Updated at: 24-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải” chuẩn nhất 04/2024.

Dàn ý

1. Mở bài

– Vài nét về nhà thơ Thanh Hải: Một nhà thơ có thể nói là đã cống hiến cả đời mình cho cách mạng.

– Giới thiệu về hoàn cảnh ra đời đặc biệt của bài thơ: được viết trong những ngày cuối cùng Thanh Hải nằm trên giường bệnh, cả cuộc đời ông đã dùng để cống hiến cho cách mạng, giờ đây ông lại cất lên niềm khát khao, niềm mong mỏi có thể tiếp tục cống hiến “mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời này.

2. Thân bài

a. Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất nước (Khổ 1)

– Nhà thơ vẽ ra trước mắt độc giả bức tranh thiên nhiên mùa xuân với:

+ Không gian: cao rộng của bầu trời, dài rộng của “dòng sông xanh”

+ Âm thanh: âm thanh rộn rã vui tươi của “chim chiền chiện”

+ Màu sắc: xanh của dòng sông, tím của hoa

⇒ Nghệ thuật đảo cú pháp: không gian cao rộng, màu sắc tươi sáng và âm thanh rộn ràng như thiết tha mời gọi níu giữ con người ở lại với cuộc sống, với mùa xuân xứ Huế tươi đẹp này

– Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên:

+ Nhà thơ có cái nhìn trìu mến với cảnh vật

+ Đưa tay ra “hứng” “giọt long lanh”: là giọt sương, cũng có thể là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác chỉ tiếng chim “hót vang trời”

⇒ Cảm xúc ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên, khao khát hòa mình với thiên nhiên đất trời. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ, nói về giọt long lanh và tiếng chim thực chất là nói về những điều tinh túy, đẹp đẽ của cuộc sống con người.

2. Cảm xúc về mùa xuân của đất nước và con người (khổ 2 + 3)

– Mùa xuân của đất nước gắn với hình ảnh người cầm súng (những người làm nhiệm vụ chiến đấu) và hình ảnh “người ra đồng”, “lộc”- niềm hi vọng tươi sáng đang theo họ đi khắp nơi hay hay chính họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước.

– Nhịp độ khẩn trương : “Tất cả như…xôn xao” – Công cuộc xây dựng mùa xuân của đất nước diễn ra khẩn trương, sôi động.

⇒ Nghệ thuật điệp cấu trúc, từ láy…=> Nhà thơ như reo vui trước tinh thần lao động khẩn trương của con người làm nên mùa xuân của đất nước.

– Nhà thơ nhắc lại về lịch sử bốn nghìn năm “vất vả và gian lao” của đất nước đầy tự hào, đồng thời tin tưởng vào tương lai tươi đẹp của đất nước mai sau bằng hình ảnh so sánh đẹp mang nhiều ý nghĩa “Đất nước như vì sao…phía trước”.

c. Ước nguyện của tác giả

– Sự chuyển đổi ngôi thứ “tôi”-> “ta”

=> Nói lên quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng

– Điệp ngữ “ta làm”, nói lên sự quyết tâm, lối liệt kê :con chim, cành hoa, nốt nhạc -> Yếu tố tạo nên mùa xuân

– Nốt nhạc trầm là biểu tượng cho sự cống hiến thầm lặng

=> Liên tưởng anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sapa”, chị quét rác trong “Tiếng chổi tre”

– Giải thích tựa bài thơ

– Điệp ngữ “dù là”

=> Như lời nhắn nhủ giữa người đi trước và người đi sau

– Lối hoán dụ người tóc bạc, tuổi 20 -> tuổi trẻ -> tuổi già -> Sự cống hiến không phân biệt tuổi tác, thứ bậc, giới tính, giai cấp.

d. Lời ngợi ca quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế

– Giai điệu được cất lên chính là điệu hát truyền thống của xứ Huế mộng mơ

– “Mùa xuân ta xin hát”: không chỉ mở ra không gian nó còn mở ra niềm tự hào về lối sống nghĩa tình của cha ông.

=> Bài thơ thể hiện lòng yêu thiên nhiên, đất nước con người, sự cống hiến thầm lặng, mối quan hệ cá nhân và cộng đồng.

3. Kết bài

– Khái quát những đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ: Thể thơ năm chữ, có nhạc điệu trong sáng, thiết tha gần gũi với dân ca, nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, nhiều so sánh và ẩn dụ sáng tạo.

– Liên hệ trình bày khát vọng cống hiến của thế hệ trẻ cho cuộc đời.

I. Thông tin về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả: Thanh Hải

– Tên thật: Phạm Bá Ngoãn

– Nghệ danh: Thanh Hải

– Sinh năm 1930, mất năm 1980

– Quê quán: Phong Điền, Thừa Thiên Huế

– Bắt đầu hoạt động thơ ca văn nghệ giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp

– Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải hoạt động nghệ thuật tại quê hương và là một trong số những tác giả có công đặt nền móng cho văn học Cách mạng ở miền Nam

– Từ 1954 – 1964, Thanh Hải giữ chức vụ cán bộ tuyên huấn

– Từ 1964 – 1967, Thanh Hải phụ trách báo Cờ giải phóng của Huế, sau đó trở thành Ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam

– Sau năm 1975, Thanh Hải ông được bầu làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Ủy viên thường vụ của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, đồng thời giữ vị trí Ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam

Sự nghiệp văn học:

Trong suốt 50 năm, sự nghiệp sáng tác của Thanh Hải được ghi nhận với 5 tập thơ:

– Tập thơ “Những đồng chí trung kiên” xuất bản năm 1962

– Tập thơ “Huế mùa xuân” xuất bản năm 1970 (tập 1) và 1972 (tập 2)

– Ánh Mắt, xuất bản năm 1956

– Tập thơ “Mưa xuân trên đất này” xuất bản năm 1982

Phong cách và nguồn cảm hứng trong sáng tác:

– Cảm hứng sáng tác của Thanh Hải thường lấy từ vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu với cuộc sống

– Phong cách thơ Thanh Hải: ngôn ngữ giàu tính gợi hình, nhạc điệu, chan chứa cảm xúc chân thành. Chất liệu sử dụng để sáng tác rất bình dị, gần gũi nhưng vẫn đậm chất tính triết lý về cuộc đời, hướng về tình yêu cuộc sống tha thiết

2. Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ

a. Hoàn cảnh sáng tác Mùa xuân nho nhỏ

– Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980 trong thời kỳ đất nước đã thống nhất và đang trên đà xây dựng cuộc sống mới giữa vô vàn khó khăn, thử thách.

