệ ở Xa-lê, hai năm sau trốn thoát sang Bra-xin lập trang trại trồng trọt. Chàng vẫn không hề nao núng; vài nằm sau nghe lời các bạn rủ rê, chàng xuống tàu đi Ghi-nê dự định thực hiện một chuyên buôn bán, trao đổi lớn. Nào ngờ, tàu gặp bão lớn, mất phương hướng rồi bị đánh đắm. Các thủy thủ trên tàu đều mạng vong. Ngoại trừ Rô-bin-xơn một mình sống sót trôi giạt vào một đảo hoang không có dấu chân người.

Trong trích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang, nhà văn kể chuyện Rô-bin-xơn ở trên đảo hoang vào khoảng từ năm thứ 9 đến năm thứ 15 (tính từ ngày bị đắm tàu).

Trước tiên, chúng ta thấy Rô-bin-xơn là một chàng trai có ý chí và nghị lực phi thường. Sớm gặp hoàn cảnh bất hạnh nhưng anh không nản chí, tuyệt vọng. Mặc dù sống cô đơn, không bạn bè, không người thân, nhưng anh “không ngồi rỗi, bằng lòng với những thứ mình đã có”. Anh say sưa làm việc đến quên cả mệt mỏi, nhọc nhằn. Anh luôn luôn được hưởng “cái thú hoàn thành một kết quả lao động mà trước kia mình phải bó tay”, nhờ phương pháp và tư tưởng tích cực: “Không còn nghĩ ngợi vẩn vơ”. Tính siêng năng, tháo vát đã giúp anh ngày càng “lành nghề trong nhiều ngành thủ công”. Anh trở thành thợ nặn rất khéo; ngoài bát đĩa, chum vại, bình vò thường dùng để cất trữ mọi thứ lương ăn, anh còn nặn được một cái tẩu hút thuốc, một công trình tuyệt mĩ đối với anh và anh lấy làm thích thú.

Anh cũng trở thành một tay đan giỏi. Anh dùng miên liễu – một loại cây nhỏ, cành mềm rủ xuống, đan nhiều đồ dùng như: thúng (để mỗi lần săn bắn được hoặc kiếm được thức ăn thì bỏ vào thúng quẩy về nhà); bồ đựng thóc,… Ngoài ra, anh còn nảy thêm sáng kiến khác: chăn nuôi. Anh cảm thấy cần phải nuôi dê để cải tạo bừa ăn vì nguồn thực phẩm ngày càng cạn kiệt. Anh tâm sự: “Trong khoảng một năm rưỡi, tôi đã có một đàn mười hai con dê vừa lớn vừa nhỏ. Hai năm sau, số dê lên tới bốn mươi ba con và tôi bắt đầu giết thịt để ăn. Tôi làm thêm tất cả năm chuồng nữa nhỏ hơn, mỗi chuồng có nhiều ngăn để lúc cần thì bắt dê cho tiện”.

Dường như chưa bằng lòng với năng lực sáng tạo của chính mình, anh ngẫm nghĩ đến chuyện vắt sữa dê – dù anh “nghĩ đến hơi muộn”. Nghĩ là làm; anh bắt tay ngay vào công việc. Có ngày anh vắt được bảy tám chai sữa! Do đó, việc thừa sữa uống là rất bình thường. Nhưng chưa dừng lại ở đây, anh cố công “thử làm bơ và pho mát”. Thất bại là mẹ của thành công. Sau vài lần bị hỏng, anh đã được như ý. Giờ đây, bữa ăn của anh vừa dồi dào nguồn thực phẩm, vừa ngon, vừa có nguồn giá trị dinh dưỡng cao. Thế nên, anh thốt lên bằng niềm tự hào mãnh liệt: “Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bxa ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và pho mát, tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn, không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn”.

Mặt khác, chúng ta thấy Rô-bin-xơn là một chàng trai có lòng yêu đời tha thiết. Phải là một con người ham sống mới tồn tại được ở một nơi cách biệt hoàn toàn với thế giới con người như thế. Một thân, một mình giữa nơi hoang đáo, anh vẫn muốn sống đàng hoàng, sống cho ra sống, sống một cách mạnh mẽ, đẹp đẽ, dũng cảm, sáng tạo, vượt lên trên mọi hiểm nguy, thiếu thốn. Như vậy, quan niệm “sống” của anh không chỉ có ý nghĩa về mặt sinh học mà còn có ý nghĩa sâu xa về mặt triết học (phần nhiều nghiêng về mặt triết học).

