Updated at: 24-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương” chuẩn nhất 04/2024.

1. Dàn ý phân tích bài thơ Viếng lăng Bác

1.1 Mở bài

giới thiệu về bài thơ Viếng lăng Bác: Bài thơ Viếng lăng Bác được viết nên bởi những vần thơ tha thiết bày tỏ niềm thành kính vô hạn và nỗ xúc động khi có dịp ra thăm Bác của Viễn Phương.

1.2 Thân bài

* 4 câu đầu

  • Lời xưng hô thân mật, gần gũi, như tình cảm của một đứa con thân yêu dành cho người cha đáng kính.
  • Hàng tre xanh xanh ấy là sức sống bền bỉ, sự trường tồn của đất nước, dân tộc.

* 8 câu tiếp

  • Hình ảnh mặt trời ẩn dụ cho con người Bác.
  • Niềm thương yêu, xúc động kết thành những tràng hoa đẹp nhất để dâng lên Người.
  • Ánh trăng sáng trong ấy như cách vĩ đại của người, cạo đẹp mà gần gũi thân thương.
  • Niềm tiếc thương tột độ trước sự ra đi của Người,

* 4 câu cuối

  • Mong ước giản dị nhưng chất chứa tình cảm lớn lao của người con gửi đến Người:
    • Muốn làm con chim hót
    • Muốn làm đóa hoa thơm
    • Muốn làm cây tre canh giữ giấc ngủ cho Người
  • Mong ước của mọi con dân Việt Nam gửi đến Bác

1.3 Kết bài

“Viếng lăng Bác” là kết tinh những tình cảm lớn trong một trái tim bình dị đã chạm đến cảm xúc lòng người đọc một cách tự nhiên, gây thổn thức lòng người.

Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- mẫu 1

         Bác Hồ – vị cha già kính yêu của dân tộc đã để lại bao nỗi ngậm ngùi cho con dân Việt Nam về sự ra đi của Người. Nỗi đau ấy đã kết thành giọt, thành hình, thành những nỗi niềm xúc động khôn nguôi qua nhiều tác phẩm nghệ thuật. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một trong những tác phẩm xuất sắc thể hiện được nỗi niềm ấy. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với lãnh tụ bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng. Nó đã được phổ nhạc, lưu truyền sâu rộng trong nhân dân. Câu thơ mở đầu cho thấy xuất xứ của bài thơ:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

         Từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương mang theo bao tình cảm thắm thiết của đồng bào và chiến sĩ ra viếng lăng Bác Hồ kính yêu. Đây là cuộc hành hương của người chiến sĩ. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương khói trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Màn sương trong câu thơ gợi lên một không khí thiêng liêng, huyền thoại. Cây tre, hàng tre “đứng thẳng hàng” trong làn sương mỏng, ẩn hiện thấp thoáng, mang màu sắc xanh xanh. “Hàng tre xanh xanh” vô cùng thân thuộc được nhân hóa, trải qua “bão táp mưa sa” vẫn “đứng thẳng hàng” như dáng đứng của con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trong bốn nghìn năm lịch sử:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác,

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát,

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam,

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.

         “Ôi!” là từ cảm, biểu thị niềm xúc động tự hào. Hình ảnh hàng tre xanh mang tính chất tượng trưng, giàu ý nghĩa liên tưởng sâu sắc. Tre mang phẩm chất cao quý của con người Việt Nam: “mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng, bất khuất…” (Thép Mới). Có nhà thơ đã viết:

… “Bão bùng thân bọc lấy thân,

Tay ôm, tay níu, tre gần nhau thêm

Thương nhau tre không ở riêng

Lũy thành từ đó mà nên hỡi người…”

                                            (“Tre Việt Nam” – Nguyễn Duy)

Miêu tả cảnh quan (phía ngoài) lăng Bác, nhà thơ tạo nên những suy nghĩ sâu sắc về phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta. Khổ thơ tiếp theo nói về Bác, Bác là người con ưu tú của dân tộc, là “tinh hoa và khí phách của nhân dân Việt Nam” (Phạm Văn Đồng).

         Hai câu thơ sóng nhau, hô ứng nhau với hai hình ảnh mặt trời. Một mặt trời thiên nhiên, rực rỡ, vĩnh hằng “Ngày ngày… đi qua trên lăng”, và “Một mặt trời trong lăng rất đỏ” – hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Màu sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tuởng cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của Bác:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.

         Hòa nhập vào “dòng người” đến lăng Viếng Bác, nhà thơ xúc động bồi hồi…

         Thành kính và nghiêm trang. Dòng người đông đúc, chẳng khác nào một “tràng hoa” muôn sắc ngàn hương từ mọi miền đất nước đến Ba Đình lịch sử viếng lăng Bác. Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” diễn tả tấm lòng biết ơn, sự thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.

         Chữ “dâng” chứa đựng bao tình cảm, bao tình nghĩa. Nhà thơ không nói “79 tuổi” mà nói: “bảy mươi chín mùa xuân”, một cách nói rất thơ: cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân. Qua đó, ta thấy nghệ thuật lựa chọn ngôn từ của Viễn Phương rất tinh tế biểu cảm và hình tượng.

         Khổ thơ thứ ba nói về sự vĩnh hằng bất diệt của Bác. Bác như đang nằm ngủ, một giấc ngủ “bình yên”, trong một khung cảnh thơ mộng. Bác vốn yêu trăng. Thời kháng chiến, giữa núi rừng chiến khu Việt Bắc, Bác đã từng có những khoảnh khắc sống rất thần tiên:

“Việc quân, việc nước bàn xong,

Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm”.

         Giờ đây, nhà thơ cảm thấy “Bác yên ngủ” một cách thanh thản “giữa một vầng trăng sáng dịu hiền” . Nhìn “Bác ngủ”, nhà thơ đau đớn, xúc động. Câu thơ “mà sao nghe nhói ở trong tim” diễn tả sự đau đớn, tiếc thương đến cực độ. Viễn Phương có mội lối viết hàm súc, đầy thi vị; câu chữ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.