– Thanh Hải sáng tác “Mùa xuân nho nhỏ” không đầy một tháng trước khi qua đời vì bệnh nặng và nhận điều trị tại bệnh viện Bạch Mai. Vì vậy, có thể nói, bài thơ như một lời tâm niệm chân thành của tác giả, gửi gắm triết lý về lẽ sống cao cả, đẹp đẽ đến thế hệ sau

b. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm

– Trong tiêu đề “Mùa xuân nho nhỏ”, tính từ “nho nhỏ” được tác giả sử dụng nhằm cụ thể hóa, hữu hình hóa hình tượng “mùa xuân” và mang đến nhiều tầng ý nghĩa khác nhau:

Lớp nghĩa thực: nhắc đến mùa xuân của đất trời, của tự nhiên, mang tính chu kỳ, tuần hoàn theo thời gian

Lớp nghĩa ẩn dụ: mùa xuân chính là mong muốn, khát vọng, lí tưởng sống của tác giả. Thanh Hải mong muốn cống hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất cho cuộc đời, cho quê hương và đất nước.

c. Bố cục nội dung

Bài thơ gồm 6 khổ thơ được chia thành 3 phần nội dung, cụ thể như sau:

– Phần một: Phân tích khổ 1 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Cảm xúc của tác giả trước khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên

– Phần hai: Phân tích khổ 2,3 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Cảm nhận của tác giả trước mùa xuân của đất nước

– Phần ba: Phân tích khổ 4, 5, 6 – Khát vọng sống và lý tưởng sống cao đẹp bên trong tác giả.

II. Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

1. Phần 1: phân tích khổ 1 – Cảm xúc của tác giả trước khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên

Mở đầu bài thơ gợi ra một khung cảnh mùa xuân thiên nhiên trong trẻo và tràn đầy sức sống:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.”

Tác dụng của nghệ thuật đảo ngữ động từ “mọc” lên đầu câu:

– Nghệ thuật đảo ngữ giúp người đọc dễ dàng liên tưởng về hình ảnh “một bông hoa” tràn đầy sức sống đang vươn mình lên từ từ khỏi mặt nước để đón nhận và hòa mình vào không khí của mùa xuân

– Động từ được đảo lên đầu câu thơ đã tô đậm thêm sức sống mạnh mẽ đến khác thường của “một bông hoa” trên “dòng sông xanh” mà nhà thơ cảm nhận được

Vẻ đẹp của bức tranh xuân xứ Huế được cảm nhận qua hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc” và “con chim chiền chiện”:

– Những sự vật được tác giả liệt kê đều là những tín hiệu đặc trưng, báo hiệu cho mùa xuân xứ Huế đã đến

– Bức tranh mùa xuân thiên nhiên sinh động với không gian cao rộng, mênh mông của bầu trời dài rộng của “dòng sông xanh”; âm thanh rộn rã vui tươi từ tiếng hót của những chú “chim chiền chiện”; màu sắc rực rỡ với sự kết hợp giữa màu “xanh” của dòng sông, “tím biếc” của hoa

– Sử dụng những gam màu tươi tắn “xanh, tím”, tác giả đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân đầy màu sắc, trong trẻo và tươi sáng

– Sử dụng từ cảm thán “ơi” và “chi”, tác giả đã khiến người đọc liên tưởng đến một chất giọng ngọt ngào, thân thương của một người con xứ Huế, đang bày tỏ cảm xúc trước thiên nhiên

Trước vẻ đẹp của mùa xuân đất trời, bất kỳ ai cũng phải cảm thấy ngỡ ngàng, xao xuyến và mong muốn sở hữu:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.”

Tác giả sử dụng hình ảnh giàu sức gợi “giọt long lanh rơi” để biểu thị:

– Có thể là giọt mưa xuân hay giọt sương mai trong những buổi sáng, long lanh dưới ánh nắng xuân dịu nhẹ

– Xét trong mối tương quan với câu thơ trước, có lẽ “giọt” ở đây chính là tiếng hót của “con chim chiền chiện”. Tiếng hót ấy vang vọng nhưng không hòa vào không gian mà cô đọng lại thành từng “giọt” trong vắt và “long lanh”. Thứ “giọt” ấy đẹp và thuần khiết đến nỗi đã khơi dậy khao khát sở hữu của nhân vật trữ tình. Nó cũng giải thích cho hành động vội vàng đưa đôi bàn tay để hứng lấy của nhân vật. Tiếng chim sau cách dùng từ của tác giả đã chuyển từ cảm nhận bằng thính giác thành cảm nhận bằng thị giác, sau đó là xúc giác. Ở đây, tác giả đã áp dụng thành công nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, mang đến một trải nghiệm mới cho người đọc

– Điệp từ “tôi” hai lần kết hợp với hành động “hứng” cho thấy sự trân trọng của thi nhân trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên. Đồng thời, thể hiện sự tận hưởng, chiếm lĩnh và hòa mình với mùa xuân của nhân vật trữ tình

=> Sử dụng hình ảnh sinh động, nghệ thuật chuyển đổi cảm giác cùng một chút chất nhạc, tác giả đã phác họa được một bức tranh mùa xuân xứ Huế với đầy đủ cả màu sắc, hình ảnh, âm thanh. Qua đó, bộc lộ được cảm xúc ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên, niềm say xưa và khao khát hòa mình với thiên nhiên đất trời của nhân vật trữ tình.

2. Phần 2: Phân tích khổ 2, 3 Mùa xuân nho nhỏ – Cảm nhận của tác giả trước mùa xuân của đất nước

Từ vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã mở rộng tầm nhìn để khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của mùa xuân đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao

Ðất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Ðất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.”

