Updated at: 10-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Phân tích và nêu cảm nghĩ về hồi thứ mười bốn Hoàng Lê nhất thống chí” chuẩn nhất 04/2024.

Phân tích và nêu cảm nghĩ về hồi thứ mười bốn Hoàng Lê nhất thống chí- mẫu 1

Chuyện vua Quang Trung đại phá quân Thanh, ngày nay, hẳn chẳng mấy ai còn không biết. Người dân Việt từ lâu đã từng thân thiết và tự hào với những cái tên Hà Nội, Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa … Nhưng hình như không phải ai cũng biết rằng, phần lớn những gì vẫn được truyền tụng về chiến công oai hung đó lại không được lấy trực tiếp từ chính sử.

Phải đâu ai cũng tỏ tường rằng những hiểu biết lâu nay về sự kiện đại phá quân Thanh chính ra lại chứa đựng nhiều nhất trong một tác phẩm vẫn được coi là tiểu thuyết, cuốn sách mang tên Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc về Hà Nội, chứ không phải Hà Tây như nhiều sách đã ghi lầm). Quả thế, nếu muốn được thở hít lại bầu không khí như của những tháng ngày có chiến thắng tưng bừng đó thì không gì hơn là cùng đọc lại Hồi thứ mười bốn trong thiên tiểu thuyết lịch sử của văn phái họ Ngô.

Thế nhưng trong chủ đích của người viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí thì Hồi thứ mười bốn này được soạn ra không cốt để ngợi ca chiến thắng của Quang Trung. Ai còn hồ nghi xin đọc lại hai vế đối mở đầu, người làm sách, theo thường lệ của tiểu thuyết chương hồi, vẫn muốn qua đó để tự tóm tắt nội dung của toàn hồi truyện:

Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài.

Rõ ràng, theo tác giả, đây là một đoạn truyện kể về vua Lê, ông nhìn từ phía vua Lê, theo đúng tinh thần “Hoàng Lê thống nhất”. Nên trong đoạn trích này của thiên tiểu thuyết, nếu có ai được gọi chỉ bằng một chữ “vua” thì kẻ đó nhất định phải là Lê Chiêu Thống, nếu có quân đội nào được gọi là “nghĩa binh” (quân chính nghĩa) thì đó cũng chỉ có thể là “quân đội nhà Lê (trong khi lực lượng thực đáng gọi là nghĩa quân, nghĩa binh, quân đội Tây Sơn lại chỉ được gọi chung là “quân lính”, “quân sĩ”, không hề có chữ “nghĩa” nào bên cạnh).

Vào khoảng cuối đoạn trích, người viết còn ghi lại chi tiết kể về cuộc gặp gỡ giữa mẹ con cua Lê với người thổ hào tại một sơn trại thuộc vùng Hòa Lạc. Đấy không phải một sự cố ý tạo ra tình huống hài hước, để người đọc có dịp nhaọ cười một kẻ ngu trung. Trái lại, tác giả dường như đã gắng công để cuộc gặp gỡ có ánh lên vẻ cao đẹp của một tấm lòng thần tử tận tụy, trung trinh, ngay cả khi đấng quân vương của mình đang cơn khốn khó.

Trong chi tiết này, thấy có cả mừng tủi lệ rơi, cả cơm gà vội vàng thết đãi, cả lối tắt đưa vua chạy loạn … tác giả như cố nhắn rằng: đối với cái triều đại đa tàn kia, lòng người còn chưa nỡ bỏ, và dẫu vua Lê có lâm vào hoạn nạn thì trong đời vẫn chưa hết mối cô trung …

Có nghĩa là, xét về mặt lập trường chính trị, tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí đứng về phía đối địch với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Song may mắn làm sao họ Ngô đã không thể thắng chính mình. Mối tình cảm chính trị ấy không thắng nổi tình yêu sự thật, không thắng nổi lương tri, lương tâm của người biết nhận ra sự thật và tha thiết muốn nói lên sự thật. Tình cảm chính trị ấy đã không thể chuyển hóa thành sức mạnh văn chương, không đủ sức chi phối nội dung của văn chương.

Không biết người viết Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí có ngờ rằng, với công trình nghệ thuật này, mình đang viết bản án dành cho chính cái chế độ mình vẫn hằng tôn kính? Và con người phù Lê ấy liệu có tự giác nhận ra rằng mình đang tấu lên khúc ca dành cho những người đang kết thúc số mệnh lịch sử của chính nhà Lê.

Nhưng đấy chính là sự thật. Một sự thật vô cùng thú vị khi ta tiếp nhận, thưởng thức và suy ngẫm về tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Tuy nhiên tác giả của những trang viết ta đang nói tới là một nhà văn, một người làm nghệ thuật. Tư cách nghệ sĩ không cho phép ông kể sự thật một cách phiến diện, giản đơn. Hồi chuyện được bắt đầu từ phía có vẻ như ngược lại.

Đội quân xâm lược nhà Thanh thoạt nhiên được nói tới cứ y như một đạo hung binh, với sức mạnh lay thành phá ải, không gì có thể đương đầu: “Lại nói Tôn Sĩ Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi như giẫm đất bằng, ngày đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như vào chõ không người”. Cứ xem đây thì chống chọi lại một đạo binh như thế này khác nào đem trứng chọi đá? Chưa hết, ngay liền sau đó, tác giả lại bồi thêm: “Từ xưa các nhà cầm quân chưa có khi nào được dễ dàng như thế”.

Nhưng sự dễ dàng chưa từng có dó, chính nó lại khiến cho những người từng trải, biết suy nghĩ có lý để mà ngờ vực. Từ rất lâu trước đấy, người xưa đã hiểu rằng cái gì đến độ thái quá, đến tột cùng thì thế nào cũng gặp phải sự biến. “Cùng tắc biến” (đến tận cùng thì phải thay đổi). Nhưng mà biến theo chiều trái lại.

