Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn” chuẩn nhất 10/2024.
Dàn ý phân tích truyện ngắn “Cố hương” của Lỗ Tấn
a. Mở bài:
+ Giới thiệu tác giả:
– Nhà văn Lỗ Tấn sinh năm 1881 và mất năm 1936. Ông nổi tiếng là một nhà văn cách mạng Trung Quốc.
– Lỗ Tấn đã để lại cho nền văn học Trung Hoa nhiều tác phẩm đình đám, tạo nên dấu ấn và tên tuổi của ông
+ Giới thiệu tác phẩm:
– Truyện ngắn “Cố hương” là một tác phẩm đã để lại nhiều xúc động trong lòng người đọc, bởi nó được viết lại với giọng văn rất chân thật, giản dị, thể hiện tấm lòng yêu quê hương của tác giả.
b. Thân bài:
– Hoàn cảnh tình huống chuyện:
– Trong truyện ngắn “Cố hương” chúng ta nhìn thấy hình ảnh quê hương trong mắt tác giả sau 20 năm xa cách vẫn những xóm làng hoang vắng, u buồn, không có gì thay đổi so với ngày tác giả ra đi khiến cho lòng người bỗng se lại, trùng xuống.
– Phân tích hình ảnh quê hương trong câu chuyện và trong lòng tác giả
– Trong miền ký ức của tác giả quê hương gắn liền với những kỷ niệm về những con người thân thương, về những nghi lễ như giỗ tổ.
– Quê hương trong lòng tác giả bao giờ cũng thân thương, có vui có buồn nhưng luôn là những kỷ niệm ngọt ngào mà tác giả không bao giờ quên được.
+ Phân tích hình ảnh người mẹ ở quê nhà?
– Quê hương với tác giả không chỉ là cảnh vật, kỷ niệm mà còn chính là hình ảnh người mẹ nơi quê nhà.
– Người mẹ dù đã già nua, những nếp nhăn hằn trên khóe mắt nhưng vẫn ngày đêm ngóng trông đứa con phương xa. Khi con vừa về tới nhà, bà mẹ đã chạy ra đón.
– Sự mừng rỡ của người mẹ thể hiện qua những nếp nhăn, ẩn qua những nỗi buồn sâu kín.
– Tình yêu dành cho quê hương luôn gắn liền với những kỷ niệm thiết tha, với những thứ như máu thịt, như người thân, như mẹ hiền thân thương.
+ Hình ảnh quê hương qua những kỷ niệm thơ ấu
– Phân tích tình bạn giữa tác giả và Nhuận Thổ?
– Cậu bé Nhuận Thổ là người rất thông minh, nhanh nhẹn, khuôn mặt bầu bĩnh dễ thương, toát lên vẻ tinh nghịch, với nhiều trò ranh ma, tinh quái, khiến cho tác giả nhiều lần phải nể phục hắn.
– Khi người mẹ già nhắc tới nhân vật Nhuận Thổ trong ký ức tác giả sáng bừng lên “vành trăng non trên bầu trời xanh miền thơ ấu”.
– Phân tích hình ảnh của người bạn Nhuận Thổ trong ký ức của tác giả và Nhuận Thổ hiện tại?
– Tác giả vô cùng đau buồn, khi bắt gặp người bạn Nhuận Thổ hiện tại. Khi người mẹ già nhắc tới nhân vật Nhuận Thổ trong ký ức tác giả sáng bừng lên “vành trăng non trên bầu trời xanh miền thơ ấu”. Điều này thể hiện tình cảm của tác giả với người bạn thân thương thủa nhỏ, người bạn nhỏ Nhuận Thổ cũng là một phần không thể thiếu của quê hương trong lòng tác giả.
+ Hình ảnh con đường ở cuối truyện ngắn gợi cho ta điều gì?
– Đọc truyện ngắn “Cố hương” chúng ta không thể quên được hình ảnh con đường mà tác giả viết ở cuối truyện.
– Hình ảnh con đường hiện lên như niềm tin, sự hy vọng tác giả dành cho những con người ở quê hương.
– Hy vọng về một con đường văn minh, con đường hạnh phúc sẽ làm đổi thay quê hương của tác giả. Hình ảnh con đường hiện lên như niềm tin, sự hy vọng tác giả dành cho những con người ở quê hương. Hy vọng một con đường văn minh, con đường hạnh phúc sẽ làm đổi thay quê hương của tác giả.
c. Kết bài
– Nêu cảm nhận của bản thân sau khi đọc xong truyện ngắn
– “Cố hương” là truyện ngắn hay nhiều ý nghĩa, khi đọc xong tác phẩm người đọc vẫn còn cảm thấy bùi ngùi xúc động, cảm thấy lòng nặng trĩu một nỗi buồn và trăn trở hy vọng về hình ảnh con đường mà tác giả đã nhắc đến.
Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn- mẫu 1
Lỗ Tấn (1881 – 1936) là nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc. Truyện “ Cố hương” là một truyện ngắn tuyệt hay và xúc động. Nó man mác một tình quê vơi đầy. Nó ghi lại một cách chân thực, cảm động ký ức tuổi thơ. Nó phản ánh số phận những con người quê hương với bao nỗi buồn thương và hi vọng.
Các nhân vật như tôi, mẹ tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, Thủy Sinh, chị Hai Dương – là những con người của quê hương, gợi ra bao nỗi buồn vui về nơi chôn rau cắt rốn sâu nặng nghĩa tình.
1. Hình ảnh quê hương
Sau 20 năm xa cách “tôi” về thăm quê. Phải vượt qua 2000 dặm giữa một mùa đông lạnh giá. Lòng “tôi” bồi hồi khôn xiết. Gió lạnh vi vu thổi vào khoang thuyền. Gần về đến làng, trời càng u ám, xóm thôn xa dần, thấp thoáng tiêu điều, hoang vắng… lòng “tôi” se lại, về quê thì phải vui sao lại buồn? “Tôi” tự hỏi có phải đây là làng cũ thân yêu trong ký ức nữa không?
Chuyến về thăm quê này rất đăc biệt, về để bán nhà, giao nhà lại cho chủ mới. Về để từ giã ngôi nhà cũ – nơi cả đại gia đình “chúng tôi” đời đời ở chung với nhau. Sao không buồn đươc, vì sau 20 năm đi xa, lần này “tôi” trở về là để “vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn sinh sống”.
Quê hương thường gắn liền với phần mộ tổ tiên ông bà. Trong “Cố hương” không thấy nói đến. Tác giả chỉ xúc động nói đến ký ức tuổi thơ khoảng chừng 30 năm về trước. Một tình bạn đẹp tuổi thơ độ lên mười với Nhuận Thổ – con trai của một người làm thuê cho gia đình “tôi”. Nhờ Nhuận Thổ mà “tôi” được biết bao chuyện kỳ lạ: cách bẫy chim trên tuyết, con “tra” lông da trơn như mỡ biết ăn dưa; bên bờ biển quê hương có nhiều vỏ sò đẹp và lạ: sò “mặt quỷ” và sò “tay Phật”. Nhờ Nhuận Thổ mà tôi cảm nhận được vẻ đẹp quê hương, với bao cảnh tượng thần tiên: “Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lơ lửng trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn”.
Quê hương cũ với bao kỷ niệm thời thơ bé. Đó là những ngày mà “thầy tôi hãy còn”, cảnh nhà sung túc… năm ấy nhà tôi đến lượt lo giỗ tổ. Giỗ vào tháng giêng. Lễ vật rất nhiều, các đồ tế rất sang, người đến lễ cúng rất đông… ,
Quê hương trong ký ức bao giờ cũng cảm động. Lỗ Tấn đã nói về hình ảnh quê hương trong hiện tại và trong quá khứ, lúc ở trên đường trở về, lúc gặp lại bạn cũ, người xưa. Có niềm vui nỗi buồn, 30 năm đã trôi qua, nhưng không bao giờ có thể quên được quê hương và tuổi thơ.