         Khổ thơ cuối nói lên cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Biết bao lưu luyến, buồn thương. Nhà thơ muốn hóa thân làm “con chim hót”, làm “đóa hoa tỏa hương”, làm “cây tre trung hiếu” để được đền ơn đáp nghĩa Người, ý thơ sâu lắng, hình ảnh thơ đẹp và độc đáo, cách biểu hiện cảm xúc ” Nam Bộ”. Đây là những câu thơ trội nhất trong bài “Viếng lăng Bác”.

“Mai về miền Nam, thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

         Điệp ngữ “muốn làm…” được láy lại ba lần gợi tả cảm xúc thiết tha, nồng hậu của nhà thơ miền Nam đối với lãnh tụ.

         “Viếng lăng Bác”, bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ: sậu lắng, hàm súc và đẹp. Viễn Phương đã chọn thể thơ mỗi câu tám từ, mỗi khổ bốn câu, toàn bài bốn khổ – một sự cân đối hài hòa để biểu hiện một giọng điệu thơ nghiêm trang, kính cẩn.

         Bài thơ là tấm lòng yêu thương, kính trọng và biết ơn Bác. Cảm ơn bài thơ, cảm ơn tiếng lòng của tác giả đã nói thay niềm xúc động của bao tâm hồn Việt. Tâm tình của nhà thơ cũng là tâm tình của mỗi người Việt Nam và của cả dân tộc. Bác Hồ ra đi nhưng hình ảnh vĩ đại của Người vẫn in dấu mãi trong trái tim của mỗi người dân Việt để rồi chúng ta được tự hào về Bác và càng yêu thêm đất nước nhỏ bé này.

Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- mẫu 2

Đến với bài thơ “Viếng Lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương, độc giả sẽ thấy được tình cảm vô cùng chân thành, yêu thương nhưng cũng đầy xót xa của tác giả khi có dịp đến thăm Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của toàn dân tộc Việt Nam.

Năm 1976, sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Nam Bắc hòa chung một nhịp đập, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội cũng được khánh thành. Viễn Phương nhân dịp này ra thăm miền Bắc và vào viếng Bác Hồ. Ông đã sáng tác bài thơ Viếng lăng Bắc và in trong tập “Như mây mùa xuân” (thơ 1978).

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.

Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng hô (con-bác) thể hiện một sự thân thương, ngọt ngào và đậm chất Nam Bộ. “Con” ở miền Nam xa cách, không quản ngại đường xá vượt hàng ngàn cây số đến đây với mục đích muốn được gặp Bác Hồ – vị cha già đáng kính. Tác giả dùng từ “thăm” thay vì từ “viếng” nhằm giảm nhẹ nỗi đau thương, mất máy nhưng chẳng thể nào che đi được sự ly biệt không ai mong muốn. Hình ảnh đầu tiên mà “con” nhìn thấy là “hàng tre bát ngát”. Cây tre vốn là loài cây quen thuộc, đã trở thành biểu tượng cho những đức tính, phẩm chất con người Việt. Khi kết hợp với hình ảnh “bão táp mưa sa” – ẩn dụ cho sự khó khăn gian khổ trong cuộc đời. Tác giả muốn khẳng định phẩm chất của con người Việt Nam cũng giống như cây tre kia, dù trải qua muôn vàn khó khăn nhưng vẫn không hệ bị vùi dập, vẫn đứng ngay thẳng, hiên ngang, sừng sững với đất trời.

Và đến khổ thơ thứ hai:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…

Hai câu thơ đầu được tạo nên bởi hình ảnh “mặt trời”. “Ngày ngày mặt trời điq ua trên lăng” – đó là mặt trời tự nhiên chuyển động theo quy luật tuần hoàn của thời gian, là chân lý hiển nhiên không thể phản bác. “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” –  hình ảnh ẩn dụ, ví Bác như “mặt trời” có sức lan tỏa, soi sáng cuộc đời của người dân Việt Nam. Bác tỏa sáng sự sống tươi mưới, thổi hồn vào đất, cây cỏ và mọi vạn vật trải dài trên đất nước hình chữ S. Chẳng thể có mỹ từ nào miêu tả được hết lòng biết ơn vô hạn của nhân dân dành cho Người. Nếu có mặt trời của tự nhiên cũng phải nhường chỗ cho đêm tối. Thì ánh sáng phát ra từ mặt trời Bác là bất tận. Ánh sáng ấy dù có nhưu thế nào đi chăng nữa cũng chẳng thể lụi tàn. Mà trở thành điểm tựa vững chắc cho dân tộc Việt. Hai câu thơ tiếp theo là sự liên tưởng đến hình ảnh dòng người đang nối dài, háo hức, xúc động được vào thăm Bác. Cụm từ “ngày ngày: được điệp lại lần hai tạo nên một ước muốn về một cõi bất tử. “Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ cho những người dân từ khắp mọi miền tổ quốc đang hội tụ về nơi này, vào trong thăm Bác. Ngày qua ngày, từng dòng người vẫn nối tiếp nhau vào trong lăng. Dù Người đã ra đi, nhưng hình ảnh người vẫn còn hiện diện mãi trên bầu trời kia, nhân dân vẫn dành cho Người một niềm tiếc thương vô hạn, một nỗi nhớ không thể nguôi ngoai.

Hình ảnh Bác nằm trong lăng được Viễn Phương khắc họa đầy chân thực:

Bác nằm trong giấc ngủ bình tên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nói ở trong tim!