Và cái mầm mống của sự biến ấy, tác giả đã không để cho người đọc phải chờ đợi lâu. Cổ nhân từ xưa đã dạy: “thắng không kiêu”, Nhưng đạo quân của Tôn Sĩ Nghị chưa kịp thắng trận nào cho ra thắng đã quá vội kiêu: “quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không có kỷ luật gì cả … Bọn tướng tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý điến việc quân”. Mầm mống của bại vong đã được nứt nanh từ đây

Chuyện trở nên rõ ràng hơn qua lời của người cung nhân cũ đến từ phủ Trường Yên. Không rõ những lời nói ấy về mặt sử học thì chính xác và sâu xa tới mức nào, chứ về mặt văn chương thì chi tiết này cực thú. Không hẳn chỉ vè những lời nói của người từng là cung nữ ấy đã phác họa ra đại cục, thắng lợi của vua Lê, nếu có, cũng chưa mang ý nghĩa gì lớn, mà mối nguy cho triều Lê thì quả đã như mồi lửa âm ỉ bên trong trường vách.

Cũng không hẳn chỉ vì những câu nói ấy đã sớm đem lại ấn tượng về một Nguyễn Huệ bách thắng, một Nguyễn Huệ kiêu hùng, từ trước khi Nguyễn Huệ bằng thịt bằng xương xuất hiện trên chương truyện: Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn …

Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đều phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống lại, thì địch sao cho nổi”? Âm vang của một chiến thắng hào hùng nghe như đã văng vẳng dần lên từ lời cảnh báo của cung nhân.

Cái thú văn chương trong chi tiết về người cung nhân còn có thể nhìn ra từ chỗ; nó cho thấy, hóa ra, một phụ nữ tầm thường, hèn mọn, bị vua ruồng bỏ, xa cung cấm đã lâu, thế mà còn thông hiểu binh tình gấp bội phần so với một Thái hậu “mẫu ghi thiên hạ” cao sang, quyền quý. Rồi đến khi bà Thái hậu đem chuyện ấy nói với vua, vua nói lại vơi Tôn Sĩ Nghĩ thì ta còn vỡ lẽ: những kẻ nắm binh quyền dương dương tự đắc kia, còn không có nổi một kiến thức đàn bà!

Vậy là một người phụ nữ vô danh cũng đã thừa khả năng mở mắt cho cả một bộ sâu triều đình, vua quan, tướng tá về cách đánh, tình thế, cách cầm quân. Lời nói của cung nữ xưa quả đã khiến Thái hậu phải “giật mình” và vua Lê “hoảng sợ”. Nhưng cũng chỉ đến thế thôi. Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí nhận ra và đã muốn chúng ta cùng thấu hiểu: Không gì có thể đem lại cho bè lũ bạc nhược kia sức mạnh trong ý chí và hành động.

Bọn chúng đã không hành động, dù cho có lo lắng có giận dữ trách mắng nhau. Bởi vì nỗi lo âu, lời quát nạt rồi cũng chóng qua đi. Và bọn người đó lại tiếp tục nằm ườn ra trên lạc thú, lười nhác tự dối lừa mình trong ý nghĩ: “Cần phải tính toán cho chu đáo không thể hấp tấp và uể oải đợi chờ đến sang xuân, vào ngày mùng sáu thì sẽ xuất quân, như vậy cũng không còn xa gì nữa”…

Nhà văn đã cho ta thấy một mầm mống bại vong nữa của bè lũ Lê Chiêu Thống. Nó nằm trong bản chất của một chế độ đã không còn khả năng hành động, không còn đủ sức mạnh, ý chỉ, quyết tâm để mà hành động. Và trong khi bọn cướp nước bán nước cứ đờ đẫn đi, rã rời ra trong kiêu căng và trễ nãi thì người anh hùng áo vai Tây Sơn lại khẩn trương làm được một núi việc khổng lồ.

Quả thế, nếu quân Thanh không làm gì khác ngoài việc ăn chơi thì quân Tây Sơn lúc nào cũng ráo riết trong chuẩn bị. Phía quân Thanh im lìm bất động : Ngược lại, phía bên Tây Sơn, tình hình chuyển biến từng ngày. Hẳn chẳng phải là tình cờ, khi chuyển mạch truyện sang phía thời gian nối tiếp nhau, dồn dập: “Ngày 20 tháng ấy (tháng 11 âm lịch, năm Mậu Thân 1788). Sớ lui về Tam Điệp thì ngày 24 Tuyết đã vào đến Phú Xuân”.

Chỉ một tháng sau, Nguyễn Huệ đã làm xong mọi việc đắp khắp trong ngoài” và “hạ lênh xuất quân, hôm ấy, nhằm ngày 25 tháng chạp”. Bốn ngày sau “ngày 29 đến Nghệ An”. Hơn một vạn quân được quân kén ngay sau đó, lập tức được đưa vào cơ ngũ chỉnh tề. Để rồi ngày 30. Quân đến Tam Điệp và ngay tối hôm ấy, năm cánh hùng binh tràn ngập Bắc Hà, sau khi đã kịp mở tiệc khao quân, ăn Tết trước.

Ta đang được chứng kiến văn chương của Hoàng Lê Nhất Thống Chí một cỗ náy vận hành hết công suất, một hơi thở mạnh mẽ, gấp gáp, một dòng máu chảy sục sôi trong huyết quản, một sức sống rạo rực, bừng bừng, đầy phấn chấn. Tác giả Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thuộc về một dòng họ danh vọng bậc nhất trên đất Bắc. Còn Nguyễn Huệ xuất thân từ một người áo vải miền Trung.

Song không vì thế mà văn phái Ngô gia đã vội nhìn lãnh tụ Tây Sơn chỉ như một kẻ võ biền, một kẻ nông phu ít học. Ngược lại, người con của dòng họ Ngô Thì đã vượt qua rất nhiều thành kiến để đem lại cho người đọc sự thật về một Quang Trung giàu tri thức và am hiểu lòng người. Hãy lắng nghe lại một lời hiếu dụ của Hoàng đế Quang Trung trong cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn tại Nghệ An.

