Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương” chuẩn nhất 12/2024.
A. Sơ đồ gợi ý
B. Dàn bài chi tiết
1. Mở bài
- Giới thiệu nhân cách phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
- Nêu vấn đề nghị luận: Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
2. Thân bài
a. Nêu khái quát về bài thơ
- Viếng Lăng Bác được nhà thơ Viễn Phương sáng tác năm 1976 khi ông được vinh dự cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thủ đô Hà Nội viếng lăng Bác sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất và lăng Bác vừa được hoàn thành.
b. Phân tích khổ thơ cuối
- Niềm thương cảm lớn lao: Mai về miền Nam thương trào nước mắt
- Một tiếng “thương” của miền Nam là trọn vẹn tình cảm của người miền Nam đối với Bác. Thương là yêu là kính yêu là quý trọng cả cuộc đời cao thượng vĩ đại của Bác đã dành hết cho dân cho nước cho sự nghiệp giải phóng dân tộc:Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
- Thương là xót xa vì nỗi đau mất mát đi người cha già kính yêu, nỗi đau ấy trào dâng thành nước mắt, mà cả dân tộc Việt Nam không kiềm lại được. Nỗi đau niềm thương tiếc của nhân dân Việt Nam đối với Bác làm cảm động cả tấm lòng trời đất khi:
- Một tiếng “thương” của miền Nam là trọn vẹn tình cảm của người miền Nam đối với Bác. Thương là yêu là kính yêu là quý trọng cả cuộc đời cao thượng vĩ đại của Bác đã dành hết cho dân cho nước cho sự nghiệp giải phóng dân tộc:Bác để tình thương cho chúng con
Suốt mấy đêm dài đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa
- Nguyện ước của tác giả
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
3. Kết bài
- Nêu cảm nhận của bản thân về khổ thơ
- Gợi mở vấn đề.
Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- Mẫu 1
Khổ cuối của bài thơ Viếng lăng Bác là cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Nhà thơ lưu luyến muốn được ở mãi bên lăng Bác. Lòng nhớ thương, đau xót kìm nén đến giờ phút chia tay đã vỡ òa thành nước mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Nếu ở những khổ thơ trước đó, Viễn Phương bày tỏ sự tiếc thương thì ở khổ thơ này, nỗi niềm xúc động đã tuôn trào thành những dòng nước mắt. Ông còn lưu luyến, bịn rịn khi sắp phải rời xa Bác, rời xa vị cha già của dân tộc. Tình cảm chắp cánh cho ước mơ, nhà thơ muốn được hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật ở bên lăng Bác:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Nhà thơ muốn được hóa thân làm con chim hót, làm đóa hoa tỏa hương, làm cây tre trung hiếu để được dâng hiến những gì tốt đẹp nhất cho Bác và cho đất nước. Hình ảnh cây tre lặp lại tạo ấn tượng đậm nét và làm cho dòng cảm xúc được trọn vẹn. Cậy tre khách thể đã hòa nhập cùng cây tre chủ thể. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện lòng kính yêu và trung thành vô hạn đối với Bác, mãi mãi đi theo con đường của Bác. Các điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh thơ đứng sau nó tạo một nhạc thơ dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm, khát vọng dâng trào mãnh liệt. Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách của không gian nhưng lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Đây cũng là những tình cảm chân thành của mỗi người khi vào viếng Bác, nhất là những người con miền Nam vốn xa cách về không gian, của cả những ai chưa được đến lăng Bác nhưng lòng vẫn thành tâm hướng về Người.
Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- Mẫu 2
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
Những câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang là những nét vẽ tài hoa về nhân cách phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Dân tộc Việt Nam mãi mãi tự hào vì có một vị cha già kính yêu cả cuộc đời đã hiến dâng cho non sông đất nước. Tri ân người rất nhiều văn nghệ sĩ đã có những vần thơ đẹp ca ngợi Bác. Trong đó bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương chính là tấm lòng thầm kính ngưỡng vọng là nén tâm hương mà nhà thơ ngưỡng vọng dâng lên Bác kính yêu. Bài thơ kết thúc với dòng cảm xúc:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Bài thơ Viếng lăng Bác được Viễn Phương sáng tác trong dịp tác giả đến thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của Bác Hồ. Bài thơ thể hiện niềm xúc động chân thành, lòng yêu kính, biết ơn sâu sắc và nỗi niềm thương nhớ Bác Hồ của nhà thơ khi được đến viếng lăng Bác. Đến khổ cuối của bài thơ Viễn Phương đã bộc lộc niềm lưu luyến tiếc thương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam.