2. Hình ảnh người mẹ quê nhà
Mẹ đã già. ” Tôi” đã trưởng thành, đi làm ăn xa, lưu lạc 20 năm trời nay mới về thăm quê, thăm mẹ. Lâu nay chỉ “gặp mẹ” và hỏi thăm mẹ qua nhũng cánh thư. Con vừa bước vào nhà, mẹ “đã chạy ra đón”. Mẹ già “rất mừng rỡ’’ gặp lại con trai sau những năm dài xa cách, thế nhưng “nét mặt vẫn ẩn nỗi buồn thầm kín”. Chắc là mẹ buồn vì thương nhớ người đã khuất, mẹ buồn vì cảnh nhà sa sút, phải bán nhà, theo con trai đến nơi đất khách quê người? Mẹ vẫn hiền hậu, săn sóc “tôi” như ngày “tôi” còn thơ bé: “Mẹ bảo tôi ngồi xuống nghỉ ngơi, uống trà…”.
Mẹ nói với con trai chuyện dọn nhà… Mẹ vẫn hiền từ như xưa: “Con hãy nghỉ ngơi vài hôm, đi thăm các nhà bà con một chút rồi mẹ con mình lên đường ”. Nhắc đến Nhuận Thổ… “Mẹ tôi” động lòng. Gặp 2 bố con Nhuận Thổ, mẹ ân cần vồn vã. Mẹ thở than cho cảnh nhà anh ta, mẹ bàn với “tôi”: “Cái gì không cần chở đi thì cho anh ta hết. Cứ để cho tùy ý chọn, lấy cái nào thì lấy!”. Thương con cháu và thương người đó là hình ảnh người mẹ trong Cố hương.
Có một nhà thơ trẻ Việt Nam đã viết: “Quê hương là cầu tre nhỏ – Mẹ về nón lá nghiêng che”. Đọc Cố hương của Lỗ Tấn, nếu ai đó không hiểu được người mẹ thì làm sao cảm nhận được hình ảnh quê hương thân yêu. Bởi lẽ mẹ là quê hương, quê hương là mẹ! Tình yêu quê hương luôn luôn gắn liền thiết tha với người mẹ hiền mà ta yêu quý.
3. Con người quê hương
Nhuận Thổ trước hết là tình bạn tuổi thơ. Ba mươi năm trước, “tôi” và Nhuận Thổ đã sống với nhau trong suốt một tháng giêng mà suốt đời “tôi” không thể nào quên được. Hình ảnh hắn thuở lên 10, lần đầu gặp tôi: “Khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng…”. Hắn “bẽn lẽn” với mọi người, nhưng “không bẽn lẽn” với chỉ riêng tôi. Hắn nói lên tỉnh, hắn được trông thấy những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả. Cũng như “tôi” nghe hắn nói chuyện bẫy chim sẻ, chuyện cầm đinh ba đâm con “tra” khi đi canh dưa, chuyện vỏ sò, vỏ ốc, v.v… là những chuyên lí thú, kỳ lạ. Ba mươi năm rồi, “tôi” nhớ đến Nhuận Thổ là nhớ đến gói quà hắn gửi cho tôi: một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp.
Không có tuổi thơ thì không có quê hương. Tình bạn tuổi thơ làm cho tình yêu quê hương mãi mãi tươi thắm. Đúng như Lỗ Tấn đã viết: “Bây giờ mẹ tôi nhắc đến Nhuận Thổ, kí ức tôi bỗng dưng sáng bừng lên trong chốc lát. Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi. Hình ảnh Nhuận Thổ ấu thơ là hình ảnh quê hương, là “vành trăng non trên bầu trời xanh miền thơ ấu”. Nhuận Thổ là một phần rất nhỏ của Cố hương, là tình yêu quê hương.
Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là nỗi đau, nỗi buồn về quê hương. Sau 30 năm xa cách nay găp lại, Nhuận Thổ thay đổi quá nhiều. Nước da “vàng xạm”, những nếp nhăn trên mặt “sâu hóm”. Cặp mắt, mí mắt “viền húp đỏ mọng lên”. Đầu đội một cái mũ lông chiên “rách tươm”, mặc một cái áo bông “mỏng dính” giữa lúc trời rét dữ! Người “co ro cúm rúm”, đôi bàn tay “vừa thô kệch, vừa nặng nề nứt nẻ như vỏ cây thông”. Thời gian đã tàn phá một con người về mặt ngoại hình. Sự nghèo khổ và vất vả làm tàn tạ một con người vốn cường tráng và dẻo dai. Gặp lại bạn cũ, Nhuận Thổ “vừa hớn hở vừa thê lương” mấp máy đôi môi nói không ra tiếng, sau mới “cung kính” nói được hai tiếng: “Bẩm ông!”. Lễ giáo và tôn ti trật tự của xã hội phong kiến đã tạo nên giữa đôi bạn “một bức tường khá dày ngăn cách”. “Tôi” như bị “điếng người” khi nghe anh ta nói. Nhìn người và nghe Nhuận Thổ nói “tôi” nặng trĩu trong lòng “trông anh ta phảng phất như một pho tượng đá” vô hồn và vô cảm.
Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là hình ảnh một xứ sở, một miền quê xơ xác, tiêu điều, người nông dân bị bần cùng hóa, bị áp bức và bóc lột đến tận xương tủy: “mất mùa, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào…”, “chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả”.
Thông qua việc tường thuật chuyến về quê lần cuối cùng của “tôi”, thông qua những rung cảm của “tôi” trước sự thay đổi, tàn tạ ghê gớm của làng quê, đặc biệt là Nhuận Thổ, tác giả đã lên án tội ác của chế độ phong kiến đối với nông dân, từ đó đặt ra vấn đề quyền sống và hạnh phúc của nhân dân trên con đường đi tới.
Nói đến con người quê hương trong Cố hương không thể nào không nhắc tới hình ảnh chị Hai Dương – “Tây Thi đậu phụ”, ngày xưa “phấn son” nổi danh tài sắc bây giờ đã trở thành một “bỉ vỏ” trơ tráo, lúc thì ăn cướp đôi tất tay, lúc thì lấy cái “cẩu khí sát” rồi chạy biến. Cũng không thể không nghĩ tới cháu Hoàng và Thủy Sinh, con trai thứ năm của Nhuận Thổ. Trẻ con xưa nay vẫn hồn nhiên và đáng yêu. Nghĩ đến những con người quê hương, “tôi” mong muốn những em bé quê hương sẽ không còn “phải khốn khổ và tàn nhẫn…”, mong mỏi chúng nó được sống “một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống”.
4. Con đường
Phần cuối truyện Cố hương tác giả viết một câu văn rất lạ mà hay. Sau khi ông nói đến mọi thứ ” tượng gỗ” và “sùng bái tượng gỗ”, nói đến mong ước “gần gũi” và “xa vời”, nói đến “thực” và “hư’’ trong “hy vọng”, rồi ông hạ bút. Đó là suy ngẫm của “tôi”: “ Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Có con đường mưu sinh phải xa quê. Có con đường tình nghĩa, không quản xa xôi, cách trở đã về thăm lại quê. Có con đường khổ ải. Có con đường hạnh phúc. Con đường gần, con đường xa, con đường hi vọng đi lên phía trước. Có con đường mòn… Cũng có chuyện phá lối mở đường. Con đường đến với mỗi người là con đường số phận. Con đường của mỗi dân tộc là con đường cách mạng. Phải chăng đó là ý tưởng sâu sắc về hình tượng con đường trong Cố hương.