Có phải là ta đã nhận ra, từ bên dưới lời van, cái hồn phách thiêng liêng của một Nam quốc sơn hà, cái giọng khích lệ nghiêm nghị của một Hịch tướng sĩ, và nhất là cái âm hưởng dõng dạc, chứa đầy căng một niềm bất khuất, tự hào ở những dòng đầu tiên của áng thiên cổ hùng văn Bình ngô đại cáo? Chắc chắn phải là một trí tuệ, một tâm hồn cao rộng lắm mới có thẻ bao gồm và chung đúc được chừng ấy tinh hoa trong một bài nói làm lay động lòng người.

Nhưng tác giả sẽ dần dần cho ta hiểu hai khối tự tin kia nặng nhẹ rất khác nhau. Sự tự tin của quân Thanh là sự tự tin kiêu ngạo và mù quáng, tự tin trong ảo tưởng, không biết gì về đối phương, không biết gì về tình thế. Trong khi niềm tự tin bên phía Tây Sơn được bảo đảm chắc nịch rằng bằng cả một công phu chuẩn bị, từ lực lượng phương tiện chiến đấu đến việc nuôi dưỡng, hun đúc chí quyết tâm. Vì thế, khi chiến dịch thực sự diễn ra thì đó là trận đánh giữa một bên là anh dũng, là hào khí ngất trời với bên kia chỉ thấy hoảng loạn đớn hèn, khiếp nhược.

Cái chiến dịch phi thường ấy, trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, chỉ được kể lại bằng thứ ngôn ngữ rất bình thường của truyện, của văn xuôi. Và kể không dài, khi in vào sách giáo khoa thì cũng còn chưa đầy nổi hai trang giấy. Nhưng đó là hai trang giấy vô cùng quý giá, vì nó đã ghi lại không chỉ thật chân thực mà còn thật sống động, thật có không khí một chiến thắng cho hôm nay vẫn là thần tốc nhất trong lịch sử Việt Nam.

Người đọc truyện có thể qua đây mà hình dung ra một chuỗi trận đánh nối tiếp nhau, trận nào cũng hùng tráng, trận nào cũng như chớp nhoáng, mà không trận nào giống trận nào. Có trận đánh ở hai sông, sông Gián và sông Thanh Quyết, hết cái gọi là “Nghĩa binh” của Lê Chiêu Thống, lại đến quân Thanh mới trông thấy bóng quân Tây Sơn từ xa đã sợ mất mật mà tự tan, mà tháo chạy, để rồi bị bắt sống không thoát một tên.

Rồi tới trận Hà Hồi, binh uy của vua Quang Trung đúng là như sấm động, chỉ cần dạ ran lên cũng lấy được đồn. Chỉ thấy quân Thanh chống cự một lần duy nhất ở Ngọc Hồi, nhưng sự chống cự mới yếu ớt và ngắn ngủi làm sao! Chúng bắn ra để chẳng trúng người nào. Chúng dùng ống phun khói lửa ra, để tự chịu một trận hỏa công khi trời trở gió.

Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí càng viết lại càng cho ta thấy rõ sự khác nhau một vực một trời một vực giữa bè lũ Tôn Sĩ Nghị – Lê Chiêu Thống với quân tướng của Quang Trung. Với quân Thanh, súng đạn và ống phun lửa cũng chẳng có nghĩa gì, chẳng làm được việc gì ngoại trừ việc tự đốt mình.

Còn với quân Tây Sơn, những vật dụng sinh hoạt thường ngày như ván, như rơm cũng đã đủ khiến họ trở nên vô địch. Quân Thanh chỉ chạy thôi cũng đã chết hàng vạn đứa, như Mực, Quỳnh Đô. Còn đội quân xung kích của Quang Trung trong trận Ngọc Hồi tính ra chỉ khoảng sáu trăm, vậy mà vẫn phá xong một tuyến phòng thủ kiên cố nhất.

Cái có của lũ cướp nước và bán nước, như người viết tác phẩm này cho thấy, là quân đông, vũ khí nhiều. Nhưng ý chí chiến đấu, tinh thần chiến đấu, sự sẵn sàng cho chiến đấu lại là cái chúng không hề có. Tuyệt nhiên không thấy ở bọn này, dù chỉ một chút cái ý thức mà Trần Quốc Tuấn trước đây đã ghi tạc vào lòng dạ của các tướng dưới quyền mình: “nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào dưới đống củi” làm nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” làm răn sợ”.

Tác giả hồi truyện này cho thấy rõ : bọn chúng cứ yên tâm kề cà, dềnh dàng yến ẩm trên đống lửa, không hề lo chi đến việc bất trắc”. Để rồi khi lửa cháy lên thì việc độc nhất chúng thật khẩn trương làm không phải là cứu hỏa, mà là bỏ chạy cho nhanh. Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thực tế đã thành tấm bia miệng còn vững bền gấp hàng chục, hàng trăm lần bia đá, để ghi lại cho muôn đời sau chê cười sự hèn nhát của một lũ vua quan tướng tá.

Những chi tiết cụ thể, sinh động được nêu ra ở đây, quả thật hùng hồn hơn mọi lời nghị luận. Quang Trung là vua, nhưng vẫn tự mình cưỡi voi đốc chiến. Còn Tôn Sĩ Nghị, thân làm tổng chỉ huy, nhưng chưa xung trận đã sợ hãi tháo chạy, vội vã tới mức “Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp”.

Quân lính dưới quyền cũng không hề chiến đấu mà chỉ biết chạy theo, để rồi sự hèn nhát chịu đòn trừng phạt cuối cùng: không ai đánh mà quân chết đuổi nhiều tới mức một dòng sông lớn như Nhị Hà mà nước cũng phải tắc nghẽn, không chảy nổi.. Mẹ con vua Lê thì bị bỏ rơi, phải qua sông bằng thuyền đánh cá, leo đào mãi mới gặp được Tôn Sĩ Nghị, thế mà vẫn phải chịu nhục nhã tỏ ra sự tri ân: “Đội ơn tướng quân … Đều là ơn của tướng quân ban cho!”.

