Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Phân tích truyện Bến quê của Nguyễn Minh Châu làm nổi rõ những nỗi niềm, những tiếng thương làm ta xúc động” chuẩn nhất 11/2024.
Phân tích truyện Bến quê của Nguyễn Minh Châu làm nổi rõ những nỗi niềm, những tiếng thương làm ta xúc động- Mẫu 1
Truyện Bến quê thấm một nỗi buồn và tình thương khi ta bắt gặp một nhân vật ốm đau bệnh tật nằm liệt giường. Nhĩ là người chồng, người cha, người láng giềng, người bạn bị bệnh đã nhiều, không thể đi lại được nữa, muốn ngồi dậy cũng phải có người nâng đỡ; có lúc anh phải “thu hết tàn lực” mới “lết dần lết dần” ra khỏi phiến nệm nằm, mà anh cảm thấy “như mình vừa bay được một nửa vòng trái đất”. Ôm nặng liệt giường đã nhiều tháng ngày, cơ thể anh bị tàn phá nặng nề “phiến lưng đã có nhiều mảng da thịt vừa chai cứng, vừa lở loét”.
Truyện Bến quê ghi lại những gì nhìn, nghe thấy, những suy ngẫm và mơ ước những quan hệ của Nhĩ khi nằm trên giường bệnh, qua 4 cảnh: Nhĩ được Liên săn sóc; Nhĩ sai thằng Tuấn đi sang bên kia sông; Nhĩ được các cháu nhỏ (Huệ, Vân, Tam, Hùng…) đến nương nhẹ, lót chăn, kê gối cho anh; ông giáo Khuyến chống gậy đi qua tạt vào hỏi thăm Nhĩ.
Cốt truyện của Bến quê rất bình dị, “bằng phẳng” nhưng lại mang hàm nghĩa triết lí sâu sắc. Qua nhân vật Nhĩ, một bệnh nhân “sắp từ giã cõi đời”, Nguyễn Minh Châu nói lên những suy ngẫm về con người, về cuộc đời và cách sống, thức tỉnh, khơi dậy ở đồng loại hãy biết nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp, những giá trị bình dị, gần gũi, quen thuộc của cuộc sống, của quê hương.
Nhĩ là một con người từng trải và có địa vị, đi rộng biết nhiều: “Suốt đời Nhĩ đã từng đi nhiều không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”: “anh đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa” mới 2 năm trước đây, anh còn đi công tác sang một nước bên Mĩ La-tinh. Có thể nói, bao cảnh đẹp những nơi phồn hoa đô hội gần xa, những miếng ngon nơi đất khách quê người, anh đều được thưởng thức, được hưởng thụ. Nhưng những cảnh đẹp gần gũi, những con người tình nghĩa thân thuộc, thân yêu nơi quê hương cho đến những tháng ngày ốm đau nằm trên giường bệnh khi sắp từ giã cõi đời, anh mới cảm thấy một cách sâu sắc, cảm động.
Hoa bằng lăng quê kiểng có gì là đẹp? Lúc mới nở “màu sắc đã nhợt nhạt”. Vòm trời và con sông Hồng, bờ bãi, bến đò… có gì xa lạ đối với nhiều người trong chúng ta, nhất là đối với Nhĩ, khi nhà anh ở gần dòng sông ấy. Sớm nay, Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ: Anh cảm thấy hoa bằng lăng trong tiết lập thu đẹp hơn, “đậm sắc lắm”. Sông Hồng “màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra”. Bãi bồi phù sa lâu đời ở bên kia sông Hồng dưới những tia nắng sớm đầu thu đang phô ra “một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”. Và bầu trời, vòm trời quê nhà “như cao hơn”.