Cuộc đời của Hồ Chủ tịch chưa lúc nào là yên bình khi mà đất nước, nhân dân đang phải chịu ách đô hộ của kẻ thù xâm lược. Đến nay, khi đã giành lại độc lập, Nam Bắc cùng chung một nhịp đập thì Bác lại ra đi mãi mãi. Điều ấy đã để lại niềm tiếc thương vô hạn. Nhà thơ dường như chỉ muốn tạm quên đi nỗi tiếc thương ấy: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”. Dường như Bác chỉ nằm trong một giấc ngủ vô tận mà thôi. Với lòng yêu thương, ngưỡng mộ, khổ thơ thứ ba là lời thương xót vô tận và ước muốn của nhà thơ. Bác như “vầng trăng sáng dịu hiền” – hình ảnh biểu tượng cho vẻ đẹp của Bác lúc này vô cùng thanh thản, yên bình. Người quả thật không hề mát đi mà chỉ đang chìm vào một giấc ngủ vô tận mà thôi, Người vẫn còn sống mãi với nhân dân, với non sông đất nước. Mạch cảm xúc của bài thơ bỗng nhiên lắng xuống ở hai câu thơ cuối. Dẫu biết trời xanh là mãi mãi – trời xanh là biểu tượng cho sự trường tồn bất tử của Bác. Bác mãi sống trong lòng người dân Việt Nam. Dẫu biết là vậy mà sao mỗi lần chỉ nghĩ đến thôi, cảm giác “nhe nhói ở trong tim” không thể nào chịu được – vẫn thấy xót xa, nuối tiếc vô cùng. Vì không thể trốn tránh sự thật rằng Người đã ra đi mãi mãi. Những người con của đất nước này đã không còn được gặp lại Người. Đó chính là niềm tiếc nuối của biết bao con người.

Ở khổ thơ cuối cùng, Viễn Phương đã bộc lộ niềm mong muốn vô tận:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Điệp từ “muốn” lặp đi lặp lại ba lần như khẳng định ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Ước nguyện đó được ở lại bên canh Người – một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ để làm “một con chim hót”, “một đóa hoa” “một cây tre trung hiếu”. tất cả chỉ đều là những vật nhỏ bé, tầm thường nhưng lại là mong muốn của tác giả.

Bởi vì chim hót sẽ ru giấc ngủ ngon cho Bác, hoa sẽ tỏa ngát hương thơm và cây tre và một cây tre nhỏ sẽ mãi trung hiếu với nơi này. Nhịp thơ ở đây chậm rãi so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi ấy như muốn kéo dài thêm giây phút sắp phải chia xe. Kết lại bài thơ, hình ảnh cây tre lại một lần nữa xuất hiện. Cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam, biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn ở lại bên lăng Hồ Chủ tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ lối. Qua đói, nhà thơ càng muốn khẳng định một điều, đó là sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Bác đem tới cho chúng ta.

Cả khổ thơ cuối đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người con đất Việt. Đó là luôn được ở bên cạnh Người để làm một điều gì đó đóng góp cho giấc ngủ của Người được yên giấc, cũng từ đó thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào bác và lý tưởng mà Bác đã chọn.

“Bác Hồ –  người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại”. hình ảnh Người luôn mãi sắt son và bất tận theo thời gian. Bài thơ thật đẹp, thật đáng quý, đáng yêu bởi những cảm xúc tự tận đáy lòng được viết ra của tác giả. Không cầu kỳ, hoa mỹ, không lộng lẫy phô trường. “Viếng lăng Bác” là những tình cảm lớn lao trong một trái tim bình dị đã chạm đến cảm xúc người đọc theo cách tự nhiên như thế.

Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- mẫu 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những người có tầm ảnh hưởng nhất thế kỷ XIX, và thật may mắn khi con người đó được sinh ra trên mảnh đất chữ S Việt Nam, đại diện cho lợi ích của người dân Việt. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.

Biết bao nhà thơ đã lấy Người làm nguồn cảm hứng bất tận, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài ngơ ngắn đầy xúc động, thể hiện tấm lòng của đồng bào miền Nam đối với Người. Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Lời thơ giản dị chứa nhiều xúc cảm. Sinh thời, Người quên ăn quên ngủ vì miền Nam, Người dành tất cả những công sức để giải phóng miền Nam và con người. Nhà thơ Tố Hữu từng viết:

Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong Cha

Lời bài thơ đúng là của người con miền Nam có dịp ra thăm lăng Bác, nơi yên nghỉ của Người cha già đáng kính. Tình cảm trong bài đúng là tình cảm của con người xa xôi mà nỗi nhớ thương ấp ủ bấy lâu nay như chỉ chờ gặp lại bóng dáng thân yêu trào dâng, thổn thức. Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã xúc động rơi lệ:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Nhà thơ hẳn đã phải rất lặn lội đến đến được đây, xếp hàng rất sớm để vào viếng, khi sương sớm còn bao phủ quanh lăng. Theo con đường quanh quanh dẫn tới lăng nổi trội lên hàng tre bát ngát. Bát ngát của tre và làn sương mờ ảo. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh thân thuộc đã in sâu vào tiềm thức của người Việt: “Hàng tre xanh xanh Việt Nam/ Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.

Một tình cảm vừa thân quen, vừa thương xót tự hào. Thân quen vì người Việt Nam nào mà không biết đến cây tre. Thương xót vì tre phải chịu mưa giông, bão tố và tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngả. Từ sương sa mà liên tưởng đến bão táp, mưa sa cũng rất tự nhiên. Từ cây tre mà nghĩ đến Việt Nam, rồi sẽ nghĩ đến Bác cũng là tự nhiên, bởi từ lâu “cây tre”, “Việt Nam”, “Hồ Chí Minh” là những từ ngữ có mối liên hệ nội tại.

Khổ thứ hai nói tới cảm xúc trước cảnh đoàn người xếp hàng vào lăng. Hẳn là đoàn người rất dài, tốc độ rất chậm. Khổ thơ trên, cảnh vật đang còn sương phủ, bây giờ mặt trời đã lên cao trên đầu.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ví Bác với mặt trời là hình ảnh quen thuộc, nhưng đem so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một sáng tạo độc đáo, thanh thoát chưa hề xuất hiện. Mặt trời “rất đỏ” làm nhớ đến trái tim, nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân. Bác là mặt trời bởi vì Bác đã tìm ra con đường soi sáng cho người dân Việt, thồi hồn vào đất, cây cỏ để cho tươi tốt. Mặt trời tự nhiên có thể tắt theo tuần hoàn của thời gian nhưng mặt trời Bác là bất tận.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…

Tràng hoa là chuỗi hoa vòng kết tròn, đại diện cho rất nhiều con người từ khắp mọi miền đất nước đổ về đây để thăm Bác, từng đoàn người đi viếng di chuyển từ phía sau lăng, qua bên lăng, vòng ra trước lăng rồi quay vào chính diện của lăng, đúng là tạo thành một vòng tròn, khiến nhà thơ nghĩ đến tràng hoa. Bởi vì con người là hoa đẹp xuất sắc của đất nước.

