Updated at: 12-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Phân tích bức tranh Thanh minh trong tiết tháng ba trong Truyện Kiều của Nguyễn Du” chuẩn nhất 04/2024.

Phân tích bức tranh Thanh minh trong tiết tháng ba trong Truyện Kiều của Nguyễn Du- Mẫu 1

    Một cuộc du xuân – đây là sự kiện mở màn cho cuộc đời thiếu nữ phong lưu và xuân sắc của Thúy Kiều. Cuộc du xuân mở đầu cho phần thứ nhất trong hệ thống ba biến cố thông thường của cốt truyện cổ điển: “Gặp gỡ – Tai biến – Đoàn tụ”. Chúng ta sẽ bắt gặp ở đoạn thơ này một bức tranh thiên nhiên sáng tươi xinh đẹp và hội đạp thanh tưng bừng náo nhiệt. Nhưng cũng chính ở phần “Gặp gỡ” mà thông thường sẽ chưa có bóng dáng của tai họa – lại đã xuất hiện một nấm mồ, một cuộc đời và một cảm xúc có màu sắc bi kịch về số phận của hồng nhan.

1.Một bức tranh thiên nhiên và một khung cảnh lễ hội.

    Mặc dầu câu thơ thứ hai trong đoạn có thể đưa đến một liên tưởng, một ấn tượng nào đó về thời gian tuổi thọ, nhưng chủ yếu toàn bộ sáu câu thơ đầu tiên là một bức tranh thiên nhiên rực rỡ ánh sáng và màu sắc trong trẻo của bầu trời “Thanh minh”, của hình ảnh đàn chim én bay qua bay lại linh hoạt, nhịp nhàng, của nội cỏ mênh mông một màu tươi sáng pha hòa giữa màu xanh lá cây và màu xanh cỏ non và của một cành lê thanh tú “trắng điểm một vài bông hoa “…

    Con người trong tiết thanh minh đi sửa sang phần mộ và tìm đến những bóng hình của quá khứ – đó là lễ nghi truyền thống. Nguyễn Du đã chứng tỏ tài năng bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự sự ngắn gọn về một sinh hoạt thông thường: “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Nghi lễ vào hội hè có thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, nhưng đó vẫn là hai hình thức sinh hoạt văn hóa có khác biệt: Hội đạp thanh là cuộc vui chơi trên dặm cỏ xanh của lứa tuổi xuân xanh… Hội đạp thanh là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau… Trong tiết Thanh minh, có hồi ức và tưởng niệm quá khứ ( “lễ là tảo mộ”) nhưng cũng có khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời ( “hội là đạp thanh”).

    Sau câu thơ mở đầu là một bức tranh “đượm vẻ thiên nhiên” diễm lệ và tươi sáng. Vẫn chỉ là ngòi bút phác họa, chấm phá nhưng chủ yếu nhà thơ đã sử dụng từ ngữ dân tộc (trong đó có những câu thơ có thể gọi là “thuần Nôm”, đã lựa chọn những đường nét, những hình ảnh, những màu sắc đưa vào một tổng thể cấu trúc hội họa hài hòa giữa bức phông màu thiên thanh và những cánh chim én đậm màu sắc, sắc nét, giữa cành lê trong trắng trên nền cỏ mùa xuân tươi xanh…

    Tiếp theo hình tượng thiên nhiên là ngôn ngữ tự sự về cảnh lễ hội. Một hệ thống danh từ và động từ kép: “gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân… nô nức, sắm sửa, dập dìu, ngổn ngang” biểu hiện những hoạt động nhộn nhịp, náo nhiệt, tươi vui của mọi người và đây lại là một dòng những con người trẻ tuổi “nam thanh nữ tú” với ngựa xe, trang phục đông đúc, chen chúc… Lễ viếng thăm phần mộ tưng bừng, náo nhiệt, xen kẽ ngày hội giai ngộ của tuổi thanh xuân đã hoàn chỉnh bức tranh mùa xuân khi cỏ cây hoa lá vẫn đang độ tươi xanh rực rỡ, khi không trung và ánh sáng đã trở nên trong trẻo và ấm áp hơn.