Nhìn qua cửa sổ ngôi nhà mình, Nhĩ xúc động trước những cảnh đẹp bình dị của quê nhà. Tại sao trước đây, anh ít nhìn thấy, cảm thấy? Phải chăng vì cuộc sống bận rộn tất tả ngược xuôi? Hay tại bởi vô tình? Qua đoạn miêu tả thiên nhiên ở phần đầu truyện, Nguyễn Minh Châu muốn nhắc khẽ mọi người đừng vô tình mà phải biết gắn bó, trân trọng cảnh vật quê hương xứ sở vì những thứ đó là máu thịt, là tâm hồn của mỗi chúng ta. Phải biết phát hiện ra vẻ đẹp bình dị, thân thuộc của quê nhà để nâng niu, yêu quý.
Bị ốm đau nằm liệt giường đã lâu ngày, được vợ con săn sóc, trong lòng anh nảy nở bao ý nghĩ, bao tình cảm đằm thắm, sâu nặng, thiết tha. Nghe Liên nói: “Anh cứ yên tâm, vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được”, thì Nhĩ “lần đầu tiên để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá”. Hình ảnh người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh làm cho Nhĩ cảm động, thoáng ân hận về sự vô tình của mình: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vẫn nín thinh”.
Chưa bao giờ mà Nhĩ nghe rõ thế, những tiếng bình dị thân thương: tiếng vợ đi lại dọn dẹp và dặn dò con…, Liên hãm nước thuốc và tiếng nước rót ra lẫn mùi thuốc bắc bay vào nhà, “tiếng bước chân rón rén quen thuộc” của người vợ hiền thảo trên “những bậc gỗ mòn lõm”. Đó là tiếng lòng, tiếng thân thương, không phải lúc nào Nhĩ cũng nghe được, Nhĩ cũng cảm được!
Tuấn là đứa con trai thứ hai của vợ chồng Nhĩ và Liên. Một năm nay vắng nhà, Tuấn đi học xa, tận một thành phố phía nam và vừa mới trở về đêm qua. Bố ốm nặng, Tuấn về thăm hố, thăm mẹ và thăm nhà? Nằm trên giường bệnh ngắm con, Nhĩ xúc động “thấy càng lớn thằng con anh càng có nhiều nét giống anh”. Nhĩ sai con đi sang bên kia sông ” đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh… một lát rồi về”. Với Tuấn thì đó là “cái việc gì lạ thế” mà bố sai làm, khi cậu đang mải mê xem cuốn truyện dịch. Đứa con trai chưa hiểu được “cái điều ham muốn cuối cùng” của đời bố, mà Nhĩ muốn nói ra. Nhĩ muốn đứa con trai thân thương thay mặt mình đi dạo bước qua sông, để ngắm nhìn những cảnh vật thân quen, bình dị mà hầu như suốt cuộc đời bố đã lãng quên.
Qua khung cửa sổ ngôi nhà, Nhĩ dõi theo hình bóng đứa con đội cái mũ cói vành rộng, mặc chiếc áo sơ mi màu trứng sáo, cắp cuốn sách bên nách “đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố”. Cái say mê của con bây giờ cũng giống như cái say mê của bố ngày xưa: “Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được”. Nhĩ trầm ngâm suy nghĩ, lo lắng vẩn vơ: “Không khéo thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày”. Những trò chơi phá cờ thế, những việc làm vô vị nhạt nhẽo sẽ làm tốn mất bao thời gian, bao tâm trí, bao sức lực… Những trò chơi ấy, việc làm ấy sẽ làm cho tuổi trẻ của nhiều người “trễ mất chuyến đò trong ngày”, sẽ làm chậm bước, làm lỡ nhịp một thời trai trẻ. Bằng kinh nghiệm xương máu của mình, “Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, và lại nó đã thấy có gì đang hấp dẫn ở bên kia sông đâu?”. Ý nghĩ ấy mang hàm nghĩa một triết lí nhân sinh sâu sắc về đường đời và mục tiêu cuộc sống. Người xưa có nói: “Thế lộ nan” (Lý Bạch), “người ta đi mãi mà thành đường” (Lỗ Tấn), v.v… Con đường trong tâm thức của Nhĩ là “vòng vèo”, là “chùng chình”, vì nhiều người bị lạc đường, lạc hướng, thiếu trí tuệ, không bền chí, hay nản lòng. Tuổi trẻ và thời gian bị lãng phí. Tâm hồn nông cạn, sống thiếu lí tưởng, không có mục tiêu, tầm nhìn hạn hẹp, sao không khỏi vòng vèo, chùng chình, và sẽ không bao giờ tìm thấy cái “hấp dẫn” ở phía trước trên đường đời.