Thương là xót xa vì nỗi đau mất mát đi người cha già kính yêu, nỗi đau ấy trào dâng thành nước mắt, mà cả dân tộc Việt Nam không kiềm lại được. Nỗi đau niềm thương tiếc của nhân dân Việt Nam đối với Bác làm cảm động cả tấm lòng trời đất khi:
Suốt mấy đêm dài đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa
Trong phút giây xúc động thiêng liêng, đứng trước sự vĩ đại sự hi sinh, lòng tận tụy của Người khiến nhà thơ xúc động tự nguyện muốn dâng hiến cuộc đời mình:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Chân bước đi mà lòng còn ngoảnh lại, lưu luyến không muốn rời,sức mạnh giá trị đạo đức Hồ Chí Minh níu kéo lòng người ở lại. Điệp ngữ “muốn làm” lặp đi lặp lại đã diễn tả tâm trạng vừa lưu luyến nhưng cũng đầy ước nguyện. Nhà thơ nguyện ước làm con chim hót góp tiếng hát mang niềm vui đến cho Bác mỗi ngày, làm đóa hoa tỏa hương sâu sắc tô điểm cho cuộc sống đặc biệt làm “cây tre trung hiếu” chốn này, đứng cạnh mãi bên người, canh từng giấc ngủ cho người. Cũng là lời hứa nguyện sống xứng đáng với lời dạy của Người. Viễn Phương đã nói lên niềm mong ước của mình cũng như ước nguyện của tất cả mọi người dân Việt Nam muốn được gần bên Bác và lớn lên một chút:
Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn lên ở bên Người một chút
Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- Mẫu 3
Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, là người cha già kính yêu mãi sống trong trái tim của hàng triệu người dân Việt Nam cho dù người đã đi xa. Viết về Bác, có rất nhiều các nhà thơ, nhà văn đã bày tỏ nỗi niềm xúc động, tình yêu thương vô vàn với Người. Một trong số những bài thơ nổi bật viết về chủ tịch Hồ Chí Minh phải kể tới bài thơ “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương – một bài thơ thể hiện sự xúc động mạnh mẽ của một người con miền Nam lần đầu được đến thăm lăng Bác. Đặc biệt ở khổ thơ cuối, nhà thơ đã cho thấy những cảm xúc khi kết thúc chuyến hành trình thăm lăng Bác, lưu luyến xót xa khi phải rời xa Người để trở về miền Nam:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Khổ thơ là những nỗi niềm, là sự không nỡ chia xa của tác giả khi đến thăm lăng Bác:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Từ “thương” ở đây thật đặc biệt, nó thể hiện thật trọn vẹn tình cảm của nhân dân miền Nam dành cho Bác – một tình cảm yêu quý, kính trọng một Người đã dành cả cuộc đời mình để lo cho nước, cho dân, để sự nghiệp giải phóng dân tộc thắng lợi:
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Từ “thương” ấy còn thể hiện một sự xót xa, đau đớn đến khôn nguôi của tác giả cũng như là của toàn thể người dân Việt Nam. Chúng ta đã mãi mãi mất đi người cha già kính yêu của dân tộc, nỗi đau đớn ấy đã bị tác giả kìm nén suốt hành trình đến thăm Người. Thế nhưng giờ đây, trong giây phút chuẩn bị chia xa thì tác giả đã “trào nước mắt” bởi mọi sự dồn nén bấy lâu nay đã trào dâng và tuôn ra. Chỉ bằng một câu thơ ngắn với vỏn vẹn tám chữ thế nhưng nhà thơ Viễn Phương đã bộc lộ ra hết những tình cảm chân thành, những nỗi xót thương vô hạn với Người đã được kìm nén tới tận giây phút chia tay.
Không chỉ bày tỏ cảm xúc xót thương, nghẹn ngào một cách thuần tuý, khổ thơ còn là những ước nguyện nhỏ bé của tác giả:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Trong giờ phút sắp phải chia xa cùng với những cảm xúc mãnh liệt trong lòng mình, tác giả đã mong muốn được hoá thân thành những sự vật quanh lăng để mãi được ở bên Người. Cách sử dụng điệp từ “muốn làm” cùng với việc hoá thân thành con chim, đoá hoa, cây tre được sử dụng đầy khéo léo và có ý đồ. Tất cả những câu thơ ấy đã thể hiện một ước nguyện đầy tha thiết của tác giả. Viễn Phương chẳng mong cầu một điều gì quá lớn lao mà chỉ mong được bên bác mỗi ngày, trở thành những loài cây, loài chim âm thầm, lặng lẽ ở bên để chăm lo cho giấc ngủ bình yên của Người, để đền đáp lại công ơn của Bác Hồ.