Ca dao có câu:
Quê hương nghĩa nặng tình sâu,
Bể dâu biến đổi biết đâu là nhà
Đọc Cố hương của Lỗ Tấn, tôi bâng khuâng mãi về tiếng hát ấy từng vang vọng khắp miền Trung thân yêu của quê mẹ…
Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn- mẫu 2
Hình ảnh quê hương đã in dấu lại trong sáng tác của rất nhiều những nghệ sĩ trong đó có Lỗ Tấn. Nhắc đến ông là nhắc đến một nhà văn nổi tiếng, có nhiều đóng góp cho kho tàng văn chương Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Các tác phẩm tiêu biểu của Lỗ Tấn phải kể đến: “AQ chính truyện”, “Thuốc”, “Nhật kí của một người điên”,… và sẽ là một thiếu sót lớn nếu chúng ta không nhắc đến truyện ngắn “Cố hương”.
Truyện ngắn này được Lỗ Tấn sáng tác vào năm 1923, nằm trong tập “Gào thét”. Nhan đề “Cố hương” có nghĩa là quê cũ, nơi mình đã sinh ra và lớn lên nhưng hiện tại mình không ở đó nữa. Truyện kể về việc nhân vật “tôi” trở về quê hương sau hơn hai mươi năm xa quê. Cảnh vật làng quê trở nên tiêu điều, hoang vắng chứ không còn là một làng quê tươi đẹp đến nỗi không có hình ảnh ngôn ngữ nào có thể diễn tả được như trong trí nhớ của nhân vật. “Tôi” về quê lần này với mục đích nhằm đưa gia đình đến nơi đất khách để làm ăn, sinh sống. Mang trong mình nỗi buồn thương, xót xa, nhân vật “tôi” ra đi với mong ước cuộc sống của làng quê mình sẽ tốt đẹp hơn.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh cố hương hiện ra với sự u ám, thôn xóm, cảnh vật hoang tàn và thê lương “nằm im lìm dưới bầu trời màu vàng úa”. Chứng kiến khung cảnh đó, nhân vật “tôi” không nén được cảm xúc, “lòng se lại”. Trong trí nhớ của nhân vật, làng cũ vốn đẹp hơn và cũng không xơ xác, ảm đạm như thực tại. Quê hương trong kí ức của nhân vật “tôi” là những ngày “thầy tôi hãy còn, cảnh nhà còn sung túc, tôi đàng hoàng là một cậu ấm” và cả những kỉ niệm của tuổi thơ thật đáng nhớ.
Hình ảnh con người ở làng quê dần được hiện lên qua sự khắc họa tài tình của tác giả. Người mẹ thấy con về đã “chạy ra đón” bằng vẻ mặt rất mừng rỡ nhưng “vẫn ẩn một nỗi buồn thầm kín”. Người mẹ ấy đã gắn bó với quê hương bao nhiêu năm, nay phải rời xa nó nên trong lòng cũng lưu luyến, thương nhớ. Những ngày ở quê, nhân vật tôi còn gặp một số người khác như Nhuận Thổ, chị Hai Dương, cháu Hoàng,…
Nghe tin nhân vật “tôi” về quê, Nhuận Thổ đã đến chơi. Trong kí ức của “tôi”, Nhuận Thổ là một đứa bé chạc mười tuổi, “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”. Hắn ta là một cậu bé khỏe mạnh, lanh lợi, biết nhiều chuyện lạ lùng không thể kể xiết. Nhân vật “tôi” và NhuậnThổ có mối quan hệ chủ tớ do trước đây bố con Nhuận Thổ đi ở tháng cho nhà “tôi”. Hai người thân nhau và trở thành bạn bè. Đây là mối quan hệ bình đẳng, gắn bó với nhau.
Nhưng trong quá khứ Nhuận Thổ khôi ngô, lanh lợi bao nhiêu thì con người anh ta ở hiện tại lại hoàn toàn trái ngược bấy nhiêu. Nhuận Thổ “cao gấp hai trước, nước da màu vàng sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm”, “mi mắt viền đỏ húp mọng lên”. Anh ta đội “cái mũ lông rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài”. Bàn tay “hồng hào, lanh lẹn, mập mạp, cứng rắn” trước dây không còn nữa mà thay vào đó là đôi bàn tay “vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”.
Cuộc sống khốn khó, vất vả đã khiến Nhuận Thổ trở nên như vậy. Khi trông thấy người bạn tuổi thơ năm xưa của mình, Nhuận Thổ “vừa hớn hở, vừa thê lương, môi mấp máy nhưng cũng nói không ra tiếng” rồi anh lấy một dáng điệu “cung kính” chào. Điệu bộ, cử chỉ ấy phần nào bộc lộ mặc cảm về thân phận hèn kém của mình. Hoàn cảnh “con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đọa thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi”.
Sự thay đổi ở con người Nhuận Thổ khiến nhân vật “tôi” rất buồn và xót xa. Nhuận Thổ biến đổi như vậy cũng là vì sự sa sút kinh tế, những hà khắc của xã hội phong kiến Trung Quốc và do lối sống lạc hậu của những người nông dân không biết đứng lên đấu tranh cho chính mình.
Làng quê ấy không chỉ có Nhuận Thổ mà còn có chị Hai Dương được mệnh danh là “nàng Tây Thi đậu phụ”. Ngày xưa chị đẹp người, đẹp nết, trẻ trung còn bây giờ chị đã là một người đàn bà trên dưới 50 tuổi, “lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, hai tay chống nạnh, không buộc thắt lưng, chân đứng chạng ra, giống hệt cái com-pa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí”. Những lời nói ngoa ngoắt của chị đã bộc lộ một tính cách chua ngoa, đanh đá.
Bằng biện pháp so sánh tương phản, Lỗ Tấn đã khắc họa rõ nét sự thay đổi về ngoại hình lẫn tính cách của hai nhân vật này. Qua đó, ông cũng tái hiện lại sự sa sút về các mặt của đời sống xã hội, sự suy thoái, những thay đổi tiêu cực trong lối sống của con người lao động.
Quê hương đẹp đẽ của nhân vật “tôi” chỉ còn đọng lại trong kí ức nên khi rời đi, nhân vật này “không chút lưu luyến”. Nhân vật “tôi” chỉ cảm thấy xung quanh là “bốn bức tường vô hình, nhưng rất cao, làm cho tôi vô cùng lẻ loi, ngột ngạt”. Ngột ngạt bởi cảnh vật làng quê hiu hắt, tiêu điều và sự thay đổi tiêu cực của con người. Họ trở nên tàn tạ, nghèo khổ, đần độn, ngoa ngoắt và vụ lợi. Có người đến để đưa chân, nhưng cũng có người đến để lấy đồ đạc.
Họ lấy tất cả những đồ đạc trong ngôi nhà cũ, “hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như tuyết”. Nằm nghe nước vỗ vào mạn thuyền, nhân vật “tôi” mong ước cho Thủy Sinh và Hoàng không bị cách bức nhau như mình và Nhuận Thổ. Đồng thời “tôi cũng không muốn chúng nó vì thân thiết nhau mà phải vất vả, chạy vạy như tôi, cũng không muốn chúng nó phải khốn khổ mà đần độn như Nhuận Thổ, cũng không muốn chúng nó phải khốn khổ mà tàn nhẫn như bao nhiêu người khác”. Bọn trẻ phải sống một cuộc đời mới tốt đẹp hơn.
Tác giả đã khép lại “Cố hương” bằng hình ảnh con đường giàu ý nghĩa biểu tượng. Đây không chỉ là con đường đi thường ngày mà còn là con đường hướng con người đến cuộc sống tươi sáng, hạnh phúc hơn ở tương lai. Nhân vật “tôi” đã khẳng định: “kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Con đường không có sẵn trong tự nhiên mà do chính con người tạo nên.