Ngày lại ngày, anh lạc quan “chu du trong địa hạt của mình giống như một người đi dạo phố ở thời hiện đại”. Dù không có ai nhìn ngắm (ngoại trừ anh) nhưng anh vẫn cứ “diện” theo sở thích của mình. Anh mặc một bộ quần áo bằng da rất kì lạ, kì lạ đến nỗi giá có người nào trông thây “nếu không kinh sợ thì cũng bò ra mà cười!”. Cái áo chẽn bằng da dê, “tà áo chấm ngang đầu gối”. Quần thì ngắn nhưng “rộng thùng thình, may bằng tấm da lông một con dê xồm, lông dê dài lê thê, buông thõng xuống đên gần mắt cá, thành ra quần đùi mà cũng không khác quần dài”. Còn cái mũ cũng được làm bằng da dê “cao lêu đêu trông thật không ra cái hình thù gì”. Đã vậy, thắt lưng cũng làm bằng da lông. Riêng cái tư thế của anh chẳng khác nào một nhân vật trong truyện xưa đang phòng thủ: “Một cái cưa và một cái búa ở hai bên hông. Một sợi dây da vòng qua cổ sang phía tay trái, đeo lủng lẳng hai cái túi hình dáng lạ lùng, một cái túi đựng thuốc súng, một túi đựng đạn ghém. Sau lưng cõng một cái gùi, vai mang súng và trên đầu là cái dù xoè ra, bao che tất cả thân mình”. Bởi trang phục như vậy nên khuôn mặt của anh “rám nắng, đen sạm lại”, râu “đâm ra như cái chổi xể”, trên mép lại để một cặp ria theo kiểu người Thổ Nhĩ Kì “vừa dài vừa rậm khác thường”.

Rõ ràng, cách trang phục càng “tô đậm thêm nét cổ quái” vào diện mạo của anh – đúng như anh tự nhận xét là lệ bộ kì dị ấy đã khiến con chó người bạn thân của anh tỏ vẻ “kinh ngạc và khiếp sợ. Nó nghi nghi hoặc hoặc, chạy nép vào một góc nhà đứng nhìn ra, có ý dò xem cái con vật quái dị kia là bạn hay là thù”. Ấy vậy mà anh không hề cảm thấy đau khổ, tủi thân. Trái lại, anh kế cho chúng ta nghe bức chân dung tự họa của mình bằng giọng điệu vui tươi, pha lẫn những tiếng cười. Chẳng những thế, anh còn tự nhận mình là một vị “chúa đảo”. Có thể khẳng định rằng, giữa nơi hoang vu, vắng bóng dáng thân thương của con người, chất hoang dã đã nổi dậy lấn chiếm con người, hoang dã hóa con người nhưng chàng trai bất hạnh Rô-bin-xơn đã giành được chiến thắng, chiến thắng một cách vinh quang, vĩ đại, một chiến thắng mà đến 300 năm sau, trên hành tinh này chưa có người thứ hai đạt được.

Tóm lại, Rô-bin-xơn là một chàng trai có ý chí, nghị lực phi thường và lòng yêu đời mãnh liệt, mãnh liệt ngay cả trong hoàn cảnh hết sức khó khăn. Chính những phẩm chất tốt đẹp của chàng đã khơi dậy trong tâm hồn thơ ngây, trong sáng của em một tình yêu, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống hiện tại; một ý chí sắt đá, một nghị lực thép trong học tập và rèn luyện đạo đức để mai này em không chỉ giúp ích được cho bản thân mình mà còn cho xã hội yêu thương.

Phân tích và nêu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang- Mẫu 3

Con người, mi là ai? Câu hỏi ấy giúp cho nhân loại tự ngắm mình trong những trường hợp biến dạng đến dường như không phải là con người. Rô-bin-xơn rơi vào một trong những nghịch cảnh không bình thường như thế. Hơn mười năm ròng rã sống trên hoang đảo, bị cắt đứt mọi liên lạc với con người, anh có còn là chàng thanh niên hai mươi bảy tuổi quê ở miền Y-oóc-sai nữa hay không? Thử thách vượt qua sức tưởng tượng này là một phép thử có hồi âm, một thông điệp không bi quan mà ngược lại.

Bản năng sống không cho phép con người bất lực khoanh tay. Dù thế nào, bằng cách nào cũng phải sống. Quyết tâm ấy, ý chí ấy có khả năng diệu kì biến không thành có. Nếu nghị lực là phẩm chất số một ở con người thì tại nơi đảo hoang này, ở Rô-bin-xơn nó luôn luôn toả sáng. Để định cư nơi đầu sóng ngọn gió, nơi góc bể chân trời xa lạ, những điều đầu tiên không thể không nghĩ đến: căn lều che nắng che mưa, cái ăn cái mặc hằng ngày. Căn lều chắc được dựng lên từ cây cối trong rừng bằng chiếc cưa nhỏ và chiếc rìu con mà lúc nào Rô-bin-xơn cũng đeo lủng lẳng bên người. Còn cái ăn chắc nhờ vào săn bắn và hái lượm, hình thái tự cung tự cấp sơ khai của người nguyên thuỷ cách đây hằng mấy chục ngàn năm nhờ khẩu súng trên vai cùng hai túi đựng thuốc súng và đạn ghém.