Tác giả muốn trở thành “con chim” để hót quanh lăng, tiếng chim ấy như những lời cảm ơn, lời tri ân của toàn thể nhân dân Việt Nam muốn gửi tới Bác. Cánh chim ấy cũng thể hiện cho sự tự do, hoà bình, là khát vọng mà Người hằng mong mỏi. Tác giả chẳng mong lớn lao như được làm ánh mặt trời ngày ngày tỏa sáng nơi đây mà chỉ mong làm một cánh chim nhỏ bé, nhưng lại mạnh mẽ và kiên cường. Nhà thơ còn mong được trở thành những “đóa hoa” để “toả hương đâu đây”. Như chúng ta đã biết, sinh thời Bác rất yêu hoa nên nhà thơ mong muốn được hoá thân thành sự vật quen thuộc với Bác. Tác giả không mong hóa thành những cây hoa, rừng hoa mà chỉ mong trở thành một đoá hoa nhỏ trong khu vườn tràn ngập màu sắc ấy. Dẫu cho chỉ là một đóa hoa nhưng luôn được tỏa hương thơm ngát, làm đẹp thêm cho cuộc sống này. Cuối cùng, tác giả mong được trở thành “cây tre trung hiếu chốn này”. Nhà thơ đã rất khéo léo sử dụng kết cấu đầu cuối trong bài thơ của mình. Mở đầu là hình ảnh của “hàng tre bát ngát” và cuối bài là “cây tre trung hiếu”. Cùng với việc mong trở thành con chim, đoá hoa, thì nhà thơ còn có một ước mong được trở thành cây tre ở bên lăng Bác, giữa hàng triệu những cây tre khác ở đây. Đây cũng có thể là một hình ảnh đại diện cho những người con đất Việt, những người sẽ luôn đoàn kết với nhau, kiên cường để cùng nhau bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Những ước muốn của nhà thơ Viễn Phương tuy nhỏ bé nhưng cũng thật sâu sắc. Những ước muốn ấy cũng là niềm mong mỏi của những người con miền Nam cũng như của toàn thể người dân Việt Nam.
Bằng việc sử dụng ngôn từ một cách khéo léo, tài tình cùng những hình ảnh thơ giản dị, thân thuộc, khổ thơ cuối của bài thơ “Viếng lăng Bác” đã để lại trong lòng người đọc những xúc cảm mạnh mẽ nhất. Đó là một sự tiếc nuối, sự bâng khuâng của tác giả cũng như của những người dân Việt Nam. Cho dù Bác đã ra đi mãi mãi, thế nhưng hình ảnh Bác vẫn luôn sống mãi trong trái tim của người dân Việt Nam.
Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- Mẫu 4
Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều những tác phẩm viết về Bác Hồ, có thể nói tới những câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang viết về nhân cách và phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh:
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
Dân tộc Việt Nam luôn biết ơn, luôn kính trọng và luôn tự hào về vị cha già kính yêu đã dành cả cuộc đời mình cho non sông, đất nước, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Và để tri ân tới những công lao to lớn của Người có rất nhiều những vần thơ đẹp. Một trong số đó phải kể tới bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương – bài thơ ghi lại cảm xúc của tác giả trong lần đầu tiên được từ miền Nam ra Hà Nội để đến thăm Bác Hồ. Đặc biệt, khổ thơ kết của bài thơ là những cảm xúc mãnh liệt nhất của tác giả được dâng trào, là những nỗi niềm lưu luyến khi phải xa Bác để trở về miền Nam:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Câu đầu tiên của khổ thơ, tác giả đã thể hiện một nỗi niềm xót thương, lưu luyến đến vô hạn khi mà sắp phải rời xa nơi đây:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Câu thơ nhơ một lời chào với Bác Hồ của tác giả, một lời tạm biệt thật giản dị nhưng đầy sâu lắng, thiết tha. Từ “trào” được tác giả sử dụng trong câu thơ đã khiến người đọc cảm nhận được những cảm xúc mãnh liệt, những sự lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa Bác Hồ. Tâm trạng ấy không phải chỉ của riêng tác giả mà là của mọi trái tim Việt Nam khi tới thăm lăng Bác.