“Tôi” luôn có niềm tin vào con đường mới sẽ giúp con người có một cuộc sống tự do, no ấm, đầy đủ hơn. Tình yêu quê hương mãnh liệt của nhân vật “tôi” được thể hiện qua niềm tin vào sự đổi thay của làng quê và con người theo hướng tích cực. Đó cũng là tư tưởng nhân đạo mà Lỗ Tấn kí thác trong tác phẩm của mình.
Truyện đã sử dụng linh hoạt những thủ pháp nghệ thuật như hiện tại, hồi ức, đối chiếu và xen kẽ nhau tạo nên một mạch truyện liên kết chặt chẽ. Bằng nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, nhà văn đã khắc họa được những nhân vật một cách rõ nét, sinh động và chân thực. Việc sử dụng hình ảnh biểu tượng và các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên sự thành công của tác phẩm.
Qua truyện ngắn này, bạn đọc có thể thấy được tiếng nói tố cáo, phê phán xã hội phong kiến cũ đồng thời ông cũng đặt ra vấn đề con đường đi của người nông dân lao động và toàn thể xã hội. Ông đã dùng thứ vũ khí lợi hại là ngôn từ để “biến đổi tinh thần” nhân dân đang trong tình trạng “ngu muội” và hèn nhát”.
Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn- mẫu 3
Nhà văn Lỗ Tấn được biết đến là một nhà văn cách mạng lừng danh của Trung Quốc. Nhắc đến ông không thể không nhắc đến truyện ngắn “Cố hương” được. Tác phẩm Cố hương là một thành công của ông nó mang đến cho người đọc một thứ tình cảm vô cùng dịu nhẹ và thấm đẫm cảm xúc tình yêu quê hương. Tác phẩm giống như một thức phim đã ghi lại cho chúng ta những hồi ức vô cùng dịu ngọt của những con người ở quê hương với những nỗi buồn, sự hi vọng.
Truyện ngắn “Cố Hương” có những nhân vật như tôi, mẹ tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, Thủy Sinh, chị Hải Dương. Họ chính là những con người của quê hương và cũng chính họ đã gợi ra biết bao nhiêu những kỷ niệm buồn vui và sâu nặng với quê hương – nơi cho họ biết bao nhiêu kỷ niệm cũng như những ký ức đẹp đẽ.
Trong khoảng thời gian 20 năm xa cách thì nhân vật “tôi” lúc này về thăm quê hương, nhân vật phải trải qua 2000 dặm với cái lạnh đến thấu xương khiến cho lòng của nhân vật tôi như bồi hồi khôn xiết. Những cơn gió lạnh như thật vi vu và đã thổi về khiến cho bao nhiêu ký ức dội về trong lòng nhân vật. Chuyến về quê lần này dường như cũng thật đặc biệt vì công việc về để bán cũng như giao lại cho chủ mới. Về để nói lời tạm biệt ngôi nhà vô cùng thân yêu và gắn bó với ký ức tuổi thơ của nhân vật sau 20 năm xa cách.
Thực sự cứ mỗi lần nói đến quê hương là thường nói đến tổ tiên ông bà, quê hương cũng chính là một nơi để thể hiện sự tôn kính phụ dưỡng đối với ông bà cha mẹ. Thế nhưng trong tác phẩm ta không thấy nói đến. Ở đây, tác giả Lỗ Tấn dường như cũng chỉ xúc động nói đến ký ức tuổi thơ của mình trong khoảng ba mươi năm về trước.
Ta như nhận thấy được ở đó có một tình bạn đẹp với Nhuận Thổ con của một gia đình làm thuê cho nhà của nhân vật “tôi”. Cũng chính vì nhờ nhân vật Nhuận Thổ mà nhân vật tôi biết được nhiều chuyện kỳ lạ. Bởi cũng vì nhờ Nhuận Thổ mà tôi dường như lại còn cảm nhận được vẻ đẹp quê hương, với bao cảnh tượng thần tiên thật đẹp nơi nhân gian.
Có thể nói rằng quê hương cũ với bao kỷ niệm thời thơ bé, thế rồi cũng chính cái ngày mà thầy của “tôi” cũng cứ vẫn còn cảnh nhà sung túc sang trọng. Đặc biệt hơn vào ngày giỗ tổ các đồ ăn thức uống được bày sang trọng. Hình ảnh của quê hương trong ký ức mỗi người bao giờ cũng đẹp và thật thân thương biết bao nhiêu. Khi nhà văn Lỗ Tấn nói đến quê hương hiện tại và quê hương trong quá khứ trong lúc ông trở về gặp bạn cũ người xưa. Tất cả dường như đều có những niềm vui và nỗi buồn, tất cả như cứ ùa về và khiến cho tác giả không thể nào có thể quên được.
Người mẹ của tác giả cũng đã già và tác giả giờ đây cũng đã lại trưởng thành., đi làm ăn xa lưu lạc 20 năm trời nay thì mới về thăm quê thăm mẹ. Khi gặp lại thì mẹ như mừng lắm, nét mặt như lại ẩn chứa biết bao nhiêu vẻ buồn. Chắc hẳn là mẹ cũng buồn vì cảnh nhà như sa sút và phải theo người con trai đến miền đất mới, rời xa quê hương yêu dấu đã gắn bó biết bao nhiêu năm. Khi tác giả nhắc đến Nhuận Thổ thì người mẹ dường như cũng đã lại thở than cho cảnh nhà anh ta. Khi mẹ cũng cứ bàn với tác giả dọn nhà cái gì mang được đi thì mang đi còn không thì cho Nhuận Thổ hết.
Nhân vật Nhuận Thổ chính là tình bạn tuổi thơ. Ta có thể nhận thấy được hình ảnh thuở lên 10 của Thổ với khuôn mặt tròn trĩnh, cùng với đó là nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tý tẹo và trên của cổ đeo vòng bạc sáng loáng. Quan trọng hơn hết là Nhuận Thổ cũng lại dạy cho tôi nhiều trò lạ và tình yêu quê hương trong lòng tôi.
Thực sự cũng không có tuổi thơ thì không có quê hương, ta như nhận thấy được tình bạn tuổi thơ đã làm cho tình yêu quê hương cũng cứ mãi mãi tươi thắm. Có thể khẳng định tuổi ấu thơ là hình ảnh quê hương đó chính là một vành trăng non trên bầu trời xanh miền thơ ấu.
Xây dựng lên hình ảnh nhân vật Nhuận Thổ trong hiện tại là nỗi đau, lại là nỗi buồn về quê hương. Nhất là sau 30 năm xa cách nay gặp lại Nhuận Thổ dường như cũng đã có bao thay đổi. Nước Nhuận Thổ vàng xạm, những nếp nhăn trên mặt sâu hóm. Đôi mắt thì đỏ mọng lên, trên đầu thì đội cái mũ lông chiên rách tơi, thế rồi Nhuận Thổ như mặc chiếc áo bông mỏng dính giữa trời rét dữ. Khi gặp lại bạn cũ Nhuận Thổ lúc này cũng lại vừa hấn hở vừa thê lương, mấp máy đôi môi không ra tiếng sau mới thể hiện được sự cung kính.
Nhuận Thổ hiện tại được xây dựng lên chính là hình ảnh một xứ sở, một miền quê xơ xác tiêu điều và đây cũng chính là một người nông dân bị bần cùng hóa bị áp bức đến tận xương tủy. Chỉ với việc thông qua hình ảnh Nhuận Thổ tác giả Lỗ Tấn dường như cũng đã lên án nhưng tội ác của chế độ phong kiến đối với nhân dân từ đó đặt ra quyền sống cũng như quyền hạnh phúc của nhân dân trên đường đi tới.