Mùa xuân đất nước được tác giả cảm nhận qua hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”:

– Hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng” biểu trưng cho hai đối tượng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta trong thời kỳ kháng chiến. Đó là nhiệm vụ  chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng kinh tế hậu phương

– Hình ảnh “người cầm súng” kết hợp với hình ảnh “lộc giắt đầy trên lưng” giúp liên tưởng đến vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ. Vào mùa xuân, những vòng lá nảy nở thành những chồi non, lộc biếc, cùng người chiến sĩ ra trận để bảo vệ tổ quốc.

– Hình ảnh “người ra đồng” kết hợp với hình ảnh “lộc trải dài nương mạ” giúp liên tưởng đến khung cảnh màu mỡ của những cánh đồng, được chăm bón bởi những bàn tay khéo léo gieo trồng của những người nông dân nơi hậu phương

Tác dụng của điệp từ “mùa xuân” và “lộc”:

– Điệp từ giúp gợi lên quang cảnh mùa xuân đất trời tươi đẹp với những lộc non đâm chồi

– Ở một tầng nghĩa khác, biện pháp điệp từ là cách tác giả miêu tả thành quả của nhân dân ta trong công cuộc dựng xây hậu phương vững chắc để góp phần bảo vệ tổ quốc

– Điệp từ “tất cả” cùng với những từ láy “hối hả”, “xôn xao” đã làm tăng nhịp điệu câu thơ, tạo nên cảm giác về một nhịp sống sôi động và hối hả, tăng tính cấp bách trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước

Tác giả đã bày tỏ niềm tự hào và niềm tin vào tương lai tươi sáng khi đứng trước mùa xuân tươi đẹp của đất nước:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.”

– Sử dụng hệ thống tính từ “vất vả”, “gian lao”, tác giả đã đúc kết ngắn gọn chặng đường 4000 năm dựng nước và giữ nước qua 4 câu thơ, với biết bao khó khăn, thăng trầm và thử thách. Để có được mùa xuân trong hòa bình như hôm nay, đất nước ta đã phải trải qua biết bao đau thương và mất mát, chứng kiến biết bao hy sinh của ông cha trong lịch sử. Song chính lịch sử 4000 năm ấy đã khẳng định ý chí, sức mạnh và bản lĩnh của dân tộc ta, giúp ta thêm trân trọng mùa xuân trong nền hòa bình hiện tại

Những liên tưởng và ý nghĩa sâu sắc được tác giả thể hiện qua hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao”:

– Hình ảnh “vì sao” khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến nguồn sáng lấp lánh từ vũ trụ, tồn tại vĩnh hằng cùng thời gian

– Khi so sánh “đất nước” với “vì sao” tác giả muốn nhắc đến hình ảnh dân tộc Việt Nam ta trong suốt 4000 năm lịch sử. Nhân dân ta từ trong bóng tối của ách nô lệ, đô hộ từ thực dân và đế quốc đã mạnh mẽ, kiên cường đứng lên phá tan xiềng xích, thoát khỏi phong kiến, thực dân để tự mình tỏa sáng như những vì sao

– Thêm vào đó, ánh sao cũng thể hiện niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng, rộng mở của quê hương, đất nước trong không khí toàn dân cùng nhau xây dựng và đổi mới đất nước mạnh mẽ

– Sử dụng điệp từ “đất nước” đi liền với cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm… đất nước như vì sao…” có tác dụng diễn tả sự vận động đi lên của đất nước qua các thời điểm trong lịch sử và khẳng định sự trường tồn của đất nước là vĩnh cửu

– Sử dụng cụm từ “cứ đi lên” tác giả đã nhấn mạnh ý chí, lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của mình vào tương lai tươi sáng của đất nước và cả dân tộc về tương lai

=> Sử dụng giọng thơ vừa tha thiết vừa trang trọng cùng nhịp điệu sôi nổi, tác giả đã gói trọn niềm yêu mến tự hào, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước, nhân dân

3. Phần 3: Phân tích khổ 3, 4, 5 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Khát vọng sống và lý tưởng sống cao đẹp bên trong tác giả

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế…”

Từ những cảm xúc hạnh phúc đến niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước, Thanh Hải đã viết ra những lời ước nguyện, khao khát thật thiết tha, cảm động:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.”

– Sử dụng đại từ “ta” giúp bộc lộ một trực tiếp tâm niệm của thi nhân trước vẻ đẹp mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đất nước

– Sử dụng điệp cấu trúc ngữ pháp “Ta làm… Ta nhập…” đặt ở vị trí đầu của ba câu thơ trong phần 3 đã khiến cho nhịp điệu thơ trở nên nhẹ nhàng hơn nhịp điệu nhộn nhịp trong khổ thơ trước. Từ đó, khiến cho câu thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về ước nguyện hóa thân, hiến dâng cho quê hương, đất nước của nhà thơ.

Sử dụng hệ thống hình ảnh gần gũi “con chim hót’’, “cành hoa”, “nốt trầm xao xuyến” để thể hiện nhiều cảm xúc, khát vọng bên trong tác giả:

– Các sự vật nhân vật trữ tình lựa chọn để hóa thân đều hết sức giản dị, nhỏ bé. Tuy vậy, chính mong muốn bình thường này đã cho thấy ước nguyện có phần khiêm nhường, cao quý của thi nhân.

– Những hình ảnh tiếng chim và cành hoa có sự đối xứng chặt chẽ với những hình ảnh mở đầu của bài thơ. Điều đó đã khẳng định một lẽ tự nhiên, tất yếu: Tiếng hót của chim vốn để làm vui cho đời; hương sắc của hoa góp phần điểm sắc cho mùa xuân thêm đằm thắm; nốt trầm là nốt nhạc không thể thiếu trong bất kỳ bản hòa ca nào, giúp tạo sự lắng đọng cho giai điệu của mùa xuân

– Các hình ảnh còn gợi cho ta liên tưởng về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người với thiên nhiên, quê hương, đất nước

=> Dù đứng trước bệnh tật và cái chết cận kề nhưng khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp mùa xuân, tác giả chỉ mong muốn cống hiến thật nhiều cho đời, cho đất nước và theo đuổi lẽ sống đó đến hết đời.

Từ khát vọng sống cao quý, mong muốn được cống hiến cho đời, cho cộng đồng, tác giả đã nâng lên thành một lí tưởng sống cao cả. Lí tưởng sống được thể hiện rõ qua 4 câu thơ: 

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.”

– Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc “mùa xuân nho nhỏ” nói lên lý tưởng sống cao đẹp của nhà thơ: Trong muôn vạn vật tươi đẹp đã chứng kiến, tác giả chỉ ao ước được làm một “mùa xuân nho nhỏ”, góp chút vẻ đẹp của mình để tô điểm thêm cho mùa xuân lớn của dân tộc.

Ý nghĩa của việc sử dụng từ láy “nho nhỏ”:

– Cái “nho nhỏ” mà tác giả nói đến cho thấy nhận thức của tác giả về vai trò của bản thân trong cộng đồng. Khi càng biết nhiều, càng mở rộng tầm hiểu biết thì tác giả lại cảm thấy bản thân mình nhỏ bé. Với tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, mong muốn của tác giả chỉ là góp một “mùa xuân nho nhỏ” của bản thân vào mùa xuân lớn của cả dân tộc – một ước nguyện khiêm tốn và giản đơn

– Có lẽ nhà thơ chỉ muốn góp những gì đẹp đẽ và tinh túy nhất của cuộc đời mình cho mùa xuân đất nước

– Sử dụng tính từ “lặng lẽ” đã khắc họa vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của một tâm hồn, lối sống và nhân cách: Mùa xuân của tác giả không có sự ồn ào, khoa trương, nhộn nhịp mà chỉ lặng lẽ, âm thầm hiến dâng. Mong muốn dâng hiến mùa xuân cho đời được thực hiện một cách tự nguyện, tác giả không đòi hỏi bất kỳ sự đền đáp nào. Điều đó là minh chứng rõ ràng cho lối sống đẹp đẽ, khiêm nhường và trong sáng nhất mà con người cần hướng tới trong công cuộc phát triển đất nước

– Sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc ngữ pháp “Dù là… Dù là…”, kết hợp cùng hình ảnh tương phản “tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” tác giả như biến câu thơ trở thành một lời hứa, lời tự nhủ với chính mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn nữa, qua phép nghệ thuật, tác giả muốn ngầm khẳng định sự tồn tại bền vững của lí tưởng sống cống hiến, hi sinh và khát vọng sống cao đẹp

=> 4 câu thơ là lời tổng kết của nhà thơ về toàn bộ cuộc đời mình với các mốc thời gian khác nhau. Đó là một cuộc đời đẹp, xứng đáng để chúng ta suy ngẫm, học tập và noi theo các triết lý sống trong đó

Kết thúc bài thơ, tác giả đã khép lại vẻ đẹp mùa xuân trong giai điệu ngọt ngào, êm dịu của làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.”

Đặc trưng của giai điệu dân ca xứ Huế để thể hiện cảm xúc tận sâu bên trong tác giả:

– Câu “Nam ai” là khúc nhạc buồn thương. Khúc hát phản chiếu con đường đầy hi sinh, gian khổ mà đất nước đã trải qua trong 4000 năm

– Câu “Nam bình” là khúc nhạc êm ái, dịu ngọt. Câu hát giúp gợi ra bức tranh khung cảnh mùa xuân của hiện tại, thanh bình và no ấm

– “Nhịp phách tiền” là điệu nhạc rộn ràng đặc trưng của xứ Huế (quê hương của tác giả). Nhịp phách đã thay nhân vật trữ tình đã khép lại bài thơ với âm hưởng của một cuộc sống mới, tràn trề sức sống của dân tộc

=> Kết thúc bài thơ là tình yêu đời, yêu cuộc sống trỗi dậy thật mãnh liệt. Tình cảm ấy đã trở thành khúc hát tâm tình đầy cảm động, cao quý và đáng trân trọng như chính cuộc đời của tác giả.

III. Tổng kết chung phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

1. Về nội dung

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đã tái hiện thành công vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước qua góc nhìn của nhân vật trữ tình. Qua đó làm nổi bật triết lý sống cao đẹp là sẵn sàng dâng hiến cuộc đời mình cho đất nước, sống vì cộng đồng, tập thể của tác giả.

2. Về nghệ thuật

– Sử dụng thể thơ năm chữ và cách gieo vần liền giữa các khổ thơ góp phần tạo ra sự liền mạch của cảm xúc.

– Toàn bài thơ sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh thơ giản dị, trong sáng nhưng vẫn sinh động và  giàu sức gợi.

– Bài thơ diễn tả cảm xúc chân thành, tha thiết của tác giả, trở thành tiếng lòng của nhà thơ Thanh Hải với đất nước và với cuộc đời.

Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải- mẫu 1

Cũng như mùa thu, mùa xuân cũng là chủ đề cho nguồn cảm hứng sáng tác vô tận của biết bao thi sĩ xưa và nay để họ tạo nên chất ngọt của muôn ngàn vần thơ kì diệu khác nhau:

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một nhành mai.
[Mãn Giác (1052-1096) – một Thiền sư đời Lý]
hay bài Buổi sớm mùa xuân:
Ngủ dậy tung song cửa
Nào hay xuân đã sang
Một đôi bươm bướm trắng
Gặp hoa, cánh vội vàng.
[Vua Trần Nhân Tông (1278-1320)]

Và mùa xuân trong thơ của Thanh hải cũng thật đẹp, thật nhiều ý nghĩa. Không những đẹp từ cảnh thiên nhiên mà đến tâm hồn Thanh Hải cũng thật đẹp. Đó là mùa xuân trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” mà tác giả sáng tác không bao lâu trước khi qua đời (1980). Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên, đất nước, con người và khát khao cống hiến của nhà thơ, bộc lộ niềm lạc quan, vui say trong cảnh đất trời vào xuân nhưng cũng đầy trăn trờ và suy nghĩ.