    Dường như ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao trùm tất cả nhân gian (trong đó có ba chị em họ Vương). Thông qua sinh hoạt du xuân của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa và một cung cách sống của gia đình viên ngoại họ Vương.

2. Một nấm mồ vô chủ và một số kiếp hổng nhan

    Thời gian đã chuyển qua, bóng dương chênh chếch xế chiều “Tà tà bóng ngả về tây”. Nhưng đó không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật, dường như con người chìm trong một cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong văn học trung đại thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc tàn tạ thê lương “ Quán thu đứng vũ tà huy – Ải đem nhân ảnh nhuộm màu tà dương… “(Cung oán ngâm khúc ). Cuộc du xuân ngoạn cảnh đã xong, đã chấm dứt lễ hội tưng bừng náo nhiệt. Tâm hồn con người dường như cũng “chuyển điệu”theo sự thay đổi của thời gian và tàn cuộc Thanh minh để mang chút bâng khuâng thơ thẩn trên dặm đường về. Thời gian và tâm trạng đó báo hiệu sự biến đổi trong không gian. Ở đây chỉ có ba hình ảnh  để tả phong cảnh: một dòng suối nhỏ, chiếc cầu nhỏ và một nấm mồ nhỏ.  Cũng vẫn chỉ là ngòi bút phác họa qua sáu câu thơ. Đối lập với cảnh đông đúc của lễ hội  ở trên là một không gian cô tịch với dòng suối nhỏ uốn khúc nhẹ nhàng, dòng suối bé nhỏ tội nghiệp đến mức chỉ cần một “nhịp cầu nho nhỏ” bắc ngang là đủ  để con người đi qua… Miêu tả dòng suối hay là miêu tả nỗi niềm nao nao xao động của lòng người? Giữa cảnh vật và lòng người dường như không có đường về… Cũng như vậy, Nguyễn Du dùng những trạng từ kép: “sè sè” “ dàu dàu… “nấm đất thấp bé gợi hình ảnh một số phận nhỏ nhoi. Và riêng ngọn cỏ ở đây không hề mang một màu “xanh tận chân trời”như trên, mà lại chen màu vàn úa và “dàu dàu” héo hon, ủ rũ… Những từ ngữ “thanh thanh, nao nao, dàu dàu  biểu đạt sắc thái cảnh vật nhưng đồng thời cũng bộc lộ tâm trạng của con người.

    Một khung cảnh hoàng hôn báo hiệu ngày tàn đối lập với thiên nhiên trong tiết Thanh minh tươi sáng, một nấm mồ cô quạnh thê lương đối lập với lễ tảo mộ đông đúc náo nhiệt… Một bức tranh đối lập khiến con người đa cảm phải thốt lên một câu hỏi ngạc nhiên rằng: “Sao trong tiết Thanh minh, Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?. Khung cảnh hoang vắng thê lương ấy minh chứng một câu chuyện thương tâm về một con người, một cuộc đời và một kết thúc đã bị cuộc đời lãng quên…

Phân tích bức tranh Thanh minh trong tiết tháng ba trong Truyện Kiều của Nguyễn Du- Mẫu 2

Đã bao giờ ta tự hỏi lòng ta mùa xuân là gì chưa? Hay ta chỉ nhìn cảnh vật mùa xuân ở cảnh bên ngoài? Đời người sống trên trần gian này nằm trong cái hữu hạn, còn thiên nhiên đất trời thì bao la, vô hạn. Bằng sự rung cảm của nhịp đập trái tim – Nguyễn Du với “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân) đã khơi dòng kí ức trong miền sâu thẳm tâm hồn ta về bức tranh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, dẫn ta vào cuộc du xuân đậm hương sắc của đất trời thanh bình.

Một cuộc du xuân – đây là sự kiện mở màn cho cuộc đời thiếu nữ khuê các và xuân sắc của Thuý Kiều. Cuộc du xuân mở đầu cho phần thứ nhất trong hệ thống ba phần thông thường của cốt truyện: Gặp gỡ, Gia biến và lưu lạc, Đoàn tụ. Chúng ta sẽ bắt gặp ở đoạn thơ này một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, xinh đẹp và hội đạp thanh tưng bừng,náo nhiệt. Nhưng cũng chính ở phần “Gặp gỡ” mà thông thường chưa có bóng dáng của tai hoạ – lại xuất hiện một nấm mồ; một cuộc đời và một cảm xúc có màu sắc bi kịch về số phận hồng nhan.