Nói đến quê hương trong cố hương thực sự không thể không nhắc đến hình ảnh chị Hai Dương, hay còn đó là nhân vật chị Tây Thi đậu phụ ngày xưa son phấn nổi danh tài sắc bây giờ đã trở thành một vỏ bỉ trơ tráo.
Tác phẩm “Cố hương” của nhà văn Lỗ Tấn chứa được hình ảnh quê hương tươi đẹp trong tuổi thơ của tôi bỗng ùa về. Và quê hương đó ngày càng một phát triển cũng như để sánh vai với các cường quốc năm châu. Mai sau này cho dù có đi xa trên khắp nẻo đường thì hình ảnh quê hương sẽ mãi hiện hữu và làm đắm say níu giữ bước chân ta tìm về.
Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn- mẫu 4
Đọc Cố hương, ta bắt gặp một giai điệu buồn, một nỗi buồn xuyên suốt, sâu xa từ hiện thực mang chất trữ tình thâm trầm, thấm thìa. Một câu chuyện dường như không có cốt truyện – chỉ như một bút kí sơ sài nhưng lại có sức đọng ở tầng sâu cảm nghĩ. Chủ đề của tác phẩm cứ toả rộng ra, nâng cao dần lên từ những vỉa quặng nổi, chìm, từ những mạch ngang dọc. Đề tài là cố hương, tất nhiên phải có hình ảnh về chính cố hương, nhưng ấn tượng đọng lại của truyện lại là những nỗi niềm buồn vui về mảnh đất nghìn đời của nhà văn, và sau đó là những day dứt băn khoăn: làm thế nào để thay đổi nó.
Dấu hiệu đầu tiên của sự tàn tạ làm “lòng tôi se lại” là những “thôn xóm tiêu điều, hoang vắng nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa” mà tác giả (nhân vật tôi) quan sát được ở ven sông. Đó không phải là hình ảnh về quê hương mà người viết mong chờ và hồi hộp biết bao sau hơn hai mươi năm trở lại. Quê hương trong thực tế khác xa cái quê hương mà “tôi” có trong lòng, có trong kí ức. Cái hôm nay không giống cái hôm qua “Làng cũ tôi đẹp hơn kia!”.
Vậy phải chăng cảm giác đầu tiên khi trở về làng này là một ngộ nhận, một cảm tính chủ quan vì “lòng mình vốn dã không vui”, hoặc sự thê lương cũng không đến nỗi như mình lầm tưởng? Cảnh hiu quạnh khi bước chân đặt đến cổng nhà gieo thêm cái lạnh, cái buồn về sự tan hoang, thưa vắng. Nhà cửa, chòm xóm chắc hai chục năm về trước còn ấm áp đông vui, nhưng giờ thì nhiều gia đình đã dời đi, nay đã thành trống trải.
Nhiều nhà khác dã ra đi, gia đình “tôi” cũng sắp sửa ra đi. Nhìn mấy cọng tranh khô phất phơ trên mái ngói nhà mình giống như một ngôi nhà vô chủ từ lâu, vậy nên “khống đổi chủ không được”, điều ấy tất nhiên, không khác gì những ngôi nhà trước đó. Đồ đạc trong ngôi nhà của “tôi” gần như bị quên lãng và nào có gì nhiều. Ấy thế mà biết tin, xóm giềng họ tộc đến “hỏi thăm” không ít.
Động cơ không hoàn toàn chỉ là trong sáng, thể hiện ở cái không khí xô bồ không phân biệt được người ngay, kẻ gian vì khách khứa thì nhiều, trong đó có kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ đạc, cũng “có kẻ vừa đưa chân vừa lấy đồ đạc”. Vì vậy khi con thuyền của gia đình “tôi” rời bến lên đường thì tất cả đồ đạc trong ngôi nhà “hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt” đều đã được mang đi “sạch trơn như quét”.
Nguyên nhân dẫn đến sự nghèo đói không gì khác là mất mùa, thuế má… Một gia đình như gia đình Nhuận Thổ đông con, tuy đứa bé nhất có thể lao đọng cũng đã “giúp được việc” rồi vẫn chẳng đủ ăn vì tai hoạ, vì sự sách nhiễu của bộ máy tham ô “chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả”.
Có lẽ sự thay đổi nhiều nhất, ấy là sự biến dạng ở chính con người. Một Nhuận Thổ hôm nay hoàn toàn không giống với Nhuận Thổ năm xưa. Còn đâu khuôn mặt ngày nào tròn trĩnh, “nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”. Thay cho gương mặt rạng rỡ, hăm hở vào đời ngày đó là một cái gì thật tàn héo xác xơ “Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng sạm”, chiếc mũ trên đầu rách bươm, chiếc áo bông mặc mùa lạnh trên người thì “mỏng dính”.
Đặc biệt là hai bàn tay trước kia hồng hào, lanh lẹn, mập mạp nay chỉ còn hai bàn tay “vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”. Nếu chỉ là dấu vết của tuổi già, một cái gì vô cảm thì tại sao khuôn mặt Nhuận Thổ khi gặp người mà chính anh mong nhớ, đợi chờ lại “vừa hớn hở vừa thê lương”. Cái gì đó nhấn con người đói nghèo nhưng lương thiện ấy xuống tận bùn đen, đổ gương mặt vui tươi ngày trước trở thành mụ mẫm “đần độn” đi nếu không phải là do bao nhiêu tệ nạn: con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đoạ.
Nói đến tệ nạn và các thế lực áp bức này thông qua một nạn nhân của nó, sức tố cáo của ngòi bút hiện thực mạnh mẽ, dữ dội biết chừng nào? Nhân vật thím Hai Dương, “nàng Tây Thi đậu phụ” có lẽ là đại diện cho số đông có những biểu hiện lưu manh hoá. Ra vẻ tức giận “tôi” giàu mà keo kiệt vì không chịu cho không những thứ “đồ gỗ hư hỏng”, mụ quay gót thong thả đi ra rồi “tiện tay giật luôn đôi bít tất tay của mẹ tôi giắt vào lưng quần, cút thẳng”.
Hoặc một lần khác mụ “đứng cạnh đống tro, moi ra hơn mười chiếc, cả bát lẫn đĩa” rồi đổ cho Nhuận Thổ có ý gian lén lút vùi vào. Đứa trẻ nhỏ nhất bây giờ, đứa con thứ năm của Nhuận Thổ cũng không giống bố nó hai chục năm về trước, hoặc chỉ như một phiên bản đáng buồn vì gương mặt thì nó giống hệt anh “chỉ có điều vàng vọt, gày còm hơn một tí, và cổ không đeo vòng bạc mà thôi”.
Rõ ràng bằng óc quan sát có sự đối chiếu làm nổi bật sự đổi thay, nhất là bằng phương thức miêu tả nói ít mà gợi nhiều, phác hoạ cái bên ngoài mà nói được bao điều sâu sắc bên trong hoặc điển hình hoá một chân dung, một tính cách nhân vật.
Khi quan sát, miêu tả cảnh và người nơi chôn rau cắt rốn, nhà văn vốn không có cái nhìn dửng dưng của người ngoài cuộc. Vì cảnh ấy, người ấy đối với nhà văn rất đỗi thân yêu, gần gũi. Có thể nào nhà văn “vô cảm”, dửng dưng? Nhưng dù sao, những chi tiết phác hoạ trên đây vẫn là ngoại canh, đối với người viết, nó vẫn chỉ là khách thể, cái bên ngoài. Còn nỗi buồn vô hạn của nhà văn, nó lặn vào chiều sâu, vào tầng hai của hiện thực nhìn thấy. Ở đây, các phương tiện biểu cảm được tận lực phát huy và tỏ ra vô cùng hiệu quả.