Cuộc sống và cảnh vật ở quanh ta, ở quê ta rất đẹp rất đáng yêu, đó là “sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp”, thậm chí cả “những nét tiêu xơ”, nhưng phải trải nghiệm, phải sống hết mình mới có thể khám phá, mới có thể phát hiện, mới tìm thấy. Và còn phải có một tấm lòng gắn bó yêu thương.
Có người đo tài trí, thời cơ, vận may mà thành đạt. Có người sớm phát hiện ra sự lạc hướng, lạc đường mà điều chỉnh, mà khắc phục. Có nhiều người, rất nhiều người đi suốt hành trình cuộc đời mới nhận ra cái vòng vèo, cái chùng chình, sự lạc đường, lạc hướng của mình, nhưng quỹ thời gian đã vung phí, đã gần đất xa trời… Đời người đầy bi kịch, vì thế, một con người như Nhĩ “đã từng in gót chân khắp mọi chân trời”, mãi đến lúc nằm liệt trên giường bệnh, trong những “điều riêng mới khám phá” anh cảm thấy “như một niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn” mà “lời lẽ không bao giờ giải thích hết”. Cuộc đời là một ẩn số, đường đời là một bài toán khó nên “không bao giờ giải thích hết”. Thế lộ nan, hành lộ nan là như vậy. Vì thế, phải có trí tụệ, có chí khí, giàu lòng kiên nhẫn, sống có lí tưởng đẹp, mới bớt được rủi ro, mới tránh được vòng vèo, chùng chình, thất bại.
Những cảm nhận, những suy nghĩ của Nhĩ về Liên thật sâu sắc, đầy ân tình ân nghĩa. Từ một cô gái chân quê “mặc áo nâu chít khăn mỏ quạ” rồi thành “một người đàn bà thị thành”. Thế nhưng “tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa”. Nhĩ đã trải qua những ngày tháng “bôn tẩu, tìm kiếm”, nếm trải bao ngọt bùi, cay đắng, Nhĩ “đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình”, là vợ con mình. Với Nhĩ, gia đình là bến đậu, bến tình thương, bến hạnh phúc.
Cảnh những đứa trẻ (Huệ, Vân, Tam, Hùng) xinh tươi, ngoan ngoãn, nghe Nhĩ gọi, chúng ríu rít chạy lên, xúm vào, nương nhẹ giúp anh xê dịch từ mép tấm nệm ra mép tấm phản, lấy gối đặt sau lưng Nhĩ, làm cho anh như trẻ lại “toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chăm sóc và chơi với” Hạnh phúc ở đâu, hạnh phúc đâu phải cái gì cao siêu, mà rất bình dị, rất nhỏ, có khi chỉ là một ánh mắt, một nụ cười trẻ thơ, một bàn tay nhỏ bé “chua lòm mùi nước dưa”,…
Hình ảnh ông cụ giáo Khuyến sáng nào đi qua cũng tạt vào thăm Nhĩ là một hình ảnh ân tình ân nghĩa nuôi dưỡng tâm hồn. Một câu hỏi thăm về sức khỏe, một lời an ủi, động viên ân cần: “Hôm nay ông Nhĩ có vẻ khỏe ra nhỉ?”. Còn gì cao quý hơn, ấm áp hơn, tình nghĩa hơn? Được sống trong tình yêu thương của đồng loại mới thật hạnh phúc. Và đó là sắc màu ý vị trong cuộc đời mỗi chúng ta, là “bến quê” của tâm hồn mỗi chúng ta.