Nhưng, những điều đó không phải “kì cục”. Cái dị hình, dị tướng làm cho người ta “hoảng sợ”, hoặc “phá lên cười sằng sặc” là ở hình ảnh của một thứ “người rừng” hay con gấu cô đơn Bắc Cực. Cách ăn mặc của Rô-bin-xơn quả thật là như thế. Thông thường quần áo được may bằng vải vóc hay len dạ tuỳ thuộc vào thời tiết ấm lạnh mỗi mùa, nhưng căn cứ vào cách ăn mặc của anh, ta cứ ngỡ thời gian ở đây không luân chuyển. Trái đất hình như đã ngừng quay để chỉ còn có một mùa đông lạnh giá quanh năm. Thôi thì mũ, giày, quần áo từ đầu đến chân chỉ có một thứ vật liệu đặc sản: da dê.

Sự dung hoà giữa cái có ích và cái đẹp không còn. Cái mũ chỉ là một thứ để đội đầu với hình thù vượt khỏi khái niệm quy ước “to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì”, dính liền với nó rất lôi thôi là một mảnh da rủ xuống phía sau “vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ”. Cả hai chức năng cần đến hai loại trang phục, nhưng Rô-bin-xơn chỉ cần đến một chiếc mũ đa năng. Cố tình làm chiếc mũ như thế, anh có một dụng ý riêng “ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt”. Áo và quần cũng thế, nghĩa là không cần kiểu mốt. Chúng lại không ăn khớp với nhau. Hình như cái áo thì quá dài (khoảng lưng chừng hai bắp đùi) còn quần lại quá ngắn, quần là dạng “quần loe” nhưng chỉ đến đầu gối mà thôi.

Lại nữa, vì quần được may bằng da một con dê đực già trông nó khó mà phân biệt được quần dài hay quần ngắn vì “lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân”. Đôi giày dưới chân thì cũng như chiếc mũ trên đầu, không biết gọi là gì cho đúng vì giày đi không có tất, gọi nó là đôi ủng thì có lẽ đúng hơn vì dây của cái gọi là giày ấy không xỏ lỗ nơi mu bàn chân mà lên tới bắp chân.

Sự luộm thuộm không chỉ thế. Nó còn là đặc điểm trong cách trang bị trên người, lỉnh kỉnh như một cái nhà kho di động. Không đeo kiếm và dao găm như những nhà quý tộc thời Đôn Ki-hô-tê, về góc độ này mà quan sát, người ta có thể nhầm anh với người thợ sơn tràng với “lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con”. Nhưng có lẽ anh là thợ săn với đầy đủ súng khoác trên vai và hai túi đựng thuốc súng và đạn ghém lúc nào cũng sẵn sàng nhả đạn. Cũng có thể nghĩ anh là một thổ dân da đỏ vào rừng trèo cây, đào củ với chiếc gùi đeo ở sau lưng.

Biết vượt lên mọi thử thách, khó khăn, Rô-bin-xơn đã tồn tại, dù hình thức của sự tồn tại hoang dã, thô sơ gần như một con người ở vào thời tiển sử.

Nhưng, tất cả chỉ là cái dáng dấp bên ngoài, đậng sau những nét “hết sức kì cục” trên đây vẫn là một con người đang sống. Danh hiệu con người cao quý, con người viết hoa được anh trân trọng giữ gìn. Vì sao Rồ-bin-xơn rất chú ý đến bộ ria, một bộ râu ria nếu để nó thả sức mọc dài phải đến “hơn một gang tay” ? Ý thức về con người, mà ở đây là một người đàn ông cường tráng và đầy nam tính đã nhắc nhở Rô-bin-xơn, không cho phép anh tuỳ tiện, buông thả rất dễ bị coi thường cho dù anh không có nhu cầu giao tiếp với ai. Và trên thực tế là ngoài anh ra, ở đây trên chốn đảo hoang không một bóng người.

Thậm chí cái cách “xén tỉa” thật cẩn thận, kĩ càng như một người khó tính, vì bộ ria mà anh muốn có là “một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê”. Với gương mặt đầy hãnh diện ấy, Rô-bin-xơn có thể tự hào cũng như nước da sạm màu nắng gió của vùng đất “khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo” vẫn trông được, nghĩa là “nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ”. Đó là niểm vui duy nhất lúc này mà Rô-bin-xơn tự cảm nhận được. Ý nghĩ ấy khoẻ khoắn, trong ,trẻo biết bao. Đó mới là chân dung con người đích thực.

Về nghệ thuật, đây là một bức chân dung tự hoạ, nó đảm bảo tính chân thực, khách quan. Đọc một đoạn văn không dài, ta vẫn có thể hình dung được một con người cụ thể đến từng chi tiết. Bức vẽ chân dung ấy gắn với hoàn cảnh sống đầy rẫy gian truân khi một mình sống trên hoang đảo. Nhưng, một mặt khác, do sự đồng cảm và tài năng của người kể chuyên, bức tranh chân dung ấy rất sinh động, như có linh hồn. Ấn tượng mà chúng ta có thể cảm nhận được là nhờ ở giọng văn, một giọng văn không đơn điệu, một chiều mà vô cùng đa dạng. Chẳng hạn như miếu tả cách ăn mặc và trang bị của Rô-bin-xơn có ý vị hài hước, cường điệu, bông phèng, nhưng đoạn văn miêu tả diện mạo, gương mặt lại rất nghiêm trang, trân trọng.