Trước hết, ấy là cảm nhận về sự tù túng, quẩn quanh, ngưng đọng của một làng quê nói riêng, cũng là một đất nước Trung Quốc nói chung. Một gia đình như gia đình Nhuận Thổ tính đến ba đời: từ cha Nhuận Thổ đến Thuý Sinh (con Nhuận Thổ) trước sao sau vậy, không “mọc mũi sủi tăm” lên được dù thời gian có đến một thế kỉ trôi qua. Ông là người “ở tháng”, cha là người được chủ gọi thêm, để coi giữ đồ thờ (trong những ngày giỗ tết), còn đứa con biết trôi dạt về đâu khi điểm tựa là gia đình, một gia đình đông con làm không đủ sống. Nếu theo quan điểm “con hơn cha là nhà có phúc” thì gia đình Nhuận Thổ đúng là “vô phúc”.
Một Thuỷ Sinh bây giờ đâu có bằng cha nó của hai mươi năm vể trước? Một thím Hai Dương cũng khác trước nhiều. Cái lương thiện, hiền hậu của cô gái ngồi bán đậu phụ năm xưa đã thay thế bằng những gì không được đáng yêu như thế: tự cao, tự đại, tâng bốc lấy lòng, tham lam tinh quái, cái dáng điệu com-pa thay bằng tên gọi “mụ com-pa”…
Cùng với sự trói buộc vô hình của xã hội, những nạn nhân đáng thương này còn tự trói mình bằng một sợi dây truyền kiếp. Ấy là sự mặc cảm, những ngộ nhận về thân phận tôi đòi. Điều này làm cho nhà văn bất ngờ và đau đớn nhất. Vì đó là căn bệnh nan y về mặt tinh thần của những người áp bức do chính họ tạo ra. Nó phổ biến lan tràn trở thành một thứ “quốc dân tính” kìm hãm con người ngu muội trong một không gian khép kín tối tăm.
Tình cảm giữa Nhuận Thổ với nhân vật “tôi” thật thân thiết, chân thành, cởi mở hồi còn là hai đứa trẻ ngày nào. Với nhân vật “tôi” sau hai chục năm dường như nó vẫn còn trọn vẹn, còn tươi nguyên như thế. Vì kỉ niệm giữa chúng gần giống như một thiên đường trên mặt đất. Nhuận Thổ khi ấy “lên tỉnh” thì lần đầu tiên mới trông thấy “những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả”.
Còn về vùng biển quê Nhuận Thổ, nhân vật “tôi” tung tăng bay nhảy như một con chim sẻ sổ lồng. Mùa tuyết xuống thì đi bẫy chim, mùa dưa hấu thì đi canh lợn rừng, con tra, con nhím. Ra biển thì đi nhặt vỏ sò màu đỏ, màu xanh… cảm giác của nhân vật “tói”, cũng giống Nhuận Thổ là “chưa hể biết trên đời này lại có những chuyện mới lạ như vậy”. Với nhân vật “tôi”, những phát hiện mới này không chỉ là ngày hội, niềm vui, nó còn là sự kiêu hãnh so với bạn bè trên tỉnh vì “chúng nó cũng như tôi, chỉ nhìn một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi!”.
Trong thế giới tuổi thơ hồn nhiên ấy, chúng đã từng là bạn bè, anh em dù hai gia đình không cùng một hoàn cảnh sống. Không có gì để phân chia kẻ nông thôn người thành phố. Những giọt nước mắt khi phải chia tay đều rất chân thành chia đều cho hai đứa trẻ ngây thơ. Nó là vô giá. Với nhân vật “tôi”, đó là vùng sáng của quê hương, hồn vía của quê hương. Hai chục năm xa cách, tuổi thơ đã đi qua nhưng có cái không thể đi qua, kí ức của “tôi” giống như “bừng sáng lên” khi bà mẹ nhắc đến “có anh Nhuận Thổ đến chơi” sau bao chuyện vật đổi sao dời xa lơ xa lắc.
Còn Nhuận Thổ khi gặp lại “tôi” tại sao nét mặt “vừa hớn hớ vừa thê lương”? Hớn hở vì vui mừng, đó là những tình cảm hồn nhiên chưa mất. “Tôi” đi xa, anh thường đến hỏi thăm. Nhận tin “tôi” trớ về, anh vội đến gặp mặt, lại còn cho quà dù quà quê chỉ là một gói đỗ xanh phơi kĩ. Tình cảm như thế là chân thật. Nhưng cái hiển nhiên thì đã không còn. Nhuận Thổ đã biết tiết chế sự hồ hởi thể hiện ở những hành vi ứng xử rất chừng mực.
Anh đã tạo ra một thứ hàng rào ngăn cách. Thay cho cách nói suồng sã anh anh em em ngày nào là một thái độ khác: một dáng điệu “cung kính”, một cách chào “rành mạch” dường như anh đã tự dặn mình, đã luyện tập kĩ để không một mảy may vụng về, lúng túng: “Bẩm ông”. Cái cách thưa gửi lạ tai ấy thật bất ngờ vì lần đầu “tôi” nghe thấy trong quan hộ bạn bè, tri âm thân thiết. Nó ráo hoảnh trong sự ngăn cách phân chia.
“Tôi như điếng người đi” chính là vì vậy. Sự đau đớn của “tôi” không nói được nên lời vì đó là nỗi đau quá lớn ngoài sức tưởng tượng của người kể chuyện. Hơn thế nữa, một cái gì còn lớn hơn, giống như một định mệnh: người đi ở vẫn là đi ở, người hèn hạ vẫn là người hèn hạ. Thế giới phẳng lặng này không dành chỗ cho sự thay bậc đổi ngôi. Trái tự nhiên, luật lộ vô hình vẫn ngang nhiên tồn tại, tồn tại trong ý thức con người, kể cả con người bị áp bức khổ đau.
Quan hệ thân mật đã trở nên xa cách, “tôi” không nói được gì hơn vì cái không khí ngột ngạt bao trùm. Cuộc trò chuyện giữa khách và chủ tớ nên rời rạc “toàn là những chuyện chẳng quan trọng gì”, bởi nó vô hồn nhạt nhẽo. Kể lể về nỗi buồn của bản thân Nhuận Thổ mà những nếp nhăn trên mặt anh không hề động đậy như anh là người kể còn nội dung câu chuyện là của một ai đó mà thôi.
Gương mặt ấy “phảng phất như một pho tượng đá” thật phẳng lặng đến thản nhiên nhằm vĩnh viễn hoá những đau thương mà mình nếm trải nhọc lòng, không còn biết cái buồn vui hồn nhiên là gì nữa.
Như thế là con đường phía sau đã rõ: một con đường rất hẹp mà cũng rất dài vắt ngang bao nhiêu thế kỉ. Vấn đề đặt ra là có nên tiếp tục giẫm chân lên những bước chân của người khác hay thay đổi nó đi, mở ra một con đường mới. Hình ảnh về con đường cũ như tự nó hình thành: con đường tâm tưởng ấy song song với con đường có thực mà quy trình của nó dễ thấy biết bao: Từ thành phố trở vé rồi từ đó lại ra đi, trở về trong đêm và ra đi trong buổi hoàng hôn.
Hai khoảnh khắc thời gian đánh dấu một con đường ảm đạm. Phải chăng là rời bỏ cố hương cũng là chia tay với quá khứ, một quá khứ đáng buồn? Câu văn bỗng trở nên đa nghĩa. Đó là “những núi xanh hai bên bờ sông đen sẫm lại, nối tiếp chạy về phía sau lái” có ý nghĩa về cuộc biệt li, biệt li mà “không chút lưu luyến” cảm thương. Trong bối cảnh đó, một cảm nhận mới, không phải không dính líu đến cuộc chia tay ập đến “tôi chỉ cảm thấy chung quanh tôi là bốn bức tường vô hình, nhưng rất cao, làm cho tôi vô cùng lẻ loi, ngột ngạt”.