Tiếp sau đó, nhà thơ đã thể hiện mong ước của mình được trở thành những sự vật ở bên lăng Bác:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Những mong ước của tác giả thật rất đỗi bình dị, ông chỉ mong được hoá thành những chú chim nhỏ để dâng tiếng hót vui quanh lăng, muốn trở thành một đoá hoa giữa vườn hoa muôn sắc để toả hương thơm ngát, muốn trở thành cây tre trung hiếu bên lăng để canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Điệp ngữ “muốn làm” cùng với những hình ảnh, sự vật thân thuộc mà nhà thơ muốn hóa thành đã thể hiện những ước muốn đầy mãnh liệt, thiết tha của tác giả. Những ước muốn ấy không chỉ của riêng nhà thơ mà còn là mong ước của tất cả nhân dân miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam đối với Bác.
Đặc biệt, ước mong được trở thành cây tre bên cạnh lăng để canh giữ giấc ngủ của Bác là một ước nguyện thật đặc biệt. Cây tre trung hiếu ấy là một hình ảnh ẩn dụ cho lòng kính yêu, sự biết ơn vô hạn của toàn thể nhân dân Việt Nam với Bác. Ước mong ấy cũng như một lời khẳng định rằng nhà thơ cũng như toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ mãi đi theo con đường cách mạng của Người để bảo vệ nền độc lập, tự do cho Tổ quốc. Hình ảnh cây tre xuất hiện ở câu thơ cuối cùng cũng tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng cho bài thơ khi mở đầu là “hàng tre bát ngát” và kết thúc là “cây tre trung hiếu”. Hình ảnh ấy đã tạo nên những ấn tượng sâu sắc cho người đọc cũng như làm cho dòng cảm xúc của tác giả trở nên trọn vẹn.
Khổ thơ cuối của bài thơ “Viếng lăng Bác” đã diễn tả nỗi niềm riêng của tác giả nhưng những nỗi niềm ấy lại mang tình cảm khái quát chung. Tác giả đã diễn tả khát vọng của bản thân cũng như khát vọng của những người dân Việt Nam khác luôn hướng về Người – về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta.
Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- Mẫu 5
Mong nhớ bao năm, nay mới có dịp được vào thăm lăng Bác, nhà thơ chất chứa biết bao tâm tư, tình cảm. Cuộc viếng thăm ngắn ngủi đã làm cho nhà thơ vô cùng xúc động và lưu luyến. Khổ thơ thứ tư thể hiện tâm trạng hoài niệm của nhà thơ, muốn được ở mãi bên lăng Bác.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Bài thơ “Viếng lăng Bác” như một lời tiễn biệt. Từ ngữ đơn giản nhưng lại thể hiện tình cảm sâu sắc. Từ “trào dâng” thể hiện tình cảm mãnh liệt, niềm mong mỏi, nỗi nhớ không muốn rời xa nơi Bác ở. Nhà thơ muốn ở trong hình ảnh của Bác, gợi lại bao kỉ niệm và lòng kính trọng. Đó cũng là tâm trạng của hàng triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau với tác giả. Gần bên bạn dù chỉ trong giây lát nhưng chúng tôi không bao giờ muốn rời xa bạn vì bạn thật ấm áp và vĩ đại.
Mong ước chân thành của Viễn Phương là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần được gặp Bác Hồ. Biết được điều này, nhà thơ đành phải rời Lăng Bác để trở về miền Nam, tiếp tục sứ mệnh cùng nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người cha già với bao ước vọng được ở lại gắn bó cuộc đời mình với cuộc sống vĩ đại của dân tộc:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Tác giả “muốn làm con chim hót” dâng lên khúc hát ru cho Bác Hồ ngủ. Đó là âm thanh của thiên nhiên, rất đẹp và trong lành; “muôn loài hoa” tỏa hương thơm cao quý nơi Bác yên nghỉ, góp sắc, góp hương cho muôn ngàn loài hoa khác trong vườn hoa Tổ quốc; “Muốn làm cây tre trung hiếu” bên lăng Bác, trở thành người chiến sĩ trung thành mãi mãi canh giấc ngủ của Bác.
Điệp ngữ “muốn làm” được lặp lại nhiều lần trực tiếp và gián tiếp thể hiện tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với Bác Hồ kính yêu, vị cha già vĩ đại của dân tộc, thể hiện nỗi nhớ nhung da diết lời chúc chân thành của tác giả.
Hình ảnh cây tre mở đầu bài thơ rồi khéo léo khép lại bài thơ. Hình ảnh cây tre là biểu tượng cho tinh thần chiến đấu anh dũng, bất khuất, sức sống kiên cường, bền bỉ của dân tộc. “Muốn làm cây tre” là mong muốn được hóa thân thành một phần thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời, cũng là lời hứa và quyết tâm của tác giả tiếp tục thực hiện Di chúc của Bác Hồ: xây dựng và bảo vệ đất nước bền vững trong thời kỳ mới.
Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- Mẫu 6
Bác Hồ, vị cha già kính yêu của dân tộc, luôn là niềm tự hào của hàng triệu người dân Việt Nam. Dù đã đi xa nhưng Bác vẫn sống mãi trong lòng mọi người, trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho văn học. Viết về Bác Hồ, bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương nổi bật với tình cảm, sự kính trọng của nhà thơ đối với vị cha già dân tộc. Phân tích khổ thơ cuối bài thơ “Viếng Bác” ta sẽ thấy được tâm nguyện nhỏ bé của tác giả đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhà thơ Viễn Phương (1928 – 2005) tên thật là Phan Thanh Viễn, sinh ra và lớn lên tại An Giang. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ông hoạt động tích cực ở chiến trường Nam Bộ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông không chỉ là người lính mà còn là cây bút sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam. Năm 1952, khi miền Nam tổ chức giải tổng kết văn học nghệ thuật, bản hùng ca Chiến thắng vì hòa bình của nhà thơ đã đoạt giải nhì. Sau này, chi hội văn nghệ phía Nam được thành lập, Viễn Phương được bầu vào Ban chấp hành. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu của ông như: “Như mây xuân, “Anh hùng mìn gạt”, “Lòng mẹ”,… Sinh ra và lớn lên ở miền Tây sông nước thơ mộng, Viễn Phương cũng để lại những dấu ấn riêng – Phong cách và tâm hồn của nơi đây.Tác phẩm của ông tràn đầy cảm xúc nhưng không u uất.Thơ của ông tràn đầy cảm xúc,thì thầm,bâng khuâng,như một người bạn.Tác phẩm của ông tràn đầy cảm xúc,thì thầm với người đọc.Chính vì thế mỗi tác phẩm của ông đều được yêu mến và đánh giá cao bởi độc giả.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được Viễn Phương sáng tác vào tháng 4 năm 1976, khi đất nước vừa giành được thắng lợi vẻ vang trước đế quốc Mỹ. Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, Lăng Bác được hoàn thành, ông vinh dự cùng đoàn đại biểu miền Nam ra Hà Nội viếng lăng Bác. Tác phẩm được in trong tập thơ Như mây xuân, xuất bản năm 1978.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” là tình cảm không nguôi của Viễn Phương đối với vị cha già dân tộc. Đó là những cảm xúc mạnh mẽ khi đứng trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng; trước đoàn người vào lăng viếng Bác; Khi vào lăng thấy di hài Bác. Và cuối cùng, khổ thơ cuối là những cảm xúc lắng đọng trước lúc ra đi. Đây cũng là khổ thơ thể hiện mong ước nhỏ nhoi của nhà thơ là được ở bên Bác, không muốn xa rời:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Trước hết, khổ thơ thể hiện niềm tiếc thương vô hạn của tác giả khi phải chia tay Bác:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Tiếng Việt rất phong phú. Từ “thương” có lẽ là một từ đặc biệt mà không một ngôn ngữ nào có thể cắt nghĩa hay giải thích được. Chỉ với một từ “thương” mà tình cảm của đồng bào miền Nam đối với Bác đã được thể hiện trọn vẹn. Đó chính là lòng kính yêu, sự kính trọng đối với cuộc đời cao cả, vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho dân, cho nước, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là sự hy sinh quên mình của người cha già trầm lặng:
“Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son”
Đó cũng là nỗi xót xa, xót xa của tác giả nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Giờ đây, chúng con đã vĩnh viễn mất đi người cha già kính yêu. Nỗi đau ấy, sau được kìm nén trong hành trình về với Bác, giờ lại “ứa nước mắt” khi chia tay. Mọi đau buồn dồn nén, trào dâng. Và không chỉ người buồn, dường như đất trời cũng rung chuyển:
“Suốt mấy đêm dài đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa”
(Tố Hữu)
Chỉ với một câu thơ 8 chữ nhưng tình cảm của nhà thơ Viễn Phương đã được bộc lộ hết sức chân thành. Là nỗi buồn vô hạn mà sau khi kìm nén lại rơi nước mắt lúc chia tay.
Không chỉ bày tỏ tình cảm của mình, tác giả Viễn Phương còn bày tỏ mong ước nhỏ nhoi của mình là được ở bên Bác:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến, nỗi xúc động nghẹn ngào của nhà thơ khiến tác giả muốn hóa thân để được ở bên bạn mãi mãi. Ở đây, tác giả đã ba lần liên tiếp dùng từ “muốn làm”. Cùng với đó, hình ảnh chim muông, hoa lá, cây tre được lồng ghép và sử dụng có mục đích. Tất cả đã nói lên ước nguyện tha thiết của nhà thơ. Nó muốn Bác yên nghỉ, còn tôi muốn đền đáp công ơn trời biển. Tác giả không mong ước điều gì quá lớn lao, mà chỉ muốn được ở bên Bác hàng ngày, trở thành con chim, cành tre lặng lẽ, âm thầm. Điều này đã thể hiện sự hiểu biết của tác giả về Bác Hồ.