Chính sự đa dạng về giọng điệu của trích đoạn trên góp phần tạo nên một tính cách nhân vật không hời hợt mà có chiều sâu, vừa sôi nổi vừa trầm tư, vừa có những nét trần tục vừa có những nét thiêng liêng như một vị thánh. Những hàm nghĩa đa tầng ấy, trong nhiều trường hợp được thể hiện bằng cách so sánh. Khi thì nhà văn so sánh bộ ria theo kiểu Hồi giáo của mình trước cái nhìn của người Ma-rốc và người Anh (người Ma-rốc không để ria theo kiểu người Thổ, còn bộ ria ấy sẽ làm cho mọi người khiếp sợ nếu ở nước Anh). Cũng là cái cười, nhưng có nhiều cung bậc. Người nhìn tranh (bức chân dung tự hoạ) rất có thể vì ngạc nhiên hay hoảng sợ mà “phá lên cười sằng sặc”, còn người được vẽ trong tranh Rô-bin-xơn, thì chỉ “mỉm cười” khi đứng lặng mà ngắm nghía bản thân. Một đoạn văn ngắn nhưng thật là đặc sắc.

Phân tích và nêu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang- Mẫu 4

“Rô- bin- xơn ngoài đảo hoang” là một trích đoạn trong tiểu thuyết nổi tiếng “Rô- bin- xơn Cru- xô” của nhà văn nổi tiếng người Anh là Dê- ni- ơn Đi- phô. Trích đoạn này đã tái hiện, xây dựng thành công bức chân dung của Rô- bin- xơn, một con người thích những phưu lưu, mạo hiểm nhưng sau một sự cố anh ta đã lưu lạc trên một hòn đảo hoang. Sống một mình ở nơi hoang vu, rộng lớn không có sự sống của con người nhưng Rô bin- xơn vẫn vô cùng lạc quan, yêu đời, điều mà không phải ai cũng có thể làm được, không phải ai cũng có thể mạnh mẽ vượt qua được như vậy.

Dê- ni- ơn Đi- phô bắt đầu sự nghiệp sáng tác văn chương của mình từ rất sớm nhưng không để lại được những dấu ấn rõ rệt, phải đến năm sáu mươi tuổi thì sự nghiệp văn chương của ông mới có những khởi sắc nhất định, ông cho ra đời những tác phẩm không chỉ có giá trị về nội dung mà nghệ thuật cũng vô cùng đặc sắc. Đó là những tiểu thuyết có giá trị, trong đó có tiểu thuyết nổi tiếng lẫy lừng, đó chính là “Rô- bin-xơn Cru-xô”. Trích đoạn “Rô- bin- xơn ngoài đảo hoang” chỉ là một trích đoạn rất ngắn trong cuoobs tiểu thuyết này. Đó là trích đoạn phác họa rõ nét bức chân dung của nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết này, đó chính là Rô- bin- xơn.

Mở đầu trích đoạn này, nhà văn đã đi khắc họa chân dung đầy kì quái của Rô- bin- xơn khi một mình sống trên đảo hoang. Thông thường, các nhà văn khác khi đi miêu tả chân dung cho nhân vật của mình thường bắt đầu miêu tả từ khuôn mặt đến vóc dáng, sau đó với đến những tiểu tiết của ngoại hình, nhưng ở đây, nhà văn Đi- phô đã đi miêu tả những chi tiết phụ trước sau đó mới đi sâu miêu tả khuôn mặt của anh ta. Đó chính là một người đàn ông với cách ăn mặc kì quái và mang theo bên người những đồ đạc lỉnh kỉnh. Ngoài ra bộ ria mép của anh ta cũng làm cho tổng thể hình dáng của anh ta trở nên kì quặc, khác thường.

Rô- bin- xơn vốn là một người ưa thích những chuyến đi mạo hiểm, những cuộc phưu lưu kì thú. Nhưng trong một lần đi biển cùng những người đồng đội, đó là chuyến đi xuất phát từ biển Bra-xin thì anh bị đắm thuyền, trôi dạt trên biển rồi cuối cùng bị dạt vào vùng đảo hoang. Đây là một hòn đảo hoang sơ, không có người sinh sống. Ngay qua bộ trang phục kì quặc, diện mạo kì lạ của Rô- bin- xơn ta có thể phần nào tưởng tượng được hoàn cảnh sống vô cùng khắc nghiệt nơi đây. Đó là bộ quần áo làm bằng da dê, không được may vá cẩn thận mà chỉ buộc lại với nhau một cách rúm ró, và đôi ủng của anh ta cũng làm bằng da dê. Chiếc mũ trên đầu Rô- bin- xơn cũng rất khác người, đó là “chiếc mũ to tướng, cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì”, làm bằng da của một con dê, với mảnh vải rủ xuống phía sau gáy nhìn thật kì quặc.