Trước lúc vĩnh viễn ra đi, Thanh Hải đã để lại cho đời những vần thơ thật nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông, nhà thơ vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến cho đời.
Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Đây là bức tranh mùa xuân được vẽ lên bằng tâm hồn của người nghệ sĩ với những nét chấm phá rất dễ thương rất tuyệt vời, một nét đặc trưng rất Huế đó là hình ảnh màu “tím biếc ” của “một bông hoa” hòa với màu “xanh” của “dòng sông”. Một màu tím gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cả hai màu sắc đều hài hòa như vẫy gọi mùa xuân. Động từ “Mọc” xuất hiện một cách đột ngột trong câu thơ như một lời báo hiệu của sự trỗi dậy của sức vươn lên mạnh mẽ của một bông hoa giữa bốn bề sông nước mênh mông rộng lớn. Cả hai hình ảnh “dòng sông xanh” và “hoa tím biết” ấy đã gợi lên trong lòng người đọc một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống.
Bức tranh xứ Huế vào xuân lại càng sinh động hơn bởi tiếng hót líu lo của chim chiền chiện:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót cho mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Tiếng hót của chim chiền chiện vút cao, lảnh lót như mở thêm không gian, gợi cảm, trong trẻo, đáng yêu. Từ cảm thán “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ tạo cho ta một cảm giác bình yên, sự dịu dàng tha thiết của xứ Huế cố đô. Tác giả lắng nghe tiếng chim hót, nghe bằng tai chưa đủ, nhà thơ còn nghe bằng của trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, bằng sự liên tưởng độc đáo. Từ “giọt” được hiểu theo rất nhiều nghĩa: có thể là “giọt nắng bên thềm”, giọt mưa xuân, giọt sương sớm, tiếng hót của những chú chim chiền chiện hay là giột nước mắt hạnh phúc của tác giả? Sự chuyển đổi cảm giác trong tác giả thật kì lạ từ thị giác sang thính giác và giờ là xúc giác “tôi đưa tay tôi hứng” Sự chuyển đổi cảm giác này thể hiện sự say sưa, ngây ngất, nâng niu của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời vào xuân. Niểm vui đó, niềm hạnh phúc đó hoàn toàn khác với tâm trạng buồn chán trước cảnh xuân đất nước đang đắm chìm trong đêm đen nô lệ:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Đem chi xuân đến gợi thêm sầu?
Với tôi, tất cả như vô nghĩa,
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Với những vầng thơ giản dị nhưng Thanh Hải vẫn miêu tả được mùa xuân cách mạng quê hương của tác giả:
“Mùa xuân người cầm súng,
Lộc giắt đầy trên lưng.
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc trải dài nương mạ.
Tất cả như hối hả,
Tất cả như xôn xao…”
Hai câu thơ đầu tác giả muốn nhấn mạnh đến mùa xuân của người cầm súng và của người ra đồng biểu thị cho hai nhiệm vụ chính lúc bấy giờ là bảo vệ và xây dưng đất nước. Từ “Lộc” có hai tầng nghĩa: “Lộc” có nghĩa đen là cành non, lá mới, là cành lá ngụy trang trên lưng người chiến sĩ ra mặt trận. “Lộc” còn là mạ non theo chận người nông dân ra đồng ruộng. Với biện pháp ẩn dụ “Lộc” còn mang ý nghĩa tượng trưng hơ. “Lộc” biểu thị cho một niềm tin, một sức sống, là sự trẻ trung vươn lên quyết giành chiến thắng, giành lấy những kết quả tốt đẹp, đem sự bình yên đến với mọi nhà. Mà chính người chiến sĩ sẽ mang mùa xuân yên vui đến cho mọi nơi trên đất nước. “Lộc” tượng trưng cho sự ấm no, “trúng mùa” của công việc sản xuất. Người dân lao động muốn mình cống hiến hết sức lực, tài năng vào công việc xây dựng quê hương ngày một giàu mạnh bởi vậy tất cả mọi người đều tự nguyện:
“Tất cả như hối hả,
Tất cả như xôn xao…”
Điệp từ “tất cả” xuất hiện liên tục nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chung của mỗi người. Từ láy “hối hả”, “xôn xao” gợi hình, gợi tả thể hiện nhịp độ khẩn trương, tươi vui, thể hiện nhiệt tình và trách nhiệm của những con người đang bắt tay xây dựng chủa nghĩa xã hội.
Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất và vào gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Một lời tổng kết về lịch sử đất nước “bốn ngàn năm” với bao “vất vả”, “gian lao” bao nhiêu sóng gió thăng trầm. Để ca ngợi truyền thống đó, Nguyễn Trãi đã từng viết:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Không tự hào sao được khi đất nước đi lên từ “vất và”, “gian lao”. Từ ngữ giản dị nhưng cũng đã tái hiện cuộc hành trình lịch sử của dân tộc ta khi chiến tranh cũng như thiên tai “sáng chống bão giông, chiều ngăn nắng lửa”, đói nghèo không buông. Đúng là:
“Việt Nam ơi Việt Nam
Riếng súng tiếng gươm không bao giờ dứt
Bởi Tổ quốc ta không bao giờ chịu nhục
Dân tộc ta không chịu cuối đầu”
Thế nhưng đất nước vẫn vươn mình về phía trước, vẫn rạng ngời “như vì sao”.
Cách so sánh đầy ấn tượng. Một vì sao lấp lánh không chói lọi nhưng bền vững, trường tồn. Vì sao ấy còn là lá cờ Tổ quốc cứ tung bay, hãnh hiện cùng bạn bè năm châu bốn bể. Từ “cứ” khẳng định mạnh mẽ qui luật tất yếu “cứ đi lên phía trước” của dân tộc ta. Đó là niềm tin của tác giả vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển không ngừng của đất nước.
Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:
“Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”
Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa để hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”. Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau. Quan niệm sống ấy của Thanh Hải thật giống với quan niệm sống của Tố Hữu:
“Nếu là con chim, chiếc lá,
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”
Đến khổ thơ tiếp theo, tác giả đã giúp ta hiểu rõ hơn nhan đề của bài thơ – Mùa xuân nho nhỏ:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
“Mùa xuân” là ý niệm chỉ thời gian nhưng “mùa xuân nho nhỏ ở đây của tác giả đã trở thành lẽ sống đẹp, lý tưởng. “Lặng lẽ dâng” ước vông tha thiết khiêm tốn cả cuộ đời cho đi mà không hề đòi hỏi. “Lặng lẽ” một hành động âm thần, tự nguyện không ồn ào, khồng cần mọi người biết đến. Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng phải luôn biết cố gắng hết tâm trí để phục vụ và hiến dâng cho quê hương, đất nước mến yêu của chính mình. Già – cống hiến tuổi già, trẻ – cống hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng trước chính bản thân mình. Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn lặng lẽ dâng hiến cho đời và bài thơ này là một trong những bài thơ cuối cùng. “Một mùa xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.
Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình thắm thiết:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình”

Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất và bài thơ này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời của ông. Ông đã giải bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau.
Tóm lại bài thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ chặt chẽ, giọng điệu đã thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan trọng “nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh Hải thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời. Nhà thơ ước nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung và bài thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.

Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải- mẫu 2

Lắng tai nghe…
Khúc nhạc mùa xuân đang mời gọi
Dõi mắt nhìn…
Sắc xuân lung linh tràn ngập cả đất trời.

Vâng! Xuân về đánh thức ngàn cây cỏ nội đâm chồi nảy lộc. Xuân đến còn đánh thức nguồn cảm xúc vô tận của thi nhân. Lắng lòng lại, ta nghe đâu đây sắc xuân, tình xuân đang hòa quyện trong vũ điệu giao mùa, đang rạo rực trong tâm hồn Thanh Hải để “Mùa xuân nho nhỏ” ra đời. Bài thơ với lời giản dị, tứ thơ sâu lắng nhưng ôm trọn tâm hồn đôn hậu, bình dị, thiết tha yêu cuộc sống của nhà thơ.

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải viết vào tháng 11 năm 1980, ngay trên giường bệnh và chỉ ít lâu sau tháng 12 năm 1980, nhà thơ mãi mãi ra đi. Ở giữa mùa đông giá rét của xứ Huế, đối mặt với biên giới giữa sự sống và cái chết nhưng không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh. Ngược lại, tâm hồn thi nhân càng nảy nở, bừng sức sống để cảm nhận sâu sắc về một mùa xuân nồng ấm tình người, khiến ngòi bút nở hoa để một “Mùa xuân nho nhỏ” ấm áp tâm tình của thi nhân trước thiên nhiên, con người, cuộc sống.
Mùa xuân là mùa khởi đầu cho một năm mới, là mùa muôn hoa đua nở đem đến hương sắc, vị ngọt của sức sống, tình yêu, hạnh phúc. Trước vẻ đẹp diệu kỳ của mùa xuân, các thi nhân đều cảm nhận bằng con mắt trìu mến, thân thương. Mùa xuân hiện ra với muôn vàn sắc màu rực rỡ:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời.”
(Nguyễn Trãi)

Vũ điệu của mùa xuân đã rót vào tâm hồn Thanh Hải niềm cảm xúc dâng trào. Thật đơn sơ, lặng lẽ mà mùa xuân vẫn hiện về tràn đầy sức sống trào dâng:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.”

Giản dị mà đầm ấm xiết bao! Thanh Hải đã khéo chọn cho mình một bức tranh xuân với gam màu ấm áp, mà dịu dàng, trang nhã. Một màu xanh của dòng Hương Giang mênh mông, êm đềm, một màu tím biếc của bông hoa nhỏ bé. Sự sắp xếp hết sức cân đối hài hòa của bức tranh thơ, cái to lớn bao la không lấn át cái nhỏ nhoi, bé bỏng. Màu xanh của dòng sông làm nền cho sắc tím của hoa càng nổi bật. Chỉ vài nét phác thảo, Thanh Hải đã vẽ nên bức tranh xuân thơ mộng hài hòa. Bằng biện pháp đảo ngữ “mọc giữa dòng sông xanh”, tác giả đã tô đậm hình ảnh một bông hoa tím bé nhỏ mà tràn đầy sức sống mãnh liệt, vươn lên sự sống trong điều kiện có phần khắc nghiệt để hòa cùng vạn vật giữa vũ trụ bao la vô tận. Hình ảnh thơ thật nhẹ nhàng, thanh thoát, màu hoa tím biếc nhè nhẹ xuôi dòng Hương Giang xanh thẳm thật thơ mộng lãng mạn, quyến rũ đến lạ thường! Một màu tím thủy chung đặc trưng của con người xứ Huế mộng mơ, trầm tư, cổ kính.

Trong không gian tĩnh lặng của mùa xuân bị khuấy động bởi âm thanh ngân vang đầy trìu mến chất chứa niềm vui rộn rã:
“Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.”

Mùa xuân không chỉ với sắc màu hài hòa mà bức tranh xuân ấy bỗng nhộn nhịp hẳn lên với tiếng chim hót vang trời chào đón ngày mới. Không gian tươi vui ấy làm xao động đến tâm hồn nhạy cảm của thi nhân. Thanh Hải đang lắng tai nghe tiếng chim chiền chiện cao vút trong không trung. Tác giả đặt từ “Ơi” vào câu thơ như một lời thốt lên ngạc nhiên thích thú, như một nốt nhạc ngân vang trong bản trường ca mùa xuân vô tận. Tiếng chim hót như rót vào tâm hồn nhà thơ một niềm trìu cảm. Tâm hồn nhà thơ đang tràn ngập niềm vui để ngôn từ thốt lên “hót chi mà” như một lời trách yêu đầy thân thương. Tiếng chim chiền chiện hát vang lừng trong trẻo cao vút như nốt thăng rộn rã của mùa xuân. Tiếng hát ấy cứ kéo dài, ngân nga rồi lan tỏa hòa quyện vào bầu trời xuân kèm không gian bừng sáng, rộn ràng. Trong dòng cảm xúc tuôn trào trước mùa xuân, Thanh Hải như cảm nhận được hơi thở nồng ấm của mùa xuân, hương vị ngọt ngào của mùa xuân, sắc xuân tình xuân chan chứa:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”

Nhà thơ đón nhận mùa xuân bằng thị giác, thính giác và cả xúc giác. Nhà thơ đưa tay hứng lấy từng giọt gì đang long lanh rơi? Giọt sương chăng? Hay giọt nắng? Hay những giọt âm thanh của tiếng chim? Mà đó chính là những giọt mùa xuân, giọt hạnh phúc của tình đời như đượm thắm cả đất trời, hòa nguyện vào tâm hồn thi sĩ. Thanh Hải xòe bàn tay mình ra để cảm nhận những hương vị ngọt ngào của mùa xuân bằng thái độ trân trọng, nâng niu áp vào trái tim mình. Tác giả đã cụ thể hóa từng giọt mùa xuân như chan hòa vào lòng đất mẹ để muôn hoa khoe sắc thắm để sức sống dâng trào, để tâm hồn con người tràn ngập niềm vui.