Tác giả muốn làm một “con chim” hót quanh lăng Bác. Tiếng chim ấy sẽ như lời yêu thương của những người Việt Nam luôn sát cánh, bầu bạn với bạn. Con chim ấy cũng chính là con chim của tự do, hòa bình chứng tỏ tuổi thơ của Bác luôn khao khát độc lập. Không ước mình là mặt trời, là một điều gì to lớn, mà chỉ là một chú chim không biết mệt mỏi, nhỏ bé nhưng mạnh mẽ và kiên cường.
Tác giả cũng mong muốn mình là một “bông hoa” luôn “nở mọi nơi”. Sinh thời, Bác rất yêu hoa. Và dường như hiểu được suy nghĩ này, nhà thơ Viễn Phương mong muốn được là hiện thân của điều thân thuộc và ý nghĩa ấy. Không làm bông hoa, nhành hoa mà chỉ ước mình là một “bông hoa” giữa rừng hoa tươi đẹp. Loài hoa đó thậm chí không có tên gọi, màu sắc, hương thơm cụ thể. Chỉ là loài hoa không tên, nhưng luôn thơm ngát, làm đẹp cho đời. Tác giả dường như muốn nhấn mạnh rằng con người Việt Nam không phân biệt dân tộc, giới tính, nghề nghiệp đều cao đẹp và đáng được trân trọng.
Ở đây, tác giả đã sử dụng cấu trúc câu đầu tiên cho bài thơ. Mở đầu là “hàng tre bát ngát”, kết thúc là “cây tre trung hiếu”. Như con chim và bông hoa, tác giả vẫn chỉ ước mình là “cây tre chung thủy ở đây” giữa hàng triệu cây tre khác. Nhân dân Việt Nam sẽ luôn sát cánh, đoàn kết, kiên cường trước mọi biến đổi. Đó cũng là tâm nguyện của Bác Hồ khi Người còn sống. Những mong ước nhỏ nhoi đó của tác giả Viễn Phương vừa chân thành vừa sâu sắc. Đó cũng là tình cảm, nguyện vọng của hàng triệu người dân miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trước khi rời Lăng Bác sau khi vào viếng Người.
Bằng ngôn ngữ giàu cảm xúc và những hình ảnh tiêu biểu, khổ thơ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác” đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc mạnh mẽ. Đó là những tiếc nuối, xót xa và ước nguyện đau đáu của tác giả – cũng là ước nguyện của hàng triệu người dân Việt Nam với Bác Hồ. Có hàng nghìn bài thơ viết về Bác nhưng Viễn Phương với những vần thơ Bác dịu dàng vẫn giữ một vị trí không thể thay thế, làm đẹp thêm kho tàng văn học viết về Bác.
Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- Mẫu 7
Viễn Phương là một cây bút có mặt sớm của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Ông có đóng góp to lớn cho sự nghiệp văn chương của nước nhà với nhiều tác phẩm đặc sắc. Tiêu biểu phải kể đến bài thơ “Viếng lăng Bác”. Và khổ thơ cuối, đã bộc lộ chân thực tâm trạng người con khi phải nói lời tạm biệt cha:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Lúc này tác giả đang đứng trước lăng, vẫn đang bên Bác, nhưng dường như nỗi nhớ càng lớn thêm khi nghĩ đến việc ngày mai phải chia xa người cha vĩ đại của dân tộc. Vì biết phải rời xa Bác, nên nỗi buồn ngập tràn trong lòng thi nhân. Tác giả đã trực tiếp bày tỏ tình cảm của mình qua cụm từ “thương trào nước mắt”. Nỗi niềm nhà thơ dành cho Bác không thể diễn tả thành lời, bùi ngùi mà rơi những giọt nước mắt. Đó là giọt nước mắt đau lòng của người con quá yêu và thương Bác. Tình cảm của tác giả quá lớn mà hóa thành những ước nguyện dẫu tưởng chừng phi lí: làm chim, làm hoa, làm cây tre:
“Muốn làm con chim hót quanh Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Bằng việc sử dụng điệp ngữ “muốn làm”, tác giả đã nhấn mạnh những khát khao chân thành của mình: mong làm chú chim trên bầu trời tự do để ngày ngày ca vang lời yêu Bác sâu đậm; mong được làm “bông hoa tỏa hương thơm” để làm say lòng người. Đặc biệt, chúng ta càng thấy thấm thía tấm lòng của tác giả qua một ao ước chân thành, giản dị: làm “cây tre trung hiếu”. Nhà thơ muốn nhập vào hàng tre xanh trước lăng để ngày ngày tỏa bóng mát. Không chỉ vậy, ước nguyện muốn làm cây tre còn thể hiện khát vọng được ở bên canh giấc ngủ ngàn thu cho Người, được bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với vị cha già của dân tộc. Ước ao được làm “cây tre trung hiếu” ở cuối khổ thơ đã tạo nên một kết cấu tương ứng cho cả bài thơ. Hình ảnh cây tre với những đức tính tốt đẹp mở đầu và cũng kết thúc bài thơ một cách thật tự nhiên. Cây tre mang bao vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam muôn đời. Khổ thơ cuối khép lại lắng đọng thật nhiều cảm xúc của tác giả. Ước nguyện chân thành của Viễn Phương khiến ta nhớ đến lời thơ của Thanh Hải trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Nếu Thanh Hải nguyện ước được làm một tiếng chim, một cành hoa để góp phần điểm tô cho vẻ đẹp của mùa xuân đất nước thì Viễn Phương lại muốn hóa thân vào cảnh vật để bên Bác suốt đời.
Với việc sử dụng phép tu từ điệp ngữ kết hợp cùng những hình ảnh thơ giàu sức biểu cảm, Viễn Phương đã cho người đọc cảm nhận được tình cảm chân thành, thiết tha dành cho Bác. Những ước nguyện chân thành đó dành không chỉ là tấm lòng của tác giả mà đó là của cả dân tộc Việt Nam dành cho vị cha già kính yêu muôn đời.
Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- Mẫu 8
Bài thơ Viếng lăng Bác đã thể hiện nỗi niềm xúc động, lòng biết ơn sâu sắc của Viễn Phương – một nhà thơ miền Nam lần đầu ra Hà Nội và hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác. Cấu trúc của bài thơ như một hành trình miêu tả khoảnh khắc khi tác giả đứng trước lăng, khi xếp hàng và khi đứng trước di hài của Bác. Khổ thơ kết thúc bài thơ là một dấu lặng kết thúc hành trình ấy, bộc lộ niềm lưu luyến của Viễn Phương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Dòng thơ đầu tiên cất lên bỗng trào dâng mãnh liệt cảm xúc nghẹn ngào, như rưng rưng hàng lệ nơi khóe mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Chỉ một chữ “thương” quen thuộc gắn với câu nói của người miền Nam mà như gói trọn biết bao thương yêu, xót xa và kính trọng. Câu thơ cất lên mà như nghẹn lại, xót xa đến vô cùng.
Tiếc nuối có, thương nhớ có, bởi vậy mà nhân vật trữ tình giã biệt mà vẫn khắc khoải bịn rịn, bày tỏ ước nguyện cá nhân:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Điệp ngữ “muốn làm” được nhắc đi nhắc lại đến ba lần cùng nhịp thơ dồn dập thể hiện khao khát chân thành, tha thiết của tác giả. Muốn làm con chim, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu, tất cả đều là những sự vật đời thường giản dị, gắn liền với thiên nhiên gần gũi. Muốn làm con chim để để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cuộc đời, đặc biệt là cây tre gần gũi ẩn dụ cho vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người Việt. Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được nhấn mạnh với kết cấu đầu cuối tương ứng như một lời thề sắt son của nhà thơ nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung nguyện đi theo con đường của Bác. Mai trở về miền Nam nhưng tấm lòng chân thành đã được gửi lại trọn vẹn nơi lăng Bác. Ba câu thơ khuyết chủ ngữ ấy như là lời thay mặt cho triệu triệu đồng bào Việt Nam bày tỏ cảm xúc thành kính, tha thiết tới lãnh tụ.
Cả bài thơ là tiếng lòng của người con ra thăm lăng Bác, đặc biệt cảm xúc ấy được kết tinh trong khổ thơ cuối. Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt Nam ta nói chung. Ước nguyện cao đẹp được hóa thân để được bên Bác cũng là ước nguyện đẹp nhất, chất chứa trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta.
Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- Mẫu 9
Bài thơ Viếng lăng Bác được sáng tác năm 1976 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước được thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành. Tác giả ra thăm miền Bắc vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ chính là niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác.