Với những điều kiện thiếu thốn, khắc nghiệt nơi đảo hoang thì những trang phục như vậy cũng được xem là khá tươm tất, hơn nữa chúng còn là những trang phục rất tiện lợi cho việc đi lại cũng như kiếm sống trên đảo hoang, vì nước cũng không thể thấm vào những miếng da dê, hơn nữa khi trời trở lạnh cũng có thể giữ ấm cho cơ thể. Trong trích đoạn này, Rô- bin- xơn đã tự thuật lại theo ngôi kể thứ nhất, giọng nói của anh ta khi kể về mình đầy hóm hỉnh, hài hước. Khác hẳn với con người đang bị cô lập nơi đảo hoang, một mình sống trong điều kiện khắc nghiệt nơi đây.

Trang phục của Rô- bin- xơn cũng rất kì quặc, đó là một chiếc áo làm bằng da dê, vạt áo dài đến lưng bắp đùi và chiếc quần rúm ró bằng da dê dài đến đầu gối. Trang bị mang trên người của Rô- bin- xơn cũng là những vật dụng kiếm được khi sóng biển cuốn chúng trôi vào bờ, đó là một chiếc cưa nhỏ và một chiếc rìu nhỏ. Qua những vật dụng này ta có thể thấy cuộc sống trên đảo hoang của Rô- bin- xơn không có những kẻ thù hay những nguy hiểm rình rập. Cưa và rìu tuy là những vật dụng đơn giản, thô sơ nhưng cũng rất hữu ích đối với Rô- bin –xơn vì chúng có thể dùng để cho việc mưu sinh của anh ta trên đảo hoang, có thể dùng để chặt cây, cưa gỗ dựng lều, lấy chỗ che mưa, che nắng, phòng trừ có thú dữ, ngoài ra còn có một khoảng đất trống dùng để nuôi dê sau này. Ta có thể thấy Rô- bin-xơn vô cùng lạc quan, vì ngay trong những hoàn cảnh khó khăn nhất thì vẫn tin tưởng vào cuộc sống phía trước, lên kế hoạch cho tương lai. Đây là điều không phải ai cũng làm được, thể hiện một con người mạnh mẽ, đầy bản lĩnh.

Tuy là mảnh đất bị bỏ hoang, nằm giữa mênh mông sóng biển nhưng cũng thật may ở đây còn có những chú dê, vì vậy mà cuộc sống của Rô- bin- sơn có thể được duy trì. Ngoài ra anh ta còn mang theo bên mình một chiếc súng, thuốc súng và đạn gém. Nhờ vậy mà cuộc sống của anh ta ở trên đảo hoang này bớt khắc nghiệt đi rất nhiều, anh ta có thể săn dê để lấy thịt ăn, da dê thì làm trang phục, giày, bốt đi lại. Vì sự lạc quan, cùng với sức mạnh trai tráng, Rô- bin- xơn đã vượt qua mọi khó khăn, một mình vẫn có thể sống tốt nơi hoang đảo, không những thế mà về sau Rô- bin- xơn còn có thể tự trồng lúa mì nhờ những hạy lúa mì còn sót lại khi anh ta đi vớt những vật dụng còn lại khi con tàu đắm.

Như vậy, “Rô- bin- xơn ngoài đảo hoang” là đoạn trích thể hiện thật đẹp bức chân dung của Rô- bin- xơn một con người luôn yêu đời, sống lạc quan, những khó khăn nơi đảo hoang không là những trở ngại, không làm cho anh gục ngã mà dường như làm cho anh trở nên mạnh mẽ hơn, bản lĩnh hơn. Qua chân dung của Ro- bin- xơn, người đọc cũng có thêm những niềm tin vào cuộc sống, thêm yêu đời cũng như sống có ích hơn. Đó là những giá trị cao đẹp mà tác phẩm này mang lại cho người đọc.

Phân tích và nêu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang- Mẫu 5

Kể từ khi nghiên cứu về bộ não con người, trong đó xác nhận sự phát triển của thùy não trái và não phải theo hướng xử lý hành động và chống lựa chọn nghề nghiệp, dường như người ta đã nghi ngờ rằng những người làm kinh doanh hoặc các công việc liên quan đến tài chính – tiền bạc đã bị nghi ngờ. thường hoạt động ở thùy não trái, với logic phát triển thì không thể làm nghệ thuật, một bộ môn đòi hỏi tính thẩm mỹ cao và cần nhiều cảm xúc. Tuy nhiên, nếu bạn biết rằng nhà văn Denise Dipho đã từng lao vào thương trường với vải vóc, mũ nón, rượu v.v… hoàn toàn theo ý thích của bản thân, thì quan niệm đó sẽ thay đổi. thay đổi.