Trong vũ điệu của mùa xuân, ta không chỉ thấy được vẻ đẹp quyến rũ của mùa xuân thiên nhiên mà con người bắt gặp mùa xuân trẻ trung, sôi nổi của con người Thanh Hải đưa ra hai hình ảnh cụ thể, tiêu biểu của đất nước đó là người lính và người nông dân:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.”

Hình ảnh lộc non là biểu tượng cho sức sống mới vươn lên. Lộc của lính là cành lá ngụy trang. Những cành lá ngụy trang biến thành lộc đầu mùa được mang đến theo từng bước chân người lính. Lộc mà người chiến sĩ mang đến cho chúng ta là xương máu mà các anh đổ xuống, là công sức bảo vệ mùa xuân thanh bình của dân tộc, gieo niềm hạnh phúc đến mọi nhà. Người lính biểu trưng cho những con người bảo vệ Tổ quốc và người nông dân là những con người tiêu biểu trong công cuộc xây dựng đất nước. Bằng hình thức sóng đôi hài hòa, âm hưởng câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối. Từ bàn tay người nông dân “lộc trải dài nương mạ”. Bàn tay của “người ra đồng” tô điểm cho mùa xuân đất nước. Đôi bàn tay kì diệu của những người họa sĩ ấy đã vẽ nên những mảng xanh của niềm tin, hi vọng lên đất nước. Cũng như người cầm súng, lộc của người ra đồng mang đến cũng đáng trân trọng biết bao. Lộc mà người nông dân tặng là mồ hôi, là bát cơm gạo, là cơm no áo ấm. Người cầm súng, người ra đồng là hình ảnh rất tiêu biểu cho những con người đóng góp, cống hiến cả thân mình để làm nên mùa xuân Tổ quốc.

Giai điệu rộn rã của mùa xuân, nhịp sống con người chừng như hối hả hơn, xôn xao hơn:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.”

Tâm hồn con người hòa quyện vào thiên nhiên, hòa quyện vào giai điệu mùa xuân. Điệp từ “tất cả” như nhấn mạnh nhịp điệu cuộc sống, mùa xuân. Lời thơ thể hiện niềm hân hoan, rung động trong tâm hồn tác giả. Các cặp từ láy “hối hả”, “xôn xao” vừa gợi cảm vừa gợi hình, nhịp điệu khẩn trương, phấn khởi, rộn rịp, tưng bừng khơi gợi niềm vui náo động trong lòng người.

Âm hưởng của mùa xuân tràn ngập cả thiên nhiên, hòa vào tâm hồn con người những niềm rung động. Bất giác Thanh Hải chạnh lòng nghĩ đến quê hương đất nước, âm hưởng câu thơ bỗng trầm buồn, sâu lắng:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”

Trong giai điệu trầm lắng suy tư, câu thơ như đưa ta trở về với quá khứ bốn ngàn năm lịch sử. Trải dài suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước, Tổ quốc ta đã trải qua bao biến động, thăng trầm. Ngày từ buổi đầu dựng nước, dựng nước đã đứng trước nguy cơ xâm lược của kẻ thù. Câu chuyện mang màu sắc huyền sử về Thánh Gióng, cậu bé ba tuổi làng Phù Đổng cất tiếng nói đầu tiên là tiếng nói yêu nước. Một ngàn năm nô lệ cho phong kiến phương Bắc đầy đau thương, tủi nhục, những hình ảnh của những người phụ nữ kiên trinh “chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”. Năm 938, với chiến thắng oanh liệt của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đã mở ra một kỉ nguyên mới của độc lập tự chủ. Những vần thơ bỗng trầm lắng suy tư như gợi nhớ về một thời kỳ đau thương mà anh dũng. Trong thời kỳ ấy sản sinh ra những người con trưởng thành từ đất mẹ đầy gian nan, vất vả nhưng luôn giành chiến thắng:
“Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên.”
(Nguyễn Đình Thi)

Đã qua bao cuộc biến động của lịch sử, đất nước, con người Việt Nam vẫn kiên cường anh dũng, hiên ngang vượt qua những thử thách đầy cam go, quyết liệt. Từ “cứ” vang lên như một lời khẳng khái hùng hồn, một niềm tin bất diệt của Thanh Hải về tương lai đất nước đẹp lung linh, lấp lánh như những vì sao trên bầu trời Tổ quốc. Đó là cách so sánh thật độc đáo và mới lạ, là sức liên tưởng vừa hiện thực vừa lãng mạn như khơi gợi trong lòng người đọc một hình ảnh đẹp về tình yêu quê hương đất nước.

Trong cảm xúc về mùa xuân đang dâng trào nhà thơ bỗng muốn hóa thân:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.”

Cái giai điệu nhè nhẹ, du dương, êm ái, ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp, những luyến láy, điệp ngữ “ta làm…, ta làm…, ta nhập” cứ xôn xao, réo rắt mãi trong lòng người đọc, chừng như ta được bay bổng theo ước mơ của tác giả. Các động từ “làm”, “nhập” thể hiện một sự hóa thân kì diệu. Cái “ta” bây giờ không còn riêng là cái ta của tác giả mà nó đã hòa nhập, đồng điệu với cái ta của tất cả mọi người. Các hình ảnh “con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm xao xuyến” mang ý nghĩa biểu lộ một lẽ sống, niềm tâm niệm của Thanh Hải đối với Tổ quốc, Nhân dân. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh – Hoài Chân đã từng nhận xét: “Mỗi bài thơ hay là một cánh cửa mở cho tôi đi vào tâm hồn” (Thi nhân Việt Nam). Vâng! Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã mở cửa cho tất cả chúng ta cảm nhận một trái tim khiêm tốn bình dị, đôn hậu, chân thành của nhà thơ. Không ước mơ cao xa, Thanh Hải chỉ nhỏ nhẹ xin làm một tiếng chim hót góp tiếng ca tươi vui vào giai điệu rộn rã của mùa xuân, một cánh hoa nhỏ bé giữa rừng hoa muôn ngàn sắc thắm của dân tộc. Thanh Hải đã khéo mượn vẻ đẹp thanh khiết của thiên nhiên, cuộc đời để thể hiện niềm mong ước thiết tha được sống có ích, đem lại hương sắc, niềm vui tô điểm cho mùa xuân đất nước. Khát vọng sống là trọn đời hiến dâng của Thanh Hải cũng gặp được nét đồng điệu trong tâm hồn các nhà thơ khác:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là đâu chỉ nhận riêng mình.”
(Tố Hữu)