Mọi người hình như không phải đến viếng một người đã từ trần, viếng một thi hài mà là đến viếng một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hiến dâng bao nhiêu hoa trái. Ở đây tác giả không chỉ liên tưởng sâu sắc, mà còn tinh tế trong cách dùng từ, đầy tình cảm yêu thương, trân trọng.

Khổ thơ thứ ba nói về cảm xúc khi đã vào đến trong lăng. Đây là nơi Bác chìm vào trong giấc ngủ dài, sự trang nghiêm của sự yên nghỉ đời đời. Câu thơ đã viết rất đỗi chân thực và thơ mộng:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Khung cảnh bình yên, lặng lẽ gợi lên giấc ngủ ban đêm, êm đềm dưới vầng trăng sáng dịu hiền. Nhà thơ một mặt không muốn tin rằng là Bác đã đi xa mà chỉ là một giấc ngủ vĩnh viễn, ngủ bất kể ngày hay đêm, nhưng mặt khác không thể thấy một sự thật rằng con người đang nằm kia đã ra đi vĩnh viễn:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim

Dù biết Bác sống vĩnh viễn như trời xanh thì cũng không che giấu được một sự thật mất mát, làm đau nhói con tim. Câu thơ nghe như một tiếng khóc nghẹn ngào. Khổ thơ cuối cùng là cảm xúc trước khi ra về:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Nghĩ đến ngày mai phải về miền Nam, trong tác giả không thể nào kìm nén được nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm mà là trào dâng một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm nảy sinh bao ước muốn nhỏ nhoi. Mong ước làm chim hót quanh lăng Bác để mang lại chút vui tươi, nhí nhảnh, mua vui cho Bác. Muốn làm đóa hoa để tỏa hương thơm dịu dàng, một làn hương như thực như hư thoang thoảng đâu đây. Mong ước làm cây tre để có thể che chở những bão tố, gió mạnh cho Bác. Mọi ước muốn này đều chung quy vào một điểm là mong ước được mãi gần bên Bác, muốn làm Bác vui, làm khuây khỏa và vơi đi lạnh lẽo của Người đã suốt đời hy sinh cho Tổ quốc.

Tình cảm đối với Bác chỉ có thể là tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp lớn lao cho kho tàng thi ca viết về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của toàn thể dân tộc Việt.

Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- mẫu 3

Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha”.

Nhân dân miền Nam luôn ước ao nước nhà thống nhất để được đón Bác vào thăm, thế nhưng Bác đã ra đi, để lại cho nhân dân miền Nam nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung bao niềm tiếc thương vô hạn. Tình cảm đó đã được nhà thơ Viễn Phương, trong chuyến lần đầu ra thăm lăng Bác diễn tả thật xúc động qua “Viếng lăng Bác”. Bài thơ là sự dồn nén kết tinh tình cảm chân thành thương nhớ Bác không của chỉ riêng nhà thơ mà còn là của hàng triệu chiến sĩ và đồng bào miền Nam – những người cũng như nhà thơ – tuy chưa một lần gặp Bác ở đời thật nhưng đã nghìn lần thấy trong mơ, trong hoài vọng, trong lí tưởng cao đẹp nhất của mình.

Từ khói lửa chiến trang bước ra, người chiến sĩ Viễn Phương đến Hà Nội, nơi trái tim của cả nước, để được viếng Bác. Khổ một đã thể hiện cảm xúc của tác giả về cảnh quan bên ngoài lăng Bác. Câu mở đầu bài thơ giản dị mà chân chất đã nói lên hoàn cảnh viếng lăng Bác, mở ra một không khí thân mật mà trang nghiêm: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Sử dụng cách xưng hô “con – Bác” và thay “viếng” thành “thăm”, nhà thơ vừa thể hiện sự tôn kính một cách gần gũi, vừa giảm bớt đi sự đau buồn. Bằng cách này, người đọc hiểu rằng Bác vẫn còn sống mãi, chỉ là đang ngủ một giấc thật lâu, thật dài mà thôi. Câu thơ tuy không được gọt giũa từng câu chữ nhưng là xúc động bạn đọc vì đây là tiếng nói tự đáy lòng của người con đi xa về bên cha. Câu thơ tuy bằng lặng nhưng bên trong lại ẩn chứa một nỗi đau khôn nguôi của sự mất mát.

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”

Đến gần lăng, không gian “hàng tre bát ngát” lẫn trong sương sớm hiên ra ngay trước mắt cùng thán từ “ôi” đã diễn tả một trạng thái xúc động, bồi hồi của nhà thơ. Quanh lăng Bác là hình ảnh hàng tre thân thuộc, gắn bó với làng quê Việt Nam, cũng chính là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho con người Việt Nam với sức sống bền bỉ, kiên cường trước mọi phong ba bão táp, thử thách khó khăn. Màu tre mãi xanh như cái sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt của tự nhiên và lịch sử. Hàng tre bên lăng Bác khẽ đu đưa, âu yếm giấc ngủ ngàn đời của Bác như thuở ấu thơ tre làm bạn với Người.

Khổ hai bài thơ là cảm xúc của Viễn Phương trước khi vào viếng thăm lăng Bác. Bác nằm trong lăng, vẫn sống mãi với non sông đất nước, vẫn tỏa sáng cho muôn đời:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Mặt trời của thiên nhiên đem lại sức sống cho muôn loài, gợi cho tác giả liên tưởng rằng Bác của chúng ta cũng là một mặt trời, đã soi đường dẫn lối cho nhân dân đi lên từ trong đêm tối nô lệ đến cuộc đời sáng lạng của tự do và độc lập. Muôn vàn nỗi tiếc thương đối với công ơn to lớn của Bác đã được nhà thơ linh động ví như những tràng hoa kết lại dâng lên để bày tấm lòng thành kính đối với Bác:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”

Sử dụng nghệ thuật hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân”, tác giả vừa ca ngợi bảy chín năm trong cuộc đời Bác đẹp như mùa xuân, vừa thể hiện lòng biết ơn vì Bác đã đem lại mùa xuân cho đất nước. Kết hợp cùng điệp ngữ “ngày ngày”, hình ảnh Bác sẽ mãi trường tồn trong tâm trí mỗi con người Việt Nam.