Có lẽ vì lẽ đó mà khi viết tiểu thuyết Robinson Crusoe, nhân vật chính cùng tên đã được nhà văn nổi tiếng Walter Scott nhận xét: “Nhân vật này tranh luận nhiều như bất cứ tay lái buôn nào ở phố Sarin Corx”. Tính cách và lập luận đặc sắc như thế nào, nhân vật ấy để lại trong lòng chúng ta ấn tượng về một kẻ lừa đảo thông minh, lanh lợi và lạc quan qua câu nói của Robinson ngoài đảo hoang một cuốn tiểu thuyết khá nổi tiếng. Robinson Crusoe là cuốn tiểu thuyết đầu tiên và nổi tiếng nhất của ông được hoàn thành khi ông mới 9 tuổi. Tác phẩm được viết dưới dạng tự truyện Robinson, hay Robinson Crusoe, tự xưng là “tôi” và kể câu chuyện của chính mình cuộc đời. Năm hai mươi bảy tuổi, nhân vật bị đắm tàu, sống một mình trên hoang đảo không một dấu chân người. Năm mươi tuổi, sau hai mươi ngày, tám năm, hai tháng, mười chín, một mình trên hoang đảo, Robinson trở về Nước Anh. Đoạn trích Rô-bin-xơn trên hoang đảo kể về thời gian nhân vật ở một mình trên hoang đảo khoảng mười lăm năm.

Một mình vượt thời gian trên hoang đảo, nhân vật “tôi” tưởng tượng: “Giữa ban ngày ở Anh mà gặp một người như tôi, chắc chắn tôi sẽ khiến họ thích thú hoặc vỡ òa vì phấn khích; và đôi khi tôi chỉ đứng đó và nhìn vào chính mình, tôi sẽ bật cười, tưởng tượng mình đang lang thang khắp York với những thiết bị và áo choàng như thế.. Có thể nhận ra rằng, không trở về Anh, bản thân nhân vật cũng phải bật cười vì sự kỳ quái của mình. vẻ bề ngoài. Và dù chỉ có một mình trên đảo hoang, nhưng hoài niệm về kiếp trước, nước Anh với những chuẩn mực về trang phục, đầu tóc cũng như những đặc điểm bên ngoài khác vẫn chưa bao giờ mất đi trong con người La Mã. -binson Crusô. Đó không chỉ là khát khao được trở lại cuộc sống văn minh với đồng loại, mà còn là tình yêu thương, động lực để nhân vật vượt qua khó khăn, nguy hiểm trên hoang đảo.

Ngoại hình của anh được chính nhân vật miêu tả từ yếu tố trang phục. Đó là những chiếc mũ: “to, cao và dáng chuẩn”, chiếc áo có thắt lưng “dài đến giữa hai mông” cho đến chiếc thúng “loe đến đầu gối”. Xung quanh Robinson là “một chiếc thắt lưng rộng bằng da dê đã sấy khô thắt lưng với hai dây da sang trọng để thay khóa”, thêm một đôi giày mà theo lời nhân vật: “không biết gọi là gì, giống như một đôi ủng, quấn quanh chân và buộc hai bên…”. Tất cả trang phục của Robinson đều được miêu tả chi tiết, từ trên xuống dưới, từ chất liệu cho đến cách sử dụng. Trang phục của nhân vật được làm hoàn toàn từ da dê. giọng nói, chính qua chất liệu hóm hỉnh ấy mới thấy được hiện thực phũ phàng, Robinson không mảnh vải che thân, chất liệu này phù hợp với khoảng thời gian thực tế những năm lưu lạc trên đảo của nhân vật, hiện tại mọi trang phục trên người Robinson đều phải bỏ đi qua quá trình đi săn và tự “làm” mình, hiện thực khó khăn đó còn được khắc họa qua trang bị của nhân vật, hai bên thắt lưng nhân vật đeo “Bên này bé hôn mê, bé hôn mê bên kia”. hai túi, “một túi đựng thuốc súng và túi còn lại đựng hạt mưa.” Robinson”. túi trên lưng và trên vai. Trên đầu giường còn có một chiếc ô to “xấu xí, lơ ngơ” nhưng cần thiết. Những trang bị đó là phương tiện lao động để giúp nhân vật bị mất. Mặc dù chúng kỳ lạ và điềm báo, nhưng chúng rất hữu ích. Đó là kết quả của sự chăm chỉ và sáng tạo vượt lên hoàn cảnh của nhân vật. Có thể nói, thông qua trang phục, trang bị của nhân vật, nhà văn đã cho thấy được trí thông minh vượt trội của con người cũng như năng lực vượt trội trong cuộc sống. Mặc dù xuất phát từ một câu chuyện có thật về chàng thủy thủ Senkich bị lạc vào hoang đảo John Fernandek. Sau 4 năm Zendek trở về trạng thái hoang dã, Robinson vẫn duy trì nếp sống văn minh, đó là vẻ đẹp của nghị lực sống phi thường, của một ý chí sắt đá và bản lĩnh sống. không gì khuất phục được.