Sau bao nhiêu cảm xúc của một người con lần đầu ra thăm người cha của mình thì giờ đây đã đến lúc phải rời xa. Cảm xúc ấy của nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện qua khổ thơ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác” với bao ước muốn thành kính.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Là một câu thơ mà cũng là một lời giã biệt của người con khi phải xa cha lần nữa. Lời giã biệt ấy thật nghẹn ngào sâu lắng. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm của nhà thơ dành cho Bác cũng như của tất cả mọi người khi phải rời lăng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đó là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Nhưng dù muốn hay không thì giây phút ngắn ngủi được gặp Bác cũng vô cùng thiêng liêng. Đã đến lúc dòng người vào lăng viếng Bác phải ra về.
Trong niềm xúc động nghẹn ngào đó là những ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa được một lần gặp Bác:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Những ước nguyện của nhà thơ thật đáng quý biết bao! Nhà thơ muốn làm con chim hót để mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với nơi Bác nghỉ. Tác giả muốn làm một đóa hoa tỏa hương thơm thanh cao. Muốn làm một cây tre trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh cây tre quả thật là một hình ảnh đẹp và được khép lại rất khéo ở cuối bài thơ. Ở đầu bài thơ, nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, đó là hình ảnh khi tác giả nhìn thấy khi vào lăng.
Đó cũng là hình ảnh biểu tượng cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Cây tre như người lính trung thành, hàng ngày, ngày đêm vẫn đứng ở đó. Hình ảnh cây tre đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Điệp từ “Muốn làm” được nhắc lại ba lần biểu cảm trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến, ước muốn và sự tự nguyện chân thành của tác giả. Ước nguyện đó được bộc lộ ra từ tận sâu đáy lòng của nhà thơ Viễn Phương.
Khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác là tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn ở mãi ở bên lăng Bác không muốn rời xa nơi Bác yên nghỉ. Đồng thời là niềm nguyện ước của Viễn Phương muốn sống một cuộc đời đẹp đẽ để trở thành những bông hoa dâng lên Bác.
Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- Mẫu 10
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam thường nói “Miền Nam trong trái tim” hẹn ngày thống nhất Bác sẽ vào thăm. Vậy mà khi miền Nam giải phóng, nước nhà thống nhất thì Bác lại không còn nữa.
Những người con miền Nam nhớ Bác cũng chỉ biết vào lăng viếng Bác và Viễn Phương là một trong những người con đó. Với cảm xúc dâng trào của đứa con về thăm cha, Viễn Phương đã cho ra đời bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện tình cảm của nhà thơ, của những đứa con dân tộc, của tiếng lòng kính yêu dâng lên Bác.
Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam thăm Bác thì trong khổ 4 bài thơ Viếng lăng Bác bộc lộ tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài.
Ý thơ thể hiện nỗi niềm thiết tha và ước nguyện của nhà thơ muốn được mãi ở bên Bác. Đây là ước nguyện chân thành, lời hứa thuỷ chung của nhà thơ với Bác. Đó cũng là lời nói hộ ý nguyện của đồng bào miền Nam, của mỗi chúng ta quyết tâm đi theo lí tưởng cao đẹp và con đường cách mạng Bác đã vạch ra:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này… ”
Khổ cuối khép lại những nỗi đau, mất mát mà cả dân tộc đã trải qua khi nghe tin Bác qua đời (1969). Chỉ còn lại những giọt nước mắt của người con viếng muộn: Mai về miền Nam thương trào nước mắt. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc thật chân thành, mãnh liệt.
Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng, thiết tha. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
Nhà thơ ước muốn được là chim, là hoa, là cây nhưng tất cả là ở bên lăng, ở quanh lăng. Con chim dâng tiếng hót, đóa hoa dâng mùi hương, cây tre trung hiếu canh gác giấc ngủ êm đềm. Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“con chim”, ”đóa hoa”, ”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả. Ước muốn đó thể hiện tình cảm thành kính, thiêng liêng của nhà thơ, một người con Nam Bộ, nhưng đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam, của dân tộc Việt Nam đối với Bác.
Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn.
“Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác.
Khổ 4 bài thơ ‘Viếng lăng Bác’ diễn tả nỗi niềm riêng nhưng mang tình cảm khái quát chung. Tác giả đã viết một loạt câu thơ không chủ ngữ, nhấn mạnh ba lần điệp ngữ muốn làm như một khát vọng khôn nguôi. Khát vọng của những người đã một lần được về thăm lăng, những người chưa một lần được đến thăm lăng mà tấm lòng luôn hướng về Bác kính yêu.
Kết luận
Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.
Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 12/2024!