Cụ Khuyến hốt hoảng khi phát hiện ra mặt mũi Nhĩ “đỏ rựng một cách khác thường”, hai mắt thì “long lanh chứa một mê say đầy đau khổ”, và mười đầu ngón lay Nhĩ “đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy”,… Đó là “chút sức lực cuối cùng còn sót lại…” của Nhĩ. Nhĩ sắp ra đi. Con đò chở khách trên sông Hồng cập bến, mang ý nghĩa một biểu tượng, con đò sẽ đưa Nhĩ tới cõi hư không của một kiếp người.
Bến quê là một truyện ngắn thấm đẫm ý vị triết lí về con người và cuộc đời. Những năm cuối đời, Nguyễn Minh Châu đã trải qua nhiều tháng ngày đau khổ. Bến quê ít nhiều mang tính tự truyện và dự báo nên rất chân thật chân thành. Bài học về tình yêu và lẽ sống được đặt ra một cách cảm động. Có gì hạnh phúc hơn khi được sống trong tình thương với gia đình, quê hương. Phải biết nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, thân thuộc của cuộc sống, của quê hương. Như thế mới thật sự hạnh phúc. Đó là tiếng lòng trang trải của Nguyễn Minh Châu.
Phân tích truyện Bến quê của Nguyễn Minh Châu làm nổi rõ những nỗi niềm, những tiếng thương làm ta xúc động- Mẫu 2
“Văn học là nhân học”- có lẽ vì thế mà những tác phẩm văn học chân chính luôn lay động được lòng người. Truyện ngắn Bến quêcủa nhà văn Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm như thế. Trong truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu- nhà văn luôn “đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người” – đã chuyển tải những chiêm nghiệm, suy nghĩ sâu sắc về con người và về cuộc đời. Nhân vật Nhĩ là nhân vật chính của tác phẩm, trong những ngày cuối đời mình, anh nhận ra vẻ đẹp của quê hương và giá trị của gia đình, đồng thời cũng chua xót nhận ra ước muốn được đặt chân lên bãi bồi quê hương của mình sẽ không bao giờ thực hiện được nữa. Những nỗi niềm, những tiếng thương trong truyện ngắn Bến quê đều chứa đựng sự trăn trở, nuối tiếc đó, đều muốn nhắn nhủ con người đừng thờ ơ với những gì gần gũi mà thiêng liêng và quý giá của mình.
Nỗi niềm của nhân vật Nhĩ được Nguyễn Minh Châu miêu tả trong một tình huống truyện rất đặc biệt, chứa đựng nhiều nghịch lý. Tình huống, hoàn cảnh đó căn bản là quá khứ và hiện tại của Nhĩ. Quá khứ: Nhĩ làm một công việc có điều kiện đi đến hầu hết mọi nơi trên trái đất, những nơi có vẻ đẹp và bao điều kỳ thú. Hiện tại: Nhĩ bị bệnh hiểm nghèo, bị liệt toàn thân, mọi sinh hoạt và cử động của anh đều phải nhờ vào vợ con, và cả mấy đứa trẻ hàng xóm. Tình huống trở nên nghịch lí là: Khi còn khỏe mạnh, Nhĩ chưa từng đặt chân đến bãi bồi bên kia sông của quê hương anh. Anh từng ngắm nhiều vẻ đẹp trên thế giới, nhưng lại không biết rằng quê hương mới là nơi đẹp nhất. Đến khi căn bệnh nặng làm cho anh nằm liệt một chỗ, thì hoàn cảnh đó lại giúp anh chiêm nghiệm, ngắm nhìn và phát hiện ra vẻ đẹp tuyệt vời này, nhưng anh không còn đủ sức để đặt chân đến, chỉ có thể khát khao một cách vô vọng. Nỗi niềm đó thật xót xa làm sao…