Sau đó, Robinson tiếp tục miêu tả ngoại hình của mình. Nước da “không đến nỗi đen” dù nhân vật tự nhận mình là “diễn viên không quan tâm đến làn da” trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt ở nơi có nhiệt độ rất cao, vào khoảng “chín, mười”. vĩ độ xích đạo”. Bộ ria đôi khi “dài hơn một gang tay” và được cắt tỉa theo kiểu “Hồi giáo giống như bộ ria của những người Thổ Nhĩ Kỳ mà tôi đã gặp ở Sale”. Dù đã sống trên đảo hoang mười năm, nhỉ! nhưng Robinson vẫn nhớ về những con quay văn hóa trước vụ đắm tàu và vẫn biết rằng bộ ria mép của mình có “độ dài và hình dáng quái dị” có khả năng khiến người ta khiếp sợ nếu anh ta ở Vương quốc Anh. Thông qua việc đặc sắc khắc họa sự dị thường, khác thường bằng giọng văn hài hước, hóm hỉnh, Daniel Diphorus đã khắc họa nên cuộc sống gian khổ, thiếu sót của nhân vật trên đảo. Robinson không có gì, kể cả những chiếc cầu dao cần thiết nhất.

Tất cả những gì nhân vật có là kéo, dao lam và một số chất nổ thu được từ ngày con tàu bị đắm. Sau một năm, có lẽ những chiếc mũ trùm đầu đã bị hư hỏng đôi chút, nhưng khó khăn và thiếu thốn không thể khuất phục được anh. Đằng sau chân dung nhân vật, ta khâm phục nghị lực phi thường, luôn chủ động vượt qua những khó khăn của cuộc sống. Quyết định sức mạnh của người chân chính, mong muốn trở lại, làm của riêng bạn. Vẻ đẹp ấy giống với vẻ đẹp của Mai An Tiêm khi hoang đảo. Với đức tính cần cù, chịu khó, thông minh và kiên cường sống, Mai An Tiêm không những được trở về với đời mà còn cống hiến trái thơm trái ngọt cho nhân đức. Kết quả đó là kết quả của ý chí con người. Dù là câu chuyện cổ tích Việt Nam quen thuộc từ thời thơ ấu, hay câu chuyện xuyên tiểu thuyết đến từ nước Anh xa xôi, hai tác phẩm này đều là bài học quý giá về tinh thần lạc quan, ý chí, nghị lực vượt qua nghịch cảnh.

Nếu lạc vào hoang đảo, bạn sẽ nhớ đến thái độ kiên cường, lạc quan của Robinson và Mai An Tiêm để vượt qua khó khăn, vượt qua gian khổ, thiếu thốn để tìm đường trở lại đời sống văn chương của mình. thông minh, hiện đại. Thời gian sống trên đảo cũng là thời gian rèn luyện các kỹ năng sống tự lập như nhân vật Robinson, thuần hóa đàn du, trồng lúa mạch để làm bánh. Rô-bin-xơn trên hoang đảo có nghệ thuật độc đáo, lôi cuốn người đọc bằng lối kể kết hợp miêu tả và biểu cảm, cùng với lối kể chân thực ở ngôi thứ nhất, lối kể nhẹ nhàng, hóm hỉnh, hài hước không chỉ tạo tiếng cười mà còn khắc họa vẻ đẹp lạc quan của nhân vật. tính cách.

Từ lâu lịch sử đã khẳng định vai trò của lao động đối với con người từ quá trình tiến hóa đến quá trình mất đi và phát triển. Đoạn trích Robinson từ hoang đảo nói riêng và toàn bộ tiểu thuyết Robinson Crusad nói chung, đó là một bài ca dao, bài ca về giá trị của lao động chân chính, của đức tính cần cù, cần cù và tài hoa. trí tuệ và óc sáng tạo. Dù lưu lạc trên hoang đảo mười năm hay gần ba chục năm, Robinson vẫn sống rất lạc quan, sống đúng với địa vị của một con người tiến bộ, văn minh. Đó là điều đáng để mỗi chúng ta ngưỡng mộ và học hỏi.

Phân tích và nêu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang- Mẫu 6

Nhắc đến Đi-phô là người ta nhắc đến một đại văn hào của đất nước Anh. Mọi độc giả khắp nơi biết đến ông như một hiện tượng trong văn học bởi sự xuất hiện của một kiệt tác gắn liền với tên tuổi của ông. Đó là “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang”. Đây là một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn người đọc với rất nhiều những suy nghĩ và cảm xúc.