Nhà thơ cũng có ước mơ nguyện sống là phải cho, phải cống hiến. Đó là quan niệm sống đẹp đúng đắn. Say trong vũ khúc mùa xuân, khúc nhạc lòng Thanh Hải cứ ngân lên như cây đàn muôn điệu. Đọc khổ thơ ta mới cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát vọng cháy bỏng cống hiến cho đời. Trong bản hòa ca trầm bổng của mùa xuân, Thanh Hải chỉ mong được làm một và chỉ một “nốt trầm xao xuyến”. Một nốt trầm ấy lặng lẽ, đơn sơ, nhỏ nhẹ nhưng lại không thể thiếu trong bản giao hưởng mùa xuân. Cái âm thanh trầm lắng của nốt trầm trong bản hòa ca càng làm tăng thêm sức gợi cảm trong giai điệu gọi mùa “Em ơi! Mùa xuân đến rồi đó!”. Cảm hứng ấy càng thêm mãnh liệt khi ta ngâm khẽ những vần thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Âm hưởng của nốt trầm ấy cứ mãi du dương để lại dư âm ngọt ngào trong lòng người sau những nốt thăng cao vút, rộn rã của cuộc đời. Thật khiêm nhường nhà thơ nguyện được hóa thân thành “nốt trầm xao xuyến” để nhập vào khúc ca tiếng hát của cuộc đời một cách âm thầm, lặng lẽ, muốn đem tài năng, sức lực nho nhỏ của mình để góp phần cho sự nghiệp xây dựng hòa bình, đổi mới của đất nước.

Tất cả khát vọng như lắng lại trong tâm hồn nhà thơ như một niềm cảm xúc:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời.”

Mùa xuân là khái niệm trừu tượng chỉ thời gian. Thanh Hải đã cụ thể hình ảnh “nho nhỏ” thể hiện một tâm hồn bình dị, lặng lẽ cống hiến. Lặng lẽ thôi mà sao đẹp biết bao, dạt dào như sóng triều dâng. Trong lời tự tình của tác giả làm chúng ta liên tưởng đến những con người trong “Lặng lẽ SaPa” của Nguyễn Thành Long, người chiến sĩ của Lê Anh Xuân trong “Dáng đứng Việt Nam”:
“Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.”
(Lê Anh Xuân)

Lật tiếp những dòng thơ của Thanh Hải, ta lại liên tưởng đến những chiến sĩ, những cô gái thanh niên xung phong đã miệt mài, âm thầm cống hiến cả tuổi xuân phơi phới tươi đẹp cho Tổ quốc:
“Em đã lấy tình yêu Tổ quốc thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom.”
(Lâm Thị Mỹ Dạ)

Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại bảo vệ Tổ quốc, cống hiến luôn là khát vọng cháy bỏng ngày đêm thường trực trong tâm hồn Thanh Hải. Trở về với dòng chảy lịch sử cách đây sáu trăm năm, Nguyễn Trãi đã khẳng định tấm lòng trung hiếu sắt son với đất nước:
“Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.”
(Thuật hứng XXIV)

Thanh Hải ngay trên giường bệnh trong điều kiện khắc nghiệt vẫn khẳng định khát vọng cống hiến trọn cả cuộc đời cho Tổ quốc:
“Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”

Điệp ngữ “dù là” thể hiện một chân lý, một giá trị sống, cống hiến trọn đời mình. Câu thơ mang âm hưởng mạnh mẽ, khẳng khái như lời nguyện cầu thành tâm nhất của Thanh Hải trước lúc ra đi. Lời tâm nguyện ấy thật thủy chung, son sắt vững bền. Ngay trong tuổi xanh tràn đầy sức sống hay khi đã về già, ngọn lửa nhiệt tình vẫn không bao giờ lịm tắt. Thanh Hải chỉ xin làm một mùa xuân nho nhỏ trong hàng triệu mùa xuân nho nhỏ khác để được suốt đời góp phần cho “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” (Lê Anh Xuân)

Khổ thơ cuối đã kết thúc bài thơ trong âm điệu nhẹ nhàng êm ả như giọng hò xứ Huế:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”

Vẫn trái tim dào dạt yêu quê hương, Thanh Hải chọn khúc hát giữa mùa xuân. Giai điệu êm ái Nam ai, Nam bình, thiết tha hiền hòa như con người Việt Nam. Dù ở trên mảnh đất “nước non nghìn dặm” hay ở bất đâu cũng đẹp, cũng gắn liền với tình cảm con người:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
(Chế Lan Viên)

Thanh Hải với niềm tin yêu trìu mến quê hương, nhà thơ hết sức khéo léo khi chọn dòng sông, sắc màu, âm thanh, điệu hát đều gắn chặt với quê hương và dường như nhà thơ muốn ôm trọn tất cả hình ảnh ấy trước khi về cõi vĩnh hằng. Bằng điệp ngữ “nước non ngàn dặm” kết hợp gieo vần bằng “bình, mình, tình” đã tạo âm hưởng bài thơ nhẹ nhàng như câu hò xứ Huế cứ ngân dài mãi ra rồi lắng đọng lại trong lòng chúng ta những cảm xúc chân thành, ru hồn người đọc trên con đò xứ Huế êm ả trôi nhẹ trên sông Hương rồi khép lại trong ân hưởng rộn ràng, xao động của “nhịp phách tiền” đầy xao xuyến.

Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng mãi như khơi gợi trong lòng chúng ta về một tình cảm cao đẹp của con người. Chính tình yêu thiên nhiên, khát vọng dâng hiến của Thanh Hải làm xao xuyến rung động biết bao trái tim người đọc. Bài thơ cứ nhẹ nhàng, thấm thía tự nhiên đi vào lòng người như một bài học sâu sắc về lẽ sống đẹp, cách ứng xử đầy nhân văn, tấm gương cao thượng trong sáng của Thanh Hải làm ta trân trọng, khâm phục và tự ngẫm phải sống sao cho xứng đáng với Tổ quốc, Nhân dân.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!