Người viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí, dù muốn dù không, thì vẫn phải nhận rằng: sức mạnh duy nhất trong trận chiến chỉ có thể tìm thấy từ phía của quân đội Tây Sơn.. Sức mạnh ấy có nguồn gốc ở nhân dân. Dùng ván phủ rơm dấp nước kết lại thành lá chắn, thành tường chống đạn để xung phong, một sự khôn ngoan kì lạ thế không thể được sinh ra từ bọn người hoa xa hoa, quyền quý.

Và sự phấn khích, đồng lòng muôn người như một, không ngại khó nhọc, không quản hi sinh, tình cảm ấy chính là ánh lửa rực rỡ cháy lên từ tinh thần yêu nước của khối quần chúng nhân dân vĩ đại. Sức mạnh vô địch của nhân dân cộng với tài trí vô song của người lãnh đạo đã làm cho đội quân của những người áo vải bình thường phút chốc lớn vụt lên sánh ngang thần thánh, uy thế chấn động trời đất, ẩn hiện, biến hóa xuất quỷ nhập thần, “tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên”. Và Hồi thứ mười bốn này của Hoàng Lê Nhất Thống Chí sẽ được thực sự trở thành một khúc ca, với những câu văn cứ làm như ta phải nhớ không nguôi tới Bình Ngô Đại Cáo.

Rồi trong hồi truyện ấy, tác giả sẽ còn cám cảnh cho Lê Chiêu Thống khi phải chạy khỏi Thăng Long. Rồi tác giả sẽ còn khép hồi truyện này bằng hai dòng thơ, như muốn gợi rất nhiều lâm li, ai oán:

Bờ cõi xong bề tính liệu
Nước non buồn nỗi lúc chia ly

Nhưng có lẽ họ Ngô đã hoài công. Tình cảm xót xa có lẽ đã không thể truyền vào lòng của số đông người đọc truyện. Bởi trước đó, người viết đã quá thành công trong việc dựng lên chân dung của một triều đại không còn sức sống: một triều đại cần phải chia tay, phải đưa tiễn xuống mồ một cách vui vẻ chứ không phải một cách buồn đau. Người viết cũng đã quá thành công trong việc tạo ra cảm giác: chiến thắng oai hùng này quả thật là thuộc về người xứng đáng, quân khởi nghĩa Tây Sơn dưới sự dẫn dắt của vị anh hùng dân tộc Quang Trung.

Phân tích và nêu cảm nghĩ về hồi thứ mười bốn Hoàng Lê nhất thống chí- mẫu 2

Ngô gia văn phái là một nhóm các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì. Sự nghiệp văn chương của nhóm tác giả này nổi bật và tiêu biểu nhất với Hoàng Lê nhất thống chí, cuốn lịch sử chương hồi nổi tiếng. Tác phẩm khái quát lại một giai đoạn, thời kì lịch sử với những biến cố đầy biến động từ khi chúa Trịnh Sâm lên ngôi đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà.

Hồi thứ mười bốn đã khắc họa một cách chân thực về sức mạnh, tinh thần quật khởi của dân tộc ta trước cảnh thù trong giặc ngoài cùng với chiến công lừng lẫy của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Cuối năm 1788, đầu năm 1789, Lê Chiêu Thống đã kéo 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị đứng đầu sang xâm chiếm nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị đã đóng chiếm được Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở rút lui về Tam Điệp để chống đỡ.

Trước hoàn cảnh đó, Nguyễn Huệ thể hiện như một người anh hùng của toàn thể dân tộc. Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế vào ngày 25, “tế cáo đất trời cùng các non sông, thần núi” rồi đưa quân ra Bắc. Ông cũng tuyển chọn những đội quân tinh nhuệ và có tinh thần yêu nước, kháng chiến để tham gia chiến đấu giữ gìn, bảo vệ đất nước.

Ngày 30 tháng Một, Nguyễn Huệ mở tiệc thiết đãi quân nhân, dự định vào ngày mổng bảy thì vào thành để mở tiệc mừng. Có thể thấy rằng Nguyễn Huệ là một con người có hành động quyết đoán, mạnh mẽ, có tư duy lớn trong việc nhận biết tình hình của ta và của địch. Ông cũng là người nhìn xa trông rộng, biết địch biết ta, tài thao lược vô cùng tài giỏi. Những dự định trong cuộc kháng chiến được Nguyễn Huệ tiên đoán như một vị thần.

Trong kháng chiến, hình tượng người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ hiện lên với tư thế, tầm vóc lớn lao, oai phong. Quân Thanh khi vừa thấy bóng dáng nhà vua đã chạy tán loạn tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, quân ta vây kín làng rồi bắc loa thông báo khiến quân Tanh “ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết”; mùng 5 Tết tiến đến Ngọc Hồi, nhà vua đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, ghép liền ba tấm làm một, lấy rơm nước phủ lại, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, cùng với đó là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ “nhất” tiến vào đồn.

Trước tình thế đó, mọi sự phản công của kẻ thù đều vô hiệu hóa. Quân Thanh đã tự hại mình khi dùng những súng ống phun khói làm cho quân ta lung lay, rối ren nhưng lại tự “gậy ông đập lưng ông” đối với chiến thuật này. Ngay lập tức, Nguyễn Huệ đã sai đội quân khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất, lấy dao ngắn mà chém. Trận chiến kết thúc với hình ảnh “quân Thanh thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”. Quang Trung cưỡi voi vào thành Thăng Long để giải phóng toàn dân tộc vào trưa ngày mùng 5 tết Kỉ Dậu.

Trước tình cảnh ấy, quân Thanh thua thảm hại khi mừng vui yến tiệc, không lo việc lớn. Việc tác giả miêu tả cụ thể, chi tiết, sống động hình ảnh quân Thanh bị thua tan tác, chạy loạn đã thể hiện rõ sự thất bại đến thảm hại của quân Thanh. Hoàn toàn ngược lại trước sự thua trận của quân Thanh, quân ta mạnh mẽ, như “tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên”. Sự khắc họa về cảnh thua trận đến thảm hại của quân tướng nhà Thanh được Ngô gia văn phái miêu tả rất rõ. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, cứ nhằm hướng Bắc chạy. Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự tử, quân nhà Thanh đều “hoảng hồn, tan tác bỏ chạy” khắp nơi, tranh nhau xô đẩy xuống sông, giẫm đạp lên nhau mà chết. Lê Chiêu Thống cũng vội vã bỏ chạy, cướp thuyền để đi.