Bao nhiêu cảm xúc lại được dâng cao hơn khi Viễn Phương bước những bước đầu tiên vào lăng Bác trong khổ ba:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

Với giọng điệu trang nghiêm, thành kính, phù hợp với không khí thiêng liêng, thanh tĩnh ở trong lăng, nhà thơ khiến ta hình dung như Bác vẫn đang chìm vào giấc ngủ bình yên sau bao đêm dài thao thức vì nước vì dân. Trong giấc ngủ vĩnh hằng của Bác có trăng làm bạn – hình ảnh tả thực chính xác và tinh tế – gợi cho ta suy nghĩ về tâm hồn trong sáng, cao đẹp của Bác như vầng trăng, đồng thời cũng gợi nhớ đến sự gắn bó mật thiết của Bác với trăng và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Hình ảnh “trời xanh” ca ngợi sự cao cả, thiêng liêng, bất tử của Bác, khẳng định sự hóa thân của Bác vào tự nhiên của đất nước, của dân tộc. Thế nhưng, dù biết Bác vẫn vĩnh viễn ở đó như trời xanh thì cũng không thể che lấp được một sự thật rằng Bác đã ra đi. Câu hỏi tu từ cuối khổ ba cất lên như tiếng khóc nghẹn ngào, bộc lộ trực tiếp nỗi đau lớn lao không có gì có thể bù đắp được.

Khổ thơ khép lại với bao niềm lưu luyến của tác giả trước lúc ra về.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương nơi đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

Nghĩ đến ngày mai về miền Nam là nỗi thương xót làm trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng hay rơm rớm, mà là trào – một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm can làm nảy sinh bao ước muốn. Đó là ước muốn được làm chim hót quanh lăng Bác, để lại chút vui tươi bên một người đã hi sinh vì đất nước. Là ước muốn được làm đóa hoa tỏa hương thực hư thoang thoảng, và cũng là ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng. Mọi điều ước đều quy tụ vào một điểm là mong được gần Bác để mãi mãi được làm vơi, khuây khỏa nỗi lạnh lẽo của con người lúc sinh thời đã hi sinh hết mình cho sự nghiệp giải phóng tổ quốc, đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân.

Bài thơ tả lại một ngày Viễn Phương ra thăm lăng Bác từ tinh sương đến trưa, rồi đến chiều. Xuyên suốt bài thơ là sự trào dâng của niềm thương nhớ bao la, xót thương vô hạn, được thể hiện qua đầy ắp những ẩn dụ đẹp và trang nhã từ tận cõi lòng của nhà thơ. Chính vì thế, “Viếng lăng Bác” là một đóng góp quý báu vào kho tang thi ca viết về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc Việt Nam ta.

Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- mẫu 4

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam thường nói “Miền Nam trong trái tim” hẹn ngày thống nhất Bác sẽ vào thăm. Vậy mà khi miền Nam giải phóng, nước nhà thống nhất thì Bác lại không còn nữa. Những người con miền Nam nhớ Bác cũng chỉ biết vào lăng viếng Bác và Viễn Phương là một trong những người con đó. Với cảm xúc dâng trào của đứa con về thăm cha, Viễn Phương đã cho ra đời bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện tình cảm của nhà thơ, của những đứa con dân tộc, của tiếng lòng kính yêu dâng lên Bác.

Đây là một trong những bài thơ cảm động và xuất sắc nhất viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, gồm 4 khổ, mỗi khổ có 4 câu. Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động, thành kính là lòng biết ơn và tự hào, xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra Viếng lăng Bác. Giọng điệu thành kính, trang nghiêm của bài thơ rất phù hợp với cảm xúc, và cũng phù hợp với không khí trang nghiêm nơi lăng Bác. Mạch cảm xúc vận động theo trình tự thời gian kết hợp với không gian của một chuyến viếng thăm.

Vì vậy, đọc bài thơ mà như ta theo chân tác giả vào lăng viếng Bác. Khổ 1 cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng tập trung ở hình ảnh hàng tre; khổ 2-3 từ dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác, nhà thơ cảm xúc và suy ngẫm về lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Khổ 4 là cảm xúc khi sắp phải trở về miền Nam, nhà thơ mong muốn lòng mình được mãi mãi ở lại nơi lăng Bác.

Hai câu thơ đầu như một lời tự sự đã chứa đựng bao nhiêu cảm xúc:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Bác đã vĩnh viễn ra đi khi đất nước còn chia cắt. Câu thơ của Viễn Phương mang theo niềm xúc động của đứa con miền Nam sau bao ngày mong mỏi lần đầu tiên được ra viếng lăng Bác. Cách xưng hô “con” và “Bác” vừa gần gũi vừa thân thương, vừa trân trọng, vừa thành kính như một đứa con đã lâu nay được trở về thăm cha. Vì vậy, tác giả đã dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng” như dấu đi một nỗi đau đang chất chứa trong lòng mình. Cũng trong khổ thơ này, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tác giả về cảnh quanh lăng Bác là hàng tre. Nhà thơ cảm nhận đó là linh hồn quen thuộc của quê hương Việt:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng.

Hình ảnh những hàng tre quen thuộc đi vào mạch cảm xúc rất tự nhiên mà có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Từ hàng tre cụ thể bên lăng Bác, nhà thơ liên tưởng đến cây tre Việt Nam, đến bản lĩnh, sức sống bền bỉ kiên cường của dân tộc Việt Nam. Tre vừa được hiểu theo nghĩa thực, vừa được hiểu theo nghĩa ẩn dụ. Vì vậy, Lăng Bác như ở giữa làng quê Việt Nam và trở nên gần gũi và giản dị, và lăng Bác cũng như đang ở giữa lòng dân tộc, thật ấm áp vô cùng! Nói đến tre là nói đến Việt Nam, nói đến Việt Nam là liên tưởng ngay đến Bác. Một sự kết nối khó có thể hiểu khác được!