Tuy vậy, tuy quá khứ thì có thể quên đi nhưng câu hỏi của thằng bé Hoàng còn đó “nhưng mà thằng Thuý Sinh nó hẹn cháu đến nhà chơi cơ mà!”. Quan hệ giữa “tôi” với Nhuận Thổ cứ cho là đã thuộc về quá khứ, còn tình bạn của hai đứa trẻ, nghĩa là một thế hệ tiếp nối thì sao? “tôi mong ước chúng nó sẽ không giống chúng tôi, không bao giờ phải cách bức nhau cả…”.
Trong tương lai số phận của chúng sẽ không thể nào còn giống chúng tôi, hoặc vất vả chạy vạy như tôi, hoặc “khốn khổ mà đần độn” như Nhuận Thổ, cũng không giống những người dưng “vì khốn khổ mà tàn nhẫn như bao nhiêu người khác”. Cuộc sống của chúng tôi, thời chúng tôi, thời của quá khứ không xứng đáng với con người. Nhà văn nghĩ đến một cuộc sống khác, một cuộc đời mới mà “chúng tôi chưa từng được sống”, nghĩa là một xã hội phải thay đổi hẳn đi trong no đủ và nhất là một quan hệ mới giữa con người.
Nhưng hi vọng của người ta có ba, bảy đường. Ở đây lại xuất hiện một thứ ngã ba, có hi vọng hướng vé phía sau, có hi vọng hướng về phía trước. Trong Nhuận Thổ có cái ước mơ thứ nhất. Nó tự nhiên như một quán tính, một thói quen khi anh xin gia đình “tôi” chiếc lư hương và đôi nến. Dù cuộc sống có khốn khổ thế nào anh không bỏ được thói quen là “sùng bái tượng gỗ” của anh, tự nguyện trở lại cái quá khứ đáng hàng trăm lần nguyền rủa.
Nhưng ngay ở hi vọng thứ hai, hi vọng một xã hội trong đó con người được giải phóng, được tự do cũng có thể không phải không hão huyền, và xét cho cùng, nó cũng là một loại “tượng gỗ” vô hồn, vô tri kiểu mới “thứ tượng gỗ tự tay tôi chế tạo ra”. Trở về với quá khứ thì quá giản đơn vì gần gũi, còn đánh cược cuộc đời mình về phía trước thì dường như lại quá “xa vời” gần với sự hư vô như nhìn vào ảo ảnh. Hình ảnh con đường và thái độ chọn đường đến phần kết câu chuyện mới thực sự được xác định.
Biến mơ ước thành quyết tâm khi nhà văn tự nêu lên một định nghĩa về tương lai, cũng là về con đường mới: “kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Đặt ý nghĩ trên đây vào những năm hai mươi của thế kỉ trước, ta mới nhận ra một dự cảm tiên tri, một táo bạo và dũng cảm tìm đường của Lỗ Tấn.
Phương thức lập luận với nhiều thao tác tư duy như: So sánh, loại trừ, phủ định để tìm ra chân lí phù hợp với giọng văn độc thoại ở đây. Giá trị nhân văn của Cố hương vì vậy không chỉ ở sự cảm thông (với nỗi khổ của kiếp người – như kiếp người Nhuận Thổ) mà còn là, và chính xác là xoá bỏ. Phê phán một xã hội đang tàn hay khát khao thiết kế một mô hình mới, một xã hội tốt đẹp cho con người, ngòi bút “trong nóng ngoài lạnh” của nhà văn có một sức lan toả sâu xa.
Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn- mẫu 5
Xa quê hương mấy chục năm xa cách
Mãi trong ta nhớ miền quê yêu dấu
Cánh đồng xanh lưng trâu chim sáo đậu
Nghe quê hương đất mẹ gọi ta về.
Đó chính là tâm trạng của một con người sau bao nhiêu năm xa quê, từng hình ảnh, từng kỷ niệm của tuổi thơ có lẽ sẽ không bao giờ quên được. Và cũng cái tâm trạng ấy, con người ấy còn đi vào các tác phẩm văn học. Một trong những tác phẩm văn học có để lại dấu ấn sâu sắc trong tôi là Cố Hương của Lỗ Tấn. Và trong truyện, có lẽ hình ảnh ‘con đường’ được tác giả nhắc đến để lại cho người đọc nhiều cảm xúc nhất, nổi bâng khuâng, suy nghĩ chất chứa trong lòng.
Truyện ngắn kể về một chuyến đi về quê cũ của nhân vật “Tôi” sau hơn 20 năm xa cách với không gian và thời gian vô cùng đặc sắc. Có thể đây là lần cuối cùng anh về thăm lại quê. Lần này, nhân vật tôi trở về để đưa gia đình đi nơi khác định cư. Trên con thuyền trong một chiều hoàng hôn, nền trời vàng như lớp mỡ gà. Con đường về quê lần này đã không như mong đợi, những làng xóm thưa thớt, tiêu điều cùng với cái không gian trong im lặng và hoang vu khiến tâm trạng của “tôi” lại càng buồn hơn. Về đến nhà gặp mẹ, gặp lại những người đã từng là một phần tuổi thơ của “tôi”.
Được mẹ kể về “Nhuận Thổ” người bạn cùng lứa. Trước kia Nhuận Thổ là một đứa trẻ mụ mẫm, lanh lợi, nhưng giờ đây gặp lại, hắn là một người ốm yếu với làn da đen sạm, nhà thì đông con. “Tôi” thấy thật buồn cho cậu ấy. Còn thím Hải Dương trước kia được mệnh danh là nàng Tây Thi đậu phụ, hàng đậu bán đắt vô cùng nhờ có chị ta. Chị ấy bảo “lúc cậu còn nhỏ tôi bế cậu hoài mà cậu không nhớ tôi à?” Có lẽ là vì thím ấy thay đổi quá nhiều, những kí ức đẹp đẽ kia đã bị lấn át ra ngoài hết. Trước kia thùy mị nết na là thế còn bây giờ ngược lại hoàn toàn: chanh chua, đanh đá, thô lỗ, gian xảo,…cứ thấy nhà tôi thấy có cái gì lạ là tìm cách xin cho bằng được.
Xã hội phong kiến đã đẩy những người nông dân nghèo khổ vào bước đường cùng. Họ là những con người đáng thương, bị xã hội đẩy xuống đáy, tận cùng, nhưng họ không đủ can đảm để tìm cho mình một con đường mới để giải thoát, để thay đổi số phận. Giờ đây, “Tôi” phải đưa gia đình của “tôi” đi nơi khác, để cho cháu Hoàng và Thủy Sinh không sống một cuộc sống như “tôi” từng sống ở đây.
Cũng trên con thuyền, dòng sông và hoàng hôn đã mở đầu cho một hành trình mới, để bắt đầu cho một cuộc sống mới, tốt đẹp hơn. Cháu Hoàng và Thủy Sinh có hỏi về vấn đề quay lại nơi này nhưng không hiểu sao “tôi” không còn một chút lưu luyến gì, muốn rời đi và sẽ không trở lại. Quê hương “tôi” sinh ra, những con người ở đây ai cũng thay đổi, mọi thứ thay đổi theo một chiều hướng tiêu cực. “Tôi” lại suy nghĩ “Kỳ thực trên mặt đất làm gì có đường, người ta đi mãi cũng thành đường đó thôi”.
Có lẽ mong muốn một xã hội phát triển, phải có một người đứng lên, mở đường trước , đi trước mới có thể thay đổi được. Con đường của cách mạng, con đường lí tưởng, con đường của những con đường yêu nước. Nếu là dân tộc Việt Nam khi đọc tác phẩm “Cố Hương” lại càng rút ra được nhiều bài học.