Đoạn trích Hổi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí là một đoạn trích đặc sắc, hay và độc đáo, vô cùng sinh động. Có rất nhiều những điểm nhấn về nghệ thuật đáng lưu ý trong đoạn trích, góp phần làm nổi bật được nội dung câu chuyện. Giọng điệu lúc nhanh lúc chậm thể hiện sự biến đổi linh hoạt trong cách kể chuyện khiến người đọc như đang sống trong từng trang văn của cuộc kháng chiến hào hùng do Quang Trung – Nguyễn Huệ thao lược. Cùng với đó là việc khắc họa hình tượng nhân vật với những nét nổi bật, đặc sắc. Tướng vua tôi Lê Chiêu Thống cùng lũ quân Thanh đều thất bại thảm hại. Trong khi đó, hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ hiện lên với tư tưởng, tầm vóc hiên ngang, bất khuất.

Đoạn trích “Hồi thứ mười bốn” của Hoàng Lê nhất thống chí cho ta thấy được những âm mưu tàn độc của quân xâm lược đối với dân tộc ta. Đoạn trích cũng cho ta thấy được vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết dân tộc và tài thao lược, mưu tính tuyệt vời của một con người kiệt xuất vua Quang Trung – Nguyễn Huệ.

Phân tích và nêu cảm nghĩ về hồi thứ mười bốn Hoàng Lê nhất thống chí- mẫu 3

Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn lịch sử chương hồi của một số tác giả trong Ngô gia văn phái. Tác phẩm đã khái quát một giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội đẫm máu từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà (1868 – 1802) như: loạn kiêu binh, triều Lê – Trịnh sụp đổ, Nguyễn Huệ đại phá Mãn Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn

Sự sụp đổ không thể cưỡng nổi của triều đại Lê-Trịnh và khí thế sấm sét của phong trào nông dân Tây Sơn là hai nội dung lớn được phản ánh qua Hoàng Lê nhất thống chí. Đặc biệt Hồi thứ mười bốn đã thể hiện một cách hào hùng sức mạnh quật khởi của dân tộc trước thù trong giặc ngoài và khắc họa hình tượng Nguyễn Huệ, người anh hùng dân tộc đã làm nên chiến công Đống Đa bất tử.

Ta như được sống lại những giờ phút lịch sử nghiêm trọng và hào hùng của dân tộc vào cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Ki Dậu (1789) khi Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Tác giả Hoàng Lê nhất thống chí mở đầu hồi XIV đã viết:

Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận,

Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài.

Vị cứu tinh của dân tộc thuở ấy là Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đất Tây Sơn. Ngày 22 tháng 11 năm Mậu Thân, Tôn Sĩ Nghị chiếm Thăng Long. Tướng Ngô Văn Sở lui binh về án ngữ tại Tam Điệp. Ngày 24, Nguyễn Huệ được tin cấp báo, và ngày 25 lên ngôi hoàng đế “tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi”. Lấy niên hiệu là Ọuang Trung. Nguyễn Huệ đốc xuất đại binh ra Bắc. Ngày 29 đến Nghệ An tuyển thêm một vạn quân tinh nhuệ. Nguyễn Huệ tổ chức duyệt binh truyền hịch đánh quân Thanh, vạch trần âm mưu xâm lược của bọn chúng “mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện; kêu gọi tướng sĩ đồng tâm, hiệp lực, để dựng nên công lớn”… Nhà vua chia quân làm 5 doanh (tiền, hậu, tả, hữu, trung quân) rồi thần tốc ra Tam Điệp hội quân với cánh quân Ngô Văn Sở. Quang Trung chia đại quân làm 5 đạo, cho quân ăn Tết Nguyên đán trước, “bảo kín” với các tướng soái đến tối 30 thần tốc đánh quân Thanh, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long “mở tiệc ăn mừng”. Qua đó, ta thấy rõ Quang Trung có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, sáng suốt, giàu mưu lược, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng lũ xâm lăng. Các sự kiện như lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, tuyển quân và truyền hịch ở Nghệ An, cho quân sĩ ăn Tết Nguyên đán trước;

Đặc biệt nhà vua đã tạo nên yếu tố bất ngờ đánh quân Thanh vào đúng dịp tết khi chúng “chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc” đã thể hiện tinh thần quyết đoán của một thiên tài quân sự khi Tổ quốc lâm nguy.

Tác giả mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa xảy ra:

“Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ấn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét”.

Nguyễn Huệ là một anh hùng có tài điều binh khiển tướng, trù hoạch quân mưu như thần. Ra quân đánh thắng như chẻ tre. Bắt sống toàn bộ toán quân Thanh đi do thám tại Phú Xuyẻn, dùng mưu gọi loa, vây kín làng Hà Hồi, quân Thanh “rụng rời sợ hãi” phải đầu hàng. Dùng kì mưu kết ba tấm ván thành một bức bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức; mỗi bức có 20 dũng sĩ, lưng dắt dao ngắn dàn thành trận chữ “nhất” xông thẳng vào đồn Ngọc Hồi. Súng quân Thanh bắn ra đều vô hiệu. Vua Quang Trung cưỡi voi đốc chiến. Sáng mồng 5, đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử, hàng vạn giặc bị giết “thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”. Vua đã đặt phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, hợp vây quân Thanh tại Quỳnh Đô, giặc trốn xuống đầm Mực bị quân Tây Sơn “lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người”. Thừa thắng, vua Quang Trung tiến vào giải phóng kinh thành Thăng Long đúng trưa mồng 5 tháng Giêng năm Kỉ Dậu, trước kế hoạch 2 ngày. Có tài thao lược vô song, có tin vào sức mạnh chiến đấu và tinh thần yêu nước của tướng sĩ, của nhân dân ta mới có niềm tin tất thẳng ấy. Chiến thắng Đống Đa 1789 đã làm cho tên tuổi người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ sáng ngời mãi ngàn thu.