Khổ thơ thứ hai được bắt đầu từ hình ảnh “Mặt trời”:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Có hai “mặt trời”: “mặt trời” trong câu thơ trên là hình ảnh thực, “mặt trời” trong câu thơ dưới là hình ảnh ẩn dụ. Bác chính là mặt trời sáng rực, vừa thể hiện cái vĩ đại bất diệt, vừa sự sống cho nhân loại; vừa là mặt trời sáng rực của cách mạng vô sản… Lấy “mặt trời” để ví với Bác, nhà thơ thể hiện niềm tôn kính của mình, cũng là sự tôn kính của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu.

Sự tôn kính ấy còn thể hiện trong hình ảnh dòng người ngày ngày vào lăng viếng Bác:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Người vào thăm Bác, mang hoa viếng Bác, đó là một hình ảnh thực. Nhưng nhà thơ lại muốn nói đến một “tràng hoa” khác. Nhìn dòng người bất tận nối tiếp nhau, nhà thơ thấy giống như một tràng hoa dâng Bác. Lại là một sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, tô đậm niềm tôn kính của nhân dân đối với Bác Hồ.

Đến khổ thơ thứ 3, nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình khi đã vào trong lăng:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Khổ thơ gồm 4 câu 7 chữ cân đối, trang nghiêm, phù hợp với không khí thiêng liêng và thanh tịnh trong lăng. Không gian và thời gian như ngừng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Nhà thơ cảm nhận như Bác chỉ đang ngủ một “giấc ngủ bình yên”. Đó cũng là ấn tượng thật của mọi người khi được vào thăm lăng, viếng Bác. Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ. Có thể liên tưởng ấy bắt đầu từ ánh sáng rất dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng. Khi đã xuất hiện thành hình ảnh thơ, “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.

Từ hình ảnh “vầng trăng”, nhà thơ lại tiếp tục liên tưởng đến hình ảnh “trời xanh”. Bầu trời xanh là hình ảnh thiên nhiên lớn lao, vĩnh hằng. “Trời xanh”, “vầng trăng”, “mặt trời” trở thành một mối tổng hoà của một vũ trụ bao la, kì vĩ. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Bác sống như trời đất của ta”. Bác ra đi, nhưng vẫn còn mãi với quê hương đất nước, như trời xanh còn mãi. Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi của Người: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Câu thơ biểu hiện cụ thể và trực tiếp nỗi đau xót trong hình thức của một câu hỏi tu từ.

Và đến khổ thơ cuối, nhà thơ bày tỏ tâm trạng lưu luyến khi sắp phải trở về miền Nam:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

“Mai về miền Nam”, nhớ thương Bác đến “trào nước mắt”. Câu thơ có cách diễn đạt chân thành, mộc mạc kiểu Nam Bộ. Ba câu thơ cuối bắt đầu bằng điệp ngữ “muốn làm”, bày tỏ niềm mong ước, tấm lòng lưu luyến của nhà thơ gửi vào niềm mong ước thiết tha muốn hoá thân vào cảnh vật bên lăng Bác: “muốn làm con chim hót”, “muốn làm bông hoa toả hương,” và hơn hết, “muốn làm cây tre trung hiếu” nhập vào “hàng tre bát ngát” quanh lăng Bác.

Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ đầu được lặp lại ở cuối bài, tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng, tô đậm hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.

Bài thơ có giọng điệu phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Với thể thơ tám chữ xen lẫn những dòng thơ bảy chữ hoặc chín chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của lòng mong ước. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ- biểu tượng như “Mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “vầng trăng”, “trời xanh”… vừa thân thuộc vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và tình cảm của cả dân tộc đối với vị lãnh tụ kính yêu.

Viếng lăng Bác đã để lại trong lòng bạn đọc những cảm xúc sâu lắng và tha thiết. Với những hình ảnh ẩn dụ độc đáo và những biện pháp tu từ đặc sắc, Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ, Viễn Phương đã thay nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung dâng lên Bác niềm cảm xúc chân thành, lòng tôn kính thiêng liêng. Bài thơ sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc, gợi nhắc cho những thế hệ kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của một con người vĩ đại mà giản dị- Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sống trọn một đời:

Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa

Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương- mẫu 5

Bác Hồ luôn là đề tài muôn thuở trong thơ ca của Việt Nam. Người là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn thể hiện tài năng trong các tác phẩm của mình. Có thể nói, Bác chính là hình ảnh đẹp nhất, ngời sáng nhất trong thơ ca Việt Nam. Không ít tác phẩm viết về Người, viết về những cuộc viếng thăm, gặp gỡ Người, nhưng có lẽ, cảm xúc nhất trong những tác phẩm đó là “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là nỗi niềm của một người con ở tận miền Nam xa xôi được trở ra thăm Bác sau ngày Bác đi xa.

Viễn Phương là một nhà thơ xuất hiện khá nhiều trong dòng văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày còn trong thời gian chiến đấu. Nhưng tác phẩm “Viếng lăng Bác” có lẽ là tác phẩm thành công nhất của ông khi viết về Bác Hồ. Cả bài thơ chứa đựng trong đó là nỗi niềm đau xót, là sự xúc cảm chân thành dành cho vị Cha già của dân tộc của một người con nơi phương xa được trở về thăm. Mở đầu bài thơ, tác giả đã mở lời chào giới thiệu với chúng ta, với Bác Hồ kình yêu rằng:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Không như những nhà thơ khác dùng lời mời chào mỹ miều để miêu tả một cuộc viếng thăm, Viễn Phương đã dùng sự chân thành nhất của mình để giới thiệu. Tác giả ở tận miền Nam xa xôi, mãi tới hôm nay, sau ngày độc lập dân tộc mới được ra thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. hai từ “miền Nam” như nhấn mạnh hơn sự xa xôi trong khoảng cách địa lý giữa hai đầu Tổ quốc.

Và sự viếng thăm của nhà thơ như là một mong mỏi từ lâu để được ra viếng lăng Bác Hồ. Bác Hồ đã ra đi từ năm 1969 nhưng mãi đến tận năm 1976, Viễn Phương mới được trở ra Bắc để thăm Người. Nói là thăm, nhưng thực ra là một cuộc viếng thăm lăng của Người bởi Người đã ra đi từ lâu.