Đoạn trích đã khắc hoạ rõ nét bức tranh thiên nhiên và khung cảnh lễ hội. Mặc dù câu thơ thứ hai trong đoạn có thể đưa đến một liên tưởng; một ấn tượng nào đó về thời gian; nhưng chủ yếu toàn bộ sáu câu thơ đầu tiên là một bức tranh thiên nhiên rực rỡ ánh sáng và màu sắc trong trẻo của bầu trời trong tiết Thanh minh. Đó là hình ảnh đàn chim én bay qua bay lại linh hoạt; nhịp nhàng; là nội cỏ mênh mông một màu tươi sáng hoà giữa màu xanh non và cành lê thanh tú “trắng điểm một vài bông hoa”.

Con người trong tiết Thanh minh đi sửa sang phần mộ và tìm đến những bóng hình của quá khứ – đó là lễ nghi truyền thống. Nguyễn Du đã chứng tỏ tài năng bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự sự ngắn gọn về một sinh hoạt thông thường: “Lễ là tảo mộ; hội là đạp thanh”. Nghi lễ và hội hè có thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ; nhưng đó vẫn là hai hình thức sinh hoạt văn hoá có sự khác biệt: “hội đạp thanh” là hình ảnh cuộc vui chơi trên dặm cỏ xanh của lứa tuổi xuân xanh. Hội đạp thanh là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau. Trong tiết Thanh minh; có hồi ức và tưởng niệm quá khứ “lễ là tảo mộ”; nhưng cũng có khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời “hội là đạp thanh”.

Bốn câu thơ mở đầu là một bức tranh thiên nhiên đượm vẻ diễm lệ và tươi sáng. Vẫn chỉ là ngòi bút phác hoạ, chấm phá nhưng chủ yếu nhà thơ đã sử dụng từ ngữ dân tộC; trong đó có những câu thơ có thể gọi là thuần Nôm; đã lựa chọn những đường nét; hình ảnh; màu sắc đưa vào một tổng thể cấu trúc hội hoạ hài hoà giữa bức phông màu thiên thanh và những cánh chim én đậm màu, sắc nét; giữa cành lê trắng trên nền cỏ tươi xanh.

Tiếp theo hình tượng thiên nhiên là ngôn ngữ tự sự về cảnh lễ hội. Một hệ thống danh từ và động từ kép: gần xa ; yến anh ; chị em ; tài tử ; giai nhân … nô nức ; sắm sửa”; “dập dìu”; “ngổn ngang” biểu hiện những hoạt động nhộn nhịp, náo nhiệt; tươi vui của mọi người và đặc biệt là của những con người trẻ tuổi – nam thanh nữ tú với ngựa xe đông đúc… Lễ viếng thăm phần mộ náo nhiệt; xen kẽ ngày hội giai ngộ của tuổi thanh xuân đã hoàn chỉnh bức tranh mùa xuân khi cỏ cây, hoa lá vẫn đang độ tươi xanh rực rỡ; khi không trung và ánh sáng đã trở nên trong trẻo và ấm áp hơn.

Dường như, ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao trùm tất cả nhân gian (trong đó có ba chị em nhà họ Vương). Thông qua cuộc du xuân của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du đã khắc hoạ hình ảnh một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa và cung cách sống của gia đình viên ngoại họ Vương.

Thời gian đã chuyển qua, bóng dương chênh chếch xế chiều “Tà tà bóng ngả về tây”. Nhưng đó không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật; dường như con người cũng dần chìm trong trạng thái bâng khuâng khó tả. Văn học trung đại thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc tàn tạ thê lương:

Quán thu phong đứng rũ tà huy

Ai đem nhân ảnh nhuốm màu tà dương.