Các tác giả Hoàng Lè nhất thông chí đã từng ăn lộc của nhà Lê, vốn có cảm tình với vua Lê nhưng trước họa xâm lăng và chiến công Đống Đa oanh liệt, họ đã đứng trên lập trường dân tộc, viết nên những trang văn đẹp nhất, dựng lên một tượng đài kì vĩ, tráng lệ về người anh hùng Nguyễn Huệ. Chỉ mấy năm sau, trong bài Ai tư vãn khóc vua Quang Trung qua đời, Ngọc Hân công chúa đã viết:

Mà nay áo vải cờ đào,

Giúp dân dựng nước biết bao công trình.

Đó là hình tượng người anh hùng Quang Trung trong văn học mà ta cảm nhận được với bao ngưỡng mộ.

Bằng biện pháp nghệ thuật tương phản đối lập, các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí miêu tả và nêu bật sự thảm bại của quân Thanh xâm lược và số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua quan phản nước hại dân.

Chỉ huy 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta là Tôn Sĩ Nghị. Sau khi chiếm được Thăng Long “không mất một mũi tên, như vào chỗ không người” hắn vô cùng “kiêu căng buông tuồng”. Bọn tướng tá chỉ biết “chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân”. Chúng huênh hoang tuyên bố là đầu xuân sẽ kéo quân thẳng đến sào huyệt của Tây Sơn để “bắt sống, không một tên nào lọt lưới!”.

Thế nhưng, trước sức tiến công như vũ bão của Nguyễn Huệ, bao đồn giặc bị đánh tơi bời. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng. Đồn Ngọc Hồi bị đập nát, Sầm Nghi Đống phải tự tử. Hàng vạn giặc phải bỏ mạng ở đầm Mực. Tôn Sĩ Nghị “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp… nhằm hướng bắc mà chạy”. Quân tướng “hoảng hổn, tan tác bỏ chạy”. Chúng tranh nhau chạy, xô đẩy nhau rơi xuống sông. Cẩu phao đứt, hàng vạn giặc bị rơi xuống nước mà chết, đến nỗi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn. Bọn sống sót chạy tháo thân về nước!

Bọn Việt gian bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh, Trịnh Hiến trên đường tháo chạy trở thành lũ ăn cướp. Chúng bạt vía kinh hồn chạy đến Nghi Tàm, “thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc”

Tại cửa ải, Lê Chiêu Thống và bọn cận thần “than thở, oán giận, chảy nước mắt “trông thật bi đát, nhục nhã. Còn Tôn Sĩ Nghị “cũng lấy làm xấu hổ”. Chết nhưng nết không chừa! Lê Chiêu Thống hứa “lại xin sang hầu tướng quân”, nghĩa là tiếp tục rước voi về giày mả tổ! Còn Tôn Sĩ Nghị vẫn khoác lác: “Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi!”.

Có thể nói, hình ảnh lũ xâm lược và bọn bán nước được miêu tả bằng nhiều chi tiết châm biếm, thể hiện một thái độ khinh bỉ sâu sắc.

Đọc Hồi thứ mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) ta càng thấu rõ tim đen quân xâm lược phương Bắc và âm mưu của thiên triều, và bộ mặt dơ bẩn của bọn Việt gian bán nước. Ta càng thêm tự hào về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta, vô cùng kính phục và biết ơn Nguyễn Huệ, nhà quân sự thiên tài của Đại Việt.

Nghệ thuật kể chuyện, bút pháp miêu tả nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị) rất chân thực và sinh động tạo nên những trang văn hào hùng tuyệt đẹp vừa giàu giá trị văn chương, vừa mang tính lịch sử sâu sắc.

Phân tích và nêu cảm nghĩ về hồi thứ mười bốn Hoàng Lê nhất thống chí- mẫu 4

1. PHÂN TÍCH ĐỀ

– Yêu cầu đề bài: phân tích các chi tiết, hình ảnh, nội dung, nghệ thuật của bài thơ để thấy được bức tranh về một thời kì lịch sử được tái hiện một cách chân thực, đồng tời cảm nhận tinh thần vì nghệ thuật của các tác giả: dù theo nhà Lê, phò vua Lê nhưng vẫn thừa nhận và khâm phục tài năng của anh hùng Quang Trung.

– Phương pháp làm bài: phân tích

2. CÁC LUẬN ĐIỂM CHÍNH CẦN TRIỂN KHAI

Luận điểm 1: Hoàn cảnh giặc Thanh xâm lược và sự đối phó của nghĩa quân

Luận điểm 2: Thắng lợi của quân khởi nghĩa

Luận điểm 3: Nhận xét về nghệ thuật

3. LẬP DÀN Ý

1, Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Ngô gia văn phái: một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì. Tác phẩm do Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du viết, trừ ba hồi cuối chưa rõ tác giả.

Hoàng lê nhất thống chí: là một tác phẩm văn xuôi ghi chép bằng chữ Hán lớn nhất trong văn học Việt Nam trung đại, có tính chất của tiểu thuyết chương hồi, nói về thời kì cuối nhà Lê đầu nhà Nguyễn.

+ Văn bản trong sách giáo khoa là hồi thứ 14 của tác phẩm.

2, Thân bài:

a, Hoàn cảnh giặc Thanh xâm lược và sự đối phó của nghĩa quân

– Miêu tả đội quân của nhà Thanh:

+ Quân đội đông, hùng hậu, sĩ khí ngút trời, “Tôn Sĩ Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi như giẫm đất bằng, ngày đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như vào chỗ không người”

+ Quân đội nhà Thanh đông, tinh nhuệ nhưng hợm hĩnh, chủ quan, hưởng lạc ngủ quên trên chiến thắng: “quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không có kỷ luật gì cả”, còn tướng quân thì cũng “ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân”.