Nhưng ở đây, nhà thơ rõ ràng không dùng từ “viếng” như mục đích thực sự của chuyến đi này mà lại dùng từ “thăm”. Bởi vì tác giả cũng như những người con Nam Bộ khác ra đây để thăm lại nhà, thăm lại vị Cha già của mình. Cũng bởi vì, miền Nam là một phần máu thịt của đất nước Việt Nam, là một phần “nhà” mà Bác Hồ luôn đau đáu vào thăm mà chưa có dịp:

Bác thương miền Nam nỗi thương nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha

(Tố Hữu)

Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã được nhà thơ sử dụng ở đây như một cách để làm giảm đi nỗi đau xót vô vàn đang trào dâng trong lòng ông. Bao nhiêu xúc cảm đau xót cứ thể trào ra trong lòng như một cơn sóng mạnh mẽ vậy mà ấn tượng đầu tiên để lại trong lòng tác giả lại là “hàng tre”. Ẩn hiện trong làn sương sớm long lanh bao phủ quanh lăng Bác là hàng tre xanh.

Cây tre từ bao đời nay đã trở thành một loài cây biểu tượng cho dân tộc ta, cho tinh thần bất khuất của cha ông ta. Từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, tới những cây chông, cây gai vót nhọn làm cản bước quân thù. Cây tre cứ thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện lên “bát ngát”.

Không phải bất cứ từ nào khác mà lại là “bát ngát” tạo cho người đọc như cảm thấy sự cao lớn, sự mênh mông, rộng lớn của những hàng tre bao quanh lăng của Người. Ấn tượng đó của nhà thơ chợt chuyển thành một sự cảm thán.

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy rằng những cây tre kia như ý chí con người Việt Nam qua bao năm tháng luôn luôn bất khuất, kiên cường, hiên ngang. Dù có trải qua “bão táp mưa sa” nhưng họ vẫn đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên. Từ láy “xanh xanh”được sử dụng ở đây như để biểu đạt, để diễn tả rằng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn “xanh” màu xanh bất diệt.

“Xanh xanh” tức là lúc nào cũng vậy, lúc nào cũng một màu xanh như thế. Lớp con cháu kế tiếp lớp cha ông luôn mạnh mẽ để bảo vệ cho dân tộc ta. Cả khổ thơ thứ nhất bao trọn là những xúc cảm đầu tiên của tác giả khi lần đầu được tới thăm lăng Bác. Trong khổ thơ đó, có nỗi đau xót mất đi Bác, nhưng ẩn chứa trong đó phảng phất là niềm tự hào dân tộc.

Bước sang khổ thơ thứ hai, chúng ta theo chân Viễn Phương tiến dần vào lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm ấy, nhà thơ chợt thấy hiện ra hình ảnh của mặt trời. Một mặt trời của vũ trụ luôn luôn luân chuyển không ngừng nghỉ ngày và đêm. Mặt trời ấy “ngày ngày” đi qua lăng của Bác, sưởi ấm cho Người. Và từ đó, nhà thơ cũng chợt nhận ra “một mặt trời trong lăng rất đỏ”.

Một hình ảnh ẩn dụ vô cùng tinh tế và đặc sắc. Bác Hồ – Người là vầng dương, con thuyền chỉ hướng cho dân tộc Việt Nam đi qua những ngày tăm tối nhất. Nếu như mặt trời của vũ trụ mỗi ngày tỏa xuống nhân gian thứ ánh sáng ấm áp, thì Bác Hồ – mặt trời của dân tộc Việt Nam cũng đã và luôn tỏa ra một nguồn ánh sáng vĩ đại soi tỏ con đường cho dân tộc. Trong thơ ca đã có không ít tác giả sử dụng hình ảnh của mặt trời để so sánh với Bác. Như Tố Hữu cũng đã từng nói:

Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng

(Sáng tháng năm)

Nhưng ở đây, với Viễn Phương vẫn là hình ảnh ấy, mà lại mang một màu sắc riêng biệt vô cùng. Nếu như mặt trời ngoài kia mỗi ngày đều đỏ rực, thì mặt trời trong lăng đây cũng đỏ rực sắc màu của chính mình. Màu đỏ ấy toát lên từ phẩm chất con người của Hồ Chí Minh, từ lý tưởng vĩ đại mà Người mang tới, từ ý chí bất khuất, kiên cường đấu tranh mà Người đã thể hiện, từ công lao mà Người đã làm nên.

Tất cả những điều đó tạo nên một mặt trời rực rỡ, sánh ngang bằng với mặt trời của vũ trụ ngoài kia. Tác giả đã khéo léo sử dụng ở đây điệp từ “ngày ngày”. “Ngày ngày” tức là sự liên tục của thời gian, sự lặp lại tuần hoàn của thiên nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn luôn sáng tỏ như mặt trời kia vậy. Lần thứ hai, “ngày ngày” được lặp lại khi diễn tả dòng người đang lặng lẽ vào lăng thăm Người. Hàng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh lặng, trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn.

Ở đây, tác giả đã thật tinh tế khi không phải là đoàn người, hàng người mà là dòng người. Điều này khiến cho người đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng người vào viếng Bác. Cả đoàn người ấy cứ lặng lẽ “đi trong thương nhớ”, thương nhớ vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc. Nỗi nhớ ấy đã kết thành “tràng hoa”, dòng người ấy đã trở thành một tràng hoa dài vô tận để dâng lên Bác Hồ.

Và Viễn Phương hòa cùng dòng người ấy đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” của Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” là số tuổi của Bác Hồ. Cả cuộc đời Người, với bảy mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình. Tác giả muốn thể hiện sự cống hiến lớn lao mà Bác Hồ đã hi sinh của đất nước. Và sự hi sinh ấy đã giúp cho cả dân tộc được sống trong hòa bình.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Có lẽ đây là khổ thơ đắt giá nhất bài thơ. Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm biết ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác. Tiếp theo đây, nhà thơ lại tiếp tục cuộc hành trình vào viếng thăm lăng Bác. Và giờ đây, ông đã được gặp gỡ Người cha già mà mình hằng yêu quý, kính trọng:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim

Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon. Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên giờ đây, khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình.