Rô-bin-xơn là một chàng trai rất ưa thích hành động, ưa thích sự phiêu lưu và hứng thú với những miền đất lạ. Chính bản tính thích ngao du ấy khiến anh ta bất chấp mọi nguy hiểm và khó khăn để đến với những điều mới mẻ. Cuộc hành trình đầu tiên của anh là ở Hơn, theo bạn đi đến Luân Đôn qua đường biển nhưng nó không may mắn và con tàu không may bị chìm ở Y-ac-mao. Tuy vậy, Rô-bin-xơn không hề buông bỏ, anh vẫn quyết tâm có một chuyến hành trình tiếp theo khi quen với một thuyền trưởng và rời bến ở Ghi-nê. Trong hành trình đó, lần đầu tiên anh thuận lợi, may mắn. Tuy nhiên, đến lần thứ hai anh lại gặp cướp biển, bị chúng bắt làm nô lệ tại Xa-lê. Hành trình của anh vẫn chưa kết thúc. Hai năm sau, Rô-bin-xơn trốn sang Bra-xin làm trang trại. Chuyến đi mang tính bước ngoặt lớn của anh chính là khi có một chuyến buôn bán lớn, không may tàu gặp nạn, bị mất phương hướng. Rô-bin-xơn may mắn sống sót và trôi vào một đảo hoang.

Rô-bin-xơn là một người có ý chí và nghị lực phi thường. Dù hoàn cảnh khó khăn nhưng anh không hề tỏ ra bất lực hay thất vọng. Dù cô đơn nhưng anh luôn cố gắng vươn lên số phận, say sưa làm việc. Chính tinh thần lạc quan và bản tính chăm chỉ, cần cù vốn có đã khiến cho Rô-bin-xơn hoàn thành tốt mọi công việc. Anh thành thạo và lành nghề trong cả nông nghiệp và thủ công…Sự đa tài của anh còn được thể hiện trong sự sáng tạo không ngừng. Từ việc nuôi dê đến việc vắt sữa dê và việc “thử làm bơ và pho-mát”. Chính điều này đã khiến Rô-bin-xơn vô cùng hứng thú: “Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bữa ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và pho mát, tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn, không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn”.

Bên cạnh đó, Rô-bin-xơn còn là một chàng trai vô cùng yêu đời. Phải thực sự là một người có niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống mới có thể tồn tại và trụ vững ở một nơi hoang sơ như vậy. Một mình sống giữa đảo hoang, anh vẫn muốn sống một cuộc đời đáng sống, đáng nhớ và đầy ý nghĩa. Anh muốn đem lại những giá trị tốt đẹp cho cuộc đời. Điều này được thể hiện ngay ở hình thức, cách ăn mặc bề ngoài của anh. Không có ai xung quanh nhưng anh vẫn trưng diện theo ý thích của mình. Anh ăn mặc trông rất kì lạ, buồn cười. Từ chiếc quần rộng thùng thình cho đến cái áo da kì lạ, cãi mũ da dê “không ra cái hình thù gì”, cái thắt lưng bằng da lông. Rô-bin-xơn kể về việc trang bị những thiết bị bên cạnh mình: “Quanh người là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi dây cũng bằng da dê để thay cho khóa hai bên cổ hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua vai tôi là một đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế và ở cuối đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi sau lưng, khoác súng bên vai, và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về nhưng lại là thứ cần thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi”.

Diện mạo của anh cũng thể hiện rõ tính cách của một chàng trai du mục, thích ngao du, tự tin và đầy sức sống. Tác giả mô tả những chi tiết trên gương mặt Rô-bin-xơn vô cùng ấn tượng “Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho nó mọc dài đến hơn một gang tay. Nhưng vì tôi có cả kéo và dao cạo đủ dùng nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê, vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nối cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mủ của tôi nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh”. Giọng kể chuyện mang tính hài hước, vui vẻ thể hiện sự lạc quan cũng như đời sống tinh thần vui vẻ của Rô-bin-xơn.

Một đoạn trích tưởng chừng như chỉ kể về một con người bình thường nhưng bản chất lại rất đỗi phi thường. Đoạn trích cũng đem lại cho mỗi chúng ta nhiều điều gợi mở, một bài học mà mỗi con người chúng ta đều tự ngẫm ra cho bản thân mình là tư tưởng, tinh thần sống lạc quan. Thử hỏi đặt mình trong hoàn cảnh cô đơn, bất hạnh như Rô-bin-xơn, mỗi chúng ta ai làm được những điều như vậy? Chính là tinh thần vươn lên, là sự lạc quan trong suy nghĩ dẫn đến những hành động tích cực. Rô-bin-xơn đang làm đẹp cho bản thân, cho gia đình và cho mọi người trong xã hội. Đây chính là lối sống tích cực mà bản thân mỗi chúng ta cần học hỏi, cần cố gắng thực hiện để cuộc đời tươi đẹp, sống có ý nghĩa hơn. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả muốn truyền tải thông qua đoạn trích này. Điều này cũng minh chứng cho việc không phải ngẫu nhiên mà đoạn trích được coi như một bài ca ca ngợi vẻ đẹp lao động của con người trong cuộc sống.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Phân tích và nêu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!