+ Được cung nữ phủ Trường Yên cảnh báo về Nguyễn Huệ nhưng cả bọn cũng chỉ biết quát chửi nhau và vẫn ung dung ngồi “tính toán chu đáo”, dự định sang xuân mới tính kế với Nguyễn Huệ

⇒ Sử dụng biện pháp đối lập, đòn bẩy: miêu tả cái hùng mạnh oai phong trước làm nền bật lên sự nhu nhược, tham lam, lười biếng, khinh suất của quan quân nhà Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống.

– Nghĩa quân Tây Sơn của vua Quang Trung:

+ Sự ứng phó nhanh nhẹn, kịp thời: sau khi biết tin, Nguyễn Huệ lên ngôi vua và thu xếp việc trong 1 tháng, 25 tháng chạp xuất quân, 29 âm lịch tới Nghệ An chiêu mộ thêm binh sĩ, 30 âm lịch mở tiệc khao quân ăn tết sớm, và đúng mùng 5 tháng giêng, sau chiến thắng Ngọc Hồi Đống Đa, Nguyễn Huệ giữ đúng lời hứa chiến thắng với quân sĩ.

+ Tinh thần của quân sĩ: tất cả đều nghiêm trang chỉnh tề, “một lòng một chí quyết chiến quyết thắng”.

⇒ Thủ pháp đối lập, đòn bẩy lần nữa phát huy tác dụng: tả quân Thanh trước để làm bật lên sự thần tốc, anh hùng của quân đội Quang Trung; làm bật lên hình ảnh vua Quang Trung anh dũng, khiêm tốn mà thu phục lòng người, bản lĩnh, yêu nước.

b, Thắng lợi của quân khởi nghĩa

– Sự tự tin, tài mưu lược của người cầm quân: Quang Trung tin vào một thắng lợi của chính nghĩa, truyền cảm hứng cho quân đội của mình; ông đích thân chỉ huy đội quân tiên phong, anh dũng, quyết đoán.

– Dũng khí của quân khởi nghĩa: sức mạnh tinh thần, tuy thô sơ ít ỏi về quân lực và vũ khí, chỉ dùng gậy gộc cuốc thuổng mà đánh bại được súng ống.

– Những trận đánh với thắng lợi rực rỡ thể hiện tài binh lược của Quang Trung:

+ Đánh ở sông Gián, sông Thanh Quyết, quân Lê Chiêu Thống và quân Thanh thấy bóng dáng quân đội Quang Trung từ xa đã tự bỏ chạy, bị bắt sống.

+ Trận Hà Hồi, dùng tinh thần uy hiếp tinh thần khiến giặc sợ hãi, không tốn một binh lính cũng chiếm được đồn.

+ Trận Ngọc Hồi: quân giặc chống cự yếu ớt rồi thua, tướng giặc chạy vội “Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp”.

⇒ lời kể ngắn gọn, bình dị càng làm tăng sự thần kì của chiến thắng

c, Nhận xét về nghệ thuật

Thành công trong sử dụng các hình ảnh đối lập, thủ pháp đòn bẩy: tả quân Thanh trước, tả quân đội Quang Trung sau.

– Thành công trong xây dựng hình tượng nhân vật Quang Trung và nghĩa quân.

– Lối kể chuyện chân thực, không khoa trương.

3, Kết bài:

– Tác phẩm tái hiện lại một thời kì lịch sử một cách chân thực.

– Thể hiện tinh thần vì nghệ thuật của các tác giả: dù theo nhà Lê, phò vua Lê nhưng vẫn thừa nhận và khâm phục tài năng của anh hùng Quang Trung.

4. SƠ ĐỒ TƯ DUY

Sơ đồ tư duy phân tích Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí

Sau khi nắm được các ý chính và cách triển khai hệ thống luận điểm, luận cứ, cách sử dụng các dẫn chứng trong bài phân tích Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, các em hãy tham khảo thêm các bài văn mẫu dưới đây để có thêm ý tưởng làm bài nhé.

VĂN MẪU CHỌN LỌC PHÂN TÍCH HỒI 14 CỦA HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ

Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn lịch sử chương hồi của một số tác giả trong Ngô gia văn phái. Tác phẩm đã khái quát một giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội đẫm máu từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà (1868 – 1802) như: loạn kiêu binh, triều Lê Trịnh sụp đổ, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn…

Sự sụp đổ không thể cưỡng nổi của triều đại Lê Trịnh và khí thế sấm sét của phong trào nông dân Tây Sơn là hai nội dung lớn được phản ánh qua Hoàng Lê nhất thống chí. Đặc biệt Hồi thứ mười bốn đã thể hiện một cách hào hùng sức mạnh quật khởi của dân tộc trước thù trong giặc ngoài và khắc họa hình tượng Nguyễn Huệ, người anh hùng dân tộc đã làm nên chiến công Đống Đa bất tử.

Ta như được sống lại những giờ phút lịch sử nghiêm trang và hào hùng của dân tộc vào cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Kỉ Dậu (1789) khi Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Tác giả Hoàng Lê nhất thông chí mở đầu hồi mười bốn đã viết:

Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận,

Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài.

Vị cứu tinh của dân tộc thuở ấy là Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đất Tây Sơn. Ngày 22 tháng 11 năm Mậu Thân, Tôn Sĩ Nghị chiếm Thăng Long. Tướng Ngô Văn Sở lui binh về án ngữ tại Tam Điệp. Ngày 24, Nguyễn Huệ được tin cấp báo, và ngày 25 lên ngôi hoàng đế “tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi”, lấy niên hiệu là Quang Trung, Nguyễn Huệ đốc xuất đại binh ra Bắc. Ngày 29 đến Nghệ An tuyển thêm một vạn quân tinh nhuệ. Nguyễn Huệ tổ chức duyệt binh truyền hịch đánh quân Thanh, vạch trần âm mưu xâm lược của bọn chúng “mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện…; kêu gọi tướng sĩ “đồng tâm, hiệp lực, để dựng nên công đức”. Nhà vua chia quân làm 5 doanh (tiền, hậu, tả, hữu, trung quân) rồi thần tốc ra Tam Điệp hội quân với cánh quân Ngô Văn Sở. Quang Trung chia đại quân làm 5 đạo, cho quân ăn tết Nguyên đán trước, “bảo kín” với các tướng soái đến tối 30 thần tốc đánh quân Thanh, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long “mở tiệc ăn mừng”. Qua đó, ta thấy rõ Quang Trung có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, sáng suốt, giàu mưu lược, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng lũ xâm lăng.