Cả cuộc đời Người đã cống hiến hết sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vậy nên giờ đây, Người đang “nằm trong giấc ngủ yên bình”. Đối với nhà thơ hay với bất cứ ai, Bác như vừa mới đây năm xuống, thưởng cho mình một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả, khuya sớm lo cho cuộc đấu tranh của nhân dân:

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Một lần nữa, Viễn Phương đã phải sử dụng tới biện pháp nói giảm nói tránh để làm bớt đi không khí đau thương đang tràn ngập trong tâm hồn ông. Bác Hồ đang nằm đó, giữa một giấc ngủ bình yên hơn bao giờ hết, giữa một thứ ánh sáng nhẹ nhàng lan tỏa trong không gian.

Thứ ánh sáng đó có thể là một ngọn đèn ngủ dìu dịu được thắp trong lăng Bác. Nhưng cũng có thể nhà thơ đang muốn nói tới vầng trăng thiên nhiên – vầng trăng mà Bác Hồ yêu thích nhất. Có thể thấy, thơ của Người luôn tràn ngập hình ảnh của trăng. Ví dụ như:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Hay:

Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền

Có lẽ ở đây, tác giả không chỉ đơn giản là muốn nói tới ngọn đèn trong lăng Bác mà còn muốn nói tới vầng trăng thiên nhiên ngoài kia. Bởi sinh thời, Bác Hồ là người yêu trăng hơn bao giờ hết. Giờ đây khi được bước sang một thế giới khác, yên bình hơn, Người muốn được hòa mình cùng với vầng trăng của thiên nhiên, luôn luôn sáng tỏ, đẹp đẽ, trường tồn cùng thời gian như lý tưởng của Người vậy. Và tiếp theo, sau bao nhiêu sự kìm nén, nhà thơ đã phải bật lên tiếng nấc nghẹn ngào:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim

Một lời trách cứ mới đau đớn làm sao! Lời trách cứ ấy là lời trách trời xanh kia. Bầu trời thì vẫn vậy, bao năm tháng vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu, vậy mà vị Cha già của dân tộc sao đã phải ra đi? Vẫn biết quy luật sinh tử của tạo hóa nhưng vẫn thấy xót xa, đau đớn vô cùng. Dù lý trí luôn tỏ tường rằng quy luật của thiên nhiên là bất biến, nhưng nhà thơ vẫn “nghe nhói ở trong tim”.

Nỗi đau xót nghẹn ngào ấy đã trở thành lời trách cứ đối với trời xanh. Và cảm giác “nghe nhói” khiến người đọc cũng như đồng cảm được một phần nào đó cảm giác đau xót, quặn thắt tim gan mà tác giả muốn biểu đạt. Thứ cảm xúc ấy dồn nén tới mọi giác quan trên cơ thể con người.

Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến hồi chia ly và cuộc viếng thăm của Viễn Phương với Hồ Chủ tịch cũng vậy. Đến khi phải nói lời từ biệt, nhà thơ đã vô cùng xúc động. Sự xúc động ấy cùng với nỗi niềm đau xót kìm nén từ ban đầu đã bật thành một tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Ngày mai, con phải rời xa Cha, rời xa vị Cha già kính mến để trở lại miền Nam xa xôi, biết bao giờ mới có dịp được thăm lại Người. Chính vì thế, nhà thơ đã bật lên tiếng nức nở. Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào. Chính lúc này, trong tâm nhà thơ chợt hiện lên một ước nguyện:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Ước nguyện đó là được ở lại bên cạnh Người – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ để làm “một con chim hót”, “một đóa hoa”, “một cây tre trung hiếu”. Tất cả chỉ đều là những vật vô cùng nhỏ bé, tầm thường, nhưng lại là mong ước của tác giả.

Bởi vì chim hót sẽ ru thêm giấc ngủ ngon cho Người, hoa sẽ tỏa ngát hương thơm và một cây tre nhỏ mãi trung hiếu với nơi đây. Nhịp thơ ở đây chậm đi một nhịp so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi ấy như muốn kéo dài thêm giây phút sắp phải chia xa. Kết lại bài thơ, hình ảnh cây tre lại một lần nữa xuất hiện như một vòng lặp tuần hoàn.

Cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam, biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn ở lại bên lăng Hồ Chủ Tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ lối. Qua đó, nhà thơ càng muốn khẳng định một điều, đó là sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Bác đem tới cho chúng ta.

Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc cũng từ đó, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Bác và lý tưởng mà Bác đã gây dựng.

Bài thơ đã kết lại nhưng lại mang đến cho người đọc chúng ta thật nhiều cảm xúc. Chỉ một cuộc viếng thăm thôi, nhưng lại chứa đựng trong đó bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu tình yêu sâu sắc của một người con Nam Bộ đối với Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bài thơ được cấu tứ theo lối tám chữ. Lối thơ này được kết cấu như một câu chuyện kể với mạch văn chậm rãi khiến cho người đọc cảm nhận được hết tất cả những tình cảm mà nhà thơ muốn diễn tả.

Cùng với hệ thống biện pháp tu từ mà nhiều nhất là nói giảm nói tránh, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã làm sống dậy trong lòng bạn đọc sự yêu kính dành cho Bác, và cũng từ đó hòa chung vào niềm đau xót cũng như ước muốn mà tác giả muốn thể hiện.

“Hồ Chí Minh – Người ở khắp muôn nơi”. Đây là lời khẳng định của Tố Hữu trước sự hiện diện của Bác. Bác tuy đã đi xa nhưng sự hiện diện của Người thì còn mãi trong mỗi người con Việt Nam. Người là vị cha già đáng kính là “hồn của muôn hồn”. Sự ra đi của Người có đau xót, có xót xa, nhưng lý tưởng của Người để lại, ý chí và phẩm chất của Người sẽ mãi là tấm gương soi tỏ con đường mà dân tộc Việt Nam sẽ đi và mang vinh quang trở về. Đó cũng là lời mà Viễn Phương muốn ngỏ qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!