Bác Hồ đã mở đường lối mới cho dân tộc, đem tư tưởng Mac-Lê nin đến mọi thế hệ, vậy bây giờ con người Việt phải làm gì? Để tiếp nối với những gì Bác đã làm. Có lẽ từ giờ bản thân phải xác định được con đường riêng cho mình và cố gắng theo mục tiêu ấy. Và con đường mà tác giả nhắc tới cuối bài còn là con đường của niềm tin, hi vọng, không chỉ một người làm nên mà là cả một dân tộc, một thế hệ góp sức cùng xây dựng.
Tất cả mọi thứ đến như xuất phát từ sâu thẳm đáy lòng yêu quê hương của anh. Hình ảnh làng quê trẻ thơ sẽ chẳng bao giờ phai nhạt. Một con người luôn mong ước người khác được ấm no- hạnh phúc. Có những con đường xa, đường gần, con đường khổ đau, con đường trắc trở nhưng ta cứ dũng cảm đi thì mọi con đường đều trở nên tốt đẹp và hạnh phúc.
Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn- mẫu 6
Trong các tác phẩm của trung quốc, chúng ta không thể không nhắc tới những cây bút lớn như Đỗ phủ, Lí Bạch, Bạch cư Dị, và có lẽ sẽ là một sai sót lớn nếu chúng ta quên mất cái tên Lỗ Tấn. ông là một nhà văn lớn, có những tư tưởng mới, vượt thời đại và thể hiện một cái nhìn hết sức văn mình trong thời kì đất nước Trung Quốc đang bước vào chiến tranh. Trong những truyện ngắn của ông, em thích nhất là truyện “Cố hương”.
Câu chuyện kể lại cuộc quay trở về quê hương của tác giả sau hơn hai mươi năm xa cách. Hiện nay những con người và cảnh vật đã thay đổi nhiều. Nét tàn tạ thể hiện một cách rất rõ nét qua những động tác, ngôn ngữ và diện mạo của những người đã từng gắn bó một cách sâu sắc với tuổi thơ của ông. Trong đó có Nhuận Thổ- một người bạn thiếu thời của ông. Đây chính là một trong những điều khiến cho ông cảm thấy đau khổ nhất bởi sự thay đổi trong cách suy nghĩ và trong tính cách của một người bạn cũ.
Nhuận Thổ được miêu tả trong kí ức của tác giả chính là một cậu bé thông minh, khỏe mạnh và đẹp trai. Tuy Nhuận Thổ là cậu bé nhà nghèo nhưng đó là con trai lại là người được bố mẹ chiều chuộng cho nên cậu bé lại có gương mặt hết sức bầu bĩnh, đáng yêu. Những chi tiết miêu tả những đặc điểm về ngoại hình của cậu bé là chiếc mũ lông đội đầu với chiếc vòng bạc lấp lánh ở cổ cho cậu bé dễ nuôi lớn. Ngày ấ, nhìn ngoại hình và những hành động của cậu bé, ai cũng nhận xét rằng, đó sẽ là một người có tương lai tốt đẹp.
Khi ấy, Nhuận Thổ là một cậu bé hết sức nhanh nhẹn và thông minh. Cậu bé tuy là con của một người nông dân tới xin làm người ở nhưng câu bé lại rất nhanh chóng hòa nhịp được với cuộc sống ở nơi đây. Chính nhờ có cậu mà tác giả khi còn nhỏ đã bớt cô đơn và có thêm người bên cạnh để bầu bạn. trong lòng của câu bé, không ai có thể thay thế được vị trí của Nhuận Thổ.
Nhuận Thổ có thể biết rất nhiều thứ mà cậu bé lớn lên ở thành phố như tác giả không thể nào biết hết được: nào là cách bắt chim sẻ, cách phân biệt những con sò… chính bởi vậy mà khi chia tay, người mà tác giả lưu luyến nhất chính là Nhuận Thổ. Nhưng câu vận luôn nghĩ rằng: Nhuận Thổ trong tương lai sẽ là một đại nam nhỉ có khí khái, có sự phóng khoáng, cần cù chăm chỉ nuôi cả gia đình. Cũng giống như hình ảnh của cậu khi tay cầm cây đinh ba trông ruộng dưa cho gia đình tác giả.
Thế nhưng nhiều năm sau gặp lại, Nhuận Thổ đã thay đổi, không còn là cậu bé ngày nào nữa. thay vào đó, cậu đã cao gấp hai, gấp ba lần hồi trước, đôi mắt không còn là đôi mắt đen láy, thông mình mà là một đôi mắt lờ đờ đỏ sọng. làn da vốn bầu bĩnh nay trở nên vàng vọt và có nhiều những nếp nhăn. Hình ảnh cậu bé thông minh và nhanh nhẹn ngày nào không còn nữa, thay vào đó là hình ảnh của một người trưởng thánh ít nói, chậm chạp và có phần hèn kém.
Điều đó khiến cho tác giả hết sức bất ngờ. giờ đây, Nhuận Thổ chỉ là con người như bao người khác, bị số phận đưa đấy, luôn cúi đầu trước mọi giông bão của cuộc đời. có lẽ do chàng đã bị ăn sâu vào những tư tưởng phân chia giai cấp mà khi gặp tác giả, lời đầu tiên mà tác giả được nghe chính là hai chữ” thưa ông”.
Có thể nói là đau đớn, xót xa nhường nào cho sự thay đổi to lớn ấy. rõ ràng những năm nào Nhuận Thổ vẫn còn là một cậu bé vô lo vô nghĩ với những dự định, ước mơ trong tương lai, ấy vậy mà giờ đây, cậu không còn giữ lại được bất cứ điều gì từ những sự nhanh nhẹn hay thông minh khi còn nhỏ nữa. tác giả vô cùng bất ngờ và đã hỏi chuyện thì mới biết Nhuận Thổ cũng chỉ là một trong những nạn nhân của chế độ, của hiện thực mà thôi.
Hàng loạt những khó khăn đã tới với gia đình của Nhuận Thổ: sưu thuế cao, lũ lụt nên hoa màu mất trắng, … một thời gian dài sống trong lo âu, dần dần chúng đã hình thành nên tính cách cùng cách nhìn nhận của Nhuận Thổ về cuộc sống.
Nhuận Thổ đã biết đầu hàng số phận. Chàng đã không còn giống như cậu bé đầy nhiệt huyết ngày nào còn khóc thét lên khi phải xa người bạn thân thiết tuổi thơ ấu nữa mà chàng luôn phải sống cúi đầu, luôn lo sợ cho cuộc sống của mình và vợ con. Từ đó, tính cách phóng khoáng tự tin vốn có của chàng cũng không còn nữa.
Qua tác phẩm, chúng ta đã nhận ra rằng, trong cuộc sống không chỉ có một mà có rất nhiều người gặp phải hoàn cảnh như Nhuận Thổ. Chàng chính là điển hình cho những nạn nhân của xã hội. Hoàn cảnh khiến cho chàng không còn làm được những điều mà mình mong muốn, không còn giữ được những tính cách đáng quý vốn có của chàng nữa.
Tất cả mọi thứ chàng đều đã bị phai nhạt để giờ đây, ngay cả với việc nói chuyện cùng người bạn thời thơ ấu của mình mà chàng cũng phải có sự suy nghĩ và cân nhắc vấn đề vai vế trong xã hội trước tiên, cũng không còn nhận là mình đã từng sống một cách tự do, phóng khoáng như trước nữa.
Có thể nói, tác phẩm cũng đã phê phán chế độ thời bây giờ đã làm thay đổi bản chất của một con người- đó là điều đáng sợ tới nhường nào.
Kết luận
Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách ” Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn ” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.
Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 10/2024!