(Cung oán ngâm khúc, Nguyền Gia Thiểu)

Cuộc du xuân đã kết thúc, lễ hội tưng bừng náo nhiệt đã chấm dứt. Tâm hồn con người dường như cũng “chuyển điệu” theo sự thay đổi của thời gian và tàn cuộc Thanh minh để mang chút bâng khuâng, thơ thẩn trên dặm đường về. Thời gian và tâm trạng đó báo hiệu sự biến đổi trong không gian. Ở đây, chỉ có ba hình ảnh để tả phong cảnh: một dòng suối nhỏ, chiếc cầu nhỏ và một nấm mồ nhỏ. Cũng vẫn chỉ là ngòi bút phác hoạ qua sáu câu thơ. Đối lập với cảnh đông đúc của lễ hội ở trên là một không gian cô tịch với dòng suối nhỏ uốn khúc nhẹ nhàng, dòng suối bé nhỏ đến mức chỉ cần một “dịp cầu nho nhỏ” bắc ngang là đủ để con người đi qua… Miêu tả dòng suối hay là miêu tả nỗi niềm nao nao, xao động của lòng người? Giữa cảnh vật và lòng người dường như có một mối giao cảm lớn. Cũng như vậy, Nguyễn Du dùng từ láy “sè sè” để miêu tả nấm đất thấp bé, gợi hình ảnh một số phận nhỏ nhoi. Ngọn cỏ ở đây không mang một màu “xanh tận chân trời” như trên, mà lại chen màu vàng úa và “rầu rầu” héo hon, ủ rũ… Những từ ngữ “thanh thanh”, “nao nao” biểu đạt sắc thái cảnh vật nhưng đồng thời cũng bộc lộ tâm trạng của con người.

Cuộc du xuân đã kết thúc, lễ hội tưng bừng náo nhiệt đã chấm dứt. Tâm hồn con người dường như cũng “chuyển điệu” theo sự thay đổi của thời gian và tàn cuộc Thanh minh để mang chút bâng khuâng, thơ thẩn trên dặm đường về. Thời gian và tâm trạng đó báo hiệu sự biến đổi trong không gian. Ở đây, chỉ có ba hình ảnh để tả phong cảnh: một dòng suối nhỏ, chiếc cầu nhỏ và một nấm mồ nhỏ. Cũng vẫn chỉ là ngòi bút phác hoạ qua sáu câu thơ. Đối lập với cảnh đông đúc của lễ hội ở trên là một không gian cô tịch với dòng suối nhỏ uốn khúc nhẹ nhàng, dòng suối bé nhỏ đến mức chỉ cần một “dịp cầu nho nhỏ” bắc ngang là đủ để con người đi qua… Miêu tả dòng suối hay là miêu tả nỗi niềm nao nao, xao động của lòng người? Giữa cảnh vật và lòng người dường như có một mối giao cảm lớn. Củng như vậy, Nguyễn Du dùng từ láy “sè sè” để miêu tả nấm đất thấp bé, gợi hình ảnh một số phận nhỏ nhoi. Ngọn cỏ ở đây không mang một màu “xanh tận chân trời” như trên, mà lại chen màu vàng úa và “rầu rầu” héo hon, ủ rũ… Những từ ngữ “thanh thanh”, “nao nao” biểu đạt sắc thái cảnh vật nhưng đổng thời cũng bộc lộ tâm trạng của con người.

Một khung cảnh hoàng hôn báo hiệu ngày tàn đối lập với thiên nhiên trong tiết Thanh minh tươi sáng, một nấm mồ cô quạnh, thê lương đối lập với lễ tảo mộ đông đúc, náo nhiệt. Một bức tranh đối lập khiến con người đa cảm phải thốt lên một câu hỏi ngạc nhiên:

Rằng sao trong tiết Thanh minh,

Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?

Khung cảnh hoang vắng, thê lương ấy minh chứng cho câu chuyện thương tâm về một con người, một cuộc đời và một kết thúc đã bị cuộc đời lãng quên.

Qua bức tranh Thanh minh, ta thấy được nghệ thuật miêu tả điêu luyện của Nguyễn Du. Nhà thơ đã kết hợp khéo léo giữa kể và tả, sử dụng từ ngữ giàu chất tạo hình để miêu tả cảnh ngày xuân. Bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế của nhà thơ cũng phản ánh được phần nào tâm trạng của nhân vật mà Nguyễn Du yêu quý.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Phân tích bức tranh Thanh minh trong tiết tháng ba trong Truyện Kiều của Nguyễn Du” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!