Nỗi niềm xúc động mà Nguyễn Minh Châu thể hiện trong bến quê chính là tình yêu quê hương sâu thẳm của Nhĩ, nó đau đáu trong những ngày cuối đời của anh. Qua khung cửa ngôi nhà nhỏ bên sông, Nhĩ nhận ra rằng trời sắp lập thu, “hoa bằng lăng đậm sắc hơn”, đó là một vẻ đẹp bình dị của cuộc sống mà có lẽ những người khác xung quanh Nhĩ không cảm nhận thấm thía bằng anh, bởi căn bệnh hiểm nghèo giúp cho Nhĩ đắm mình trong những suy nghĩ nội tâm và tận hưởng sắc mà của phong cảnh thiên nhiên. Ngắm kỹ dòng sông quê nhà, Nhĩ còn nhận thấy sông Hồng đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra và vòm trời như cao hơn. Anh còn tỉ mỉ quan sát thấy những tia nắng sớm từ từ di chuyển, vùng phù sa phô ra một màu vàng thau xen màu xanh non. Có thể nói trong truyện Bến quê, ngòi bút miêu tả của Nguyễn Minh Châu đã đạt đến đỉnh cao, khi vẽ lên bức tranh phong cảnh một vùng đồng bằng ven sông Hồng với cảnh tượng thiên nhiên gần gũi, quen thuộc mà lại tuyệt đẹp và rất giàu sức sống. Cảnh tượng kỳ diệu đó dội vào trong tâm hồn của Nhĩ, làm bùng lên một khao khát được đặt chân qua bãi bồi bên kia sông quê anh, nơi mà lúc này Nhĩ cho là đẹp nhất, tuyệt vời nhất, hơn mọi nơi trên thế giới mà anh tửng đặt chân đến. Thế đấy, người đàn ông tưởng rằng mình đã chiêm ngưỡng được những cảnh tượng đẹp nhất, lại phát hiện ra cái đẹp ở một nơi quen thuộc mà mình chưa từng đặt chân lên, và có lẽ sẽ không bao giờ đặt chân đến được. Nỗi niềm này là sự chua xót, cũng là sự thức tỉnh trong tâm hồn một con người từng trải, và thấm thía giá trị của thời gian trong chính phút giây này.
Nỗi niềm, cũng là tiếng thương kỳ diệu mà Nguyễn Minh Châu thể hiện trong tác phẩm còn là những chiêm nghiệm và phát hiện của Nhĩ trong cuộc sống gia đình. Khi còn trẻ, khỏe, Nhĩ bị lôi cuốn bởi những chân trời mới mẻ, nhiều màu sắc, có lẽ vì vậy, anh chưa hiểu hết cái quý giá của mái ấm gia đình, đơn sơ nhưng bền vững. Cũng chính vì rơi vào tình huống ốm nặng, phải nương tựa vào gia đình những ngày cuối của cuộc đời, mà Nhĩ có dịp ngắm nhìn Liên, người vợ anh gắn bó suốt bao nhiêu năm dài. Lần đầu tiên, Nhĩ nhìn thấy Liên, vợ anh mặc áo vá. Hình ảnh này cũng không có gì lạ lùng, nhưng nó lại toát lên thật nhiều niềm thương yêu và xót xa trong lòng Nhĩ. Xa cách gia đình bao lâu để đến những vùng đất lạ, khi trở về gia đình, Nhĩ vẫn nhận thấy nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng, hi sinh của Liên. Anh tìm được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày kiệt quệ vì bệnh tật. Đó chính là giá trị đích thực của mái ấm gia đình mà trong những ngày khỏe mạnh, thành đạt, có thể Nhĩ vô tình chưa để ý đến. Nhĩ nhận ra giá trị tốt đẹp đó với lòng biết ơn sâu sắc dành cho vợ, cho gia đình, và cho cả những người hàng xóm tốt bụng. Mỗi một con người đều có những tình thương quý giá đó bên mình, nhưng để thấm thía hết giá trị của nó không phải dễ, và có khi người ta nhận ra được giá trị đó cũng chính là lúc con đường đời đã sắp đến điểm cuối như Nhĩ.