Các sự kiện như lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, tuyển quân và truyền hịch ở Nghệ An, cho quân sĩ ăn Tết Nguyên đán trước; đặc biệt, nhà vua đã lạo nên yếu tố bất ngờ, đánh quân Thanh vào đúng dịp tết khi chúng “chỉ chăm chú vào việc vến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc’ đã thể hiện tinh thần quyết đoán của một thiên tài quân sự khi Tổ quốc lâm nguy.

Tác giả mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa xảy ra:

“Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét”.

Nguyễn Huệ là một anh hùng có tài điều binh khiển tướng, trù hoạch quân mưu như thần. Ra quân đánh thắng như chẻ tre. Bắt sống toàn bộ toán quân Thanh đi do thám tại Phú Xuyên, dùng mưu gọi loa, vây kín làng Hà Hồi, quân Thanh “rụng rời sợ hãi” phải đầu hàng. Dùng kì mưu kết ba tấm ván thành một bức bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức; mỗi bức có 20 dũng sĩ, lưng dắt dao ngắn dàn thành trận chữ “nhất” xông thẳng vào đồn Ngọc Hồi. Súng quân Thanh bắn ra đều vô hiệu. Vua Quang Trung cưỡi voi đốc chiến.

Sáng mồng 5, đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử, hàng vạn giặc bị giết “thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”. Vua đã đặt phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, hợp vây quân Thanh tại Quỳnh Đô, giặc trốn xuống đầm Mực bị quân Tây Sơn “lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người”.

Thừa thắng, vua Quang Trung tiến vào giải phóng kinh thành Thăng Long đúng trưa mồng 5 tháng giêng năm Kỉ Dậu, trước kế hoạch 2 ngày. Có tài thao lược vô song, có tin vào sức mạnh chiến đấu và tinh thần yêu nước của tướng sĩ, của nhân dân ta mới có niềm tin tất thắng ấy. Chiến thắng Đống Đa 1789 đã làm cho tên tuổi người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ sáng ngời mãi ngàn thu.

Các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã từng ăn lộc của nhà Lê, vốn có cảm tình với vua Lê nhưng trước họa xâm lăng và chiến công Đống Đa oanh liệt, họ đã đứng trên lập trường dân tộc, đã viết nên những trang văn đẹp nhất, dựng lên một tượng đài kì vĩ ,tráng lệ về người anh hùng Nguyễn Huệ. Chỉ mấy năm sau, trong bài Ai tư vãn khóc vua Quang Trung qua đời, Ngọc Hân công chúa đã viết:

Mà nay áo vải cờ đào,

Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.

Đó là hình tượng người anh hùng Quang Trung trong văn học mà ta cảm nhận được với bao ngưỡng mộ.

Bằng biện pháp nghệ thuật tương phản đối lập, các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã miêu tả và nêu bật sự thảm bại của quân Thanh xâm lược và số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua quan phản nước hại dân.

Chỉ huy 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta là Tôn Sĩ Nghị. Sau khi chiếm được Thăng Long “không mất một mũi tên, như vào chỗ không người” hắn vô cùng “kiêu căng buông tuồng”. Bọn tướng tá chỉ biết “chơi bời tiệc tùng, không hề đề ý gì đến việc quân”. Chúng huênh hoang tuyên bố là đầu xuân sẽ kéo quân thẳng đến sào huyệt của Tây Sơn để “bắt sống không một tên nào lọt lưới!”.

Thế nhưng, trước sức tiến công như vũ bão của Nguyễn Huệ, bao đồn giặc bị đánh tơi bời. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng. Đồn Ngọc Hồi bị đập nát, Sầm Nghi Đống phải tự tử. Hàng vạn giặc phải bỏ mạng ở đầm Mực, Tôn Sĩ Nghị “sợ mất mật, ngựa không kịp chói yên, người không kịp mặc giáp… nhằm hướng Bác mà chạy”. Quân tướng “hoảng hồn, tan tác bỏ chạy”. Chúng tranh nhau chạy, xô đẩy nhau rơi xuống sông, cầu phao đứt, hàng vạn giặc bị rơi xuống nước mà chết, đến nỗi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn. Bọn sống sót chạy tháo thân về nước!

Bọn Việt gian bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh, Trịnh Hiến trên đường tháo chạy trở thành lũ ăn cướp. Chúng bạt vía kinh hồn chạy đến Nghi Tàm, “thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc”.

Tại cửa ải, Lê Chiêu Thống và bọn cận thần “than thở, oán giận chảy nước mắt” trông thật bi đát, nhục nhã. Còn Tôn Sĩ Nghị “cũng lấy làm xấu hổ”. Chết nhưng nết không chừa! Lê Chiêu Thống hứa “xin sang hầu tướng quân”, nghĩa là tiếp tục rước voi về giày mả tổ! Còn Tôn Sĩ Nghị vẫn khoác lác: “ Nguyễn Quang Trung chưa diệt,việc này còn chưa thôi!”.

Có thể nói, hình ảnh lũ xâm lược và bọn bán nước được miêu tả bằng nhiều chi tiết châm biếm, thể hiện một thái độ khinh bỉ sâu sắc.

Đọc Hồi thứ mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) ta càng thấu rõ tim đen quân xâm lược phương Bắc, âm mưu của thiên triều, và bộ mặt dơ bẩn của bọn Việt gian bán nước. Ta càng thêm tự hào về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta, vô cùng kính phục và biết ơn Nguyễn Huệ, nhà quân sự thiên tài của Đại Việt.

Nghệ thuật kể chuyện, bút pháp miêu tả nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị) rất chân thực và sinh động tạo nên những trang văn hào hùng tuyệt đẹp vừa giàu giá trị văn chương, vừa mang tính lịch sử sâu sắc.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Phân tích và nêu cảm nghĩ về hồi thứ mười bốn Hoàng Lê nhất thống chí” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!