Sự xúc động của truyện Bến quê không nằm ở bi kịch của một người đau ốm, tuyệt vọng vì cái chết trước mặt, mà nó lại nằm ở sự thức tỉnh con người về những chân lý cuộc sống. Nhà văn muốn chuyển tải thông điệp: con người ta, trên đường đời, khó tránh khỏi những điều vòng vèo và chùng chình. Rồi bỏ lỡ những điều ý nghĩa nhất. Nhĩ muốn thức tỉnh mọi người về những điều đó, để con người khỏi sa vào những điều vòng vèo ấy, và biết hướng tới những giá trị gần gũi nhưng đích thực, bền vững trong cuộc sống. Đó có thể là sự trân trọng quê hương và gia đình mình, có thể là sự nhận biết về những điều thực sự quý giá nhất của mỗi con người.Ở cuối câu chuyện, tác giả Nguyên Minh Châu miêu tả chân dung và cử chỉ của Nhĩ thật khác thường: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng, hai mắt long lanh, hai bàn tay bấu chặt vào bậu cửa và run rẩy. Anh đang cố thu nhặt hết chút sức lực cuối cùng để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay làm ra vẻ ra hiệu cho một người nào ngoài đó”. Chi tiết này giúp cho chúng ta thấy được diễn biến tâm trạng Nhĩ. Trước giây phút rời xa cuộc đời, Nhĩ muốn thức tỉnh con trai anh nói riêng, thức tỉnh mọi người nói chung về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời, để ta có thể dứt ra khỏi chúng, để hướng tới những giá trị đích thực, giản dị và bền vững thật sự trong cuộc đời. Người con trai đang bị cuốn hút vào bàn cờ thế trên vỉa hè kia chưa biết được rằng, vì lỡ chuyến đó cuối sang sông, mà anh có thể bỏ lỡ dịp để đặt chân lên một vùng bãi bồi tuyệt đẹp của quê hương, bỏ lỡ cơ hội giúp cho người cha đau ốm thực hiện ước mơ cuối cùng của mình.
Và có lẽ con người chúng ta khó mà tránh được những điều chùng chình, vòng vèo trong cuộc sống của bản thân ta. Nhĩ hiểu rõ người con trai của mình, vì bản thân anh đã trải qua những điều đó. Những niềm nuối tiếc và sự xót xa của mỗi người thôi thúc chúng ta cố gắng sống tốt, trân trọng và nâng niu những giá trị thân thương của quê hương và gia đình, để không phải ân hận vì mình đã bỏ lỡ.
Với ngòi bút viết truyện giàu tính trữ tình, nhịp điệu câu chuyện chậm và suy tư, cốt truyện xây dựng khá đơn giản, Nguyễn Minh Châu đã khắc họa Nhĩ là một nhân vật tư tưởng, đặt Nhĩ trong tình huống đối lập, thể hiện tâm trạng anh bằng nhiều hình ảnh giàu tính biểu tượng. Qua đó, những nỗi niềm, những tiếng thương của câu chuyện làm cho ta xúc động sâu xa. Bởi mỗi chúng ta đều có những hạnh phúc, những giá trị đích thực trong cuộc sống của mình. Tác phẩm nhắn nhủ ta thêm yêu quê hương, gia đình mình, và cố gắng trân trọng tất cả những điều bình dị mà quý giá đó, không bỏ lỡ để rồi xót xa nuối tiếc khôn nguôi…
Kết luận
Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách ” Phân tích truyện Bến quê của Nguyễn Minh Châu làm nổi rõ những nỗi niềm, những tiếng thương làm ta xúc động” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.
Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 11/2024!