Updated at: 05-05-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Cảm nhận về bài Chiếc lá cuối cùng” chuẩn nhất 04/2024.

Dàn ý

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả O-hen-ri, tác phẩm Chiếc lá cuối cùng và giá trị nhân đạo của tác phẩm:
+ Kết thúc truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của tác giả O-hen-ri người đọc không chỉ lưu lại trong trí óc mình về một bức tranh kiệt tác vẽ về chiếc lá cuối cùng mà còn lắng đọng tâm hồn vào những giá trị nhân đạo sâu sắc của câu chuyện.
+ Giá trị nhân đạo ấy xuất phát từ chính tình bạn, tình yêu thương và hơn hết đó là tình người trong cuộc sống.

2. Thân bài

– Khái quát nội dung truyện ngắn:
+ Hoàn cảnh của Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men
+ Bức tranh về chiếc lá cuối cùng
– Ca ngợi tình bạn cao đẹp, tinh thần nhân ái, đùm bọc lẫn nhau giữa những con người khốn khổ.
– Ca ngợi tình thương giữa người với người.
– Bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc với những số phận và tấm lòng của nhân vật.
– Sức mạnh của tình người, lòng yêu thương.

3. Kết bài

Khẳng định ý nghĩa giá trị nhân đạo của tác phẩm: Tác giả O-hen-ri không cần khoa trương, phô diễn nhưng vẫn cho người đọc thấy được mong muốn hướng đến những điều tốt đẹp cho con người, mong cho cuộc sống của mọi người đều được tốt đẹp.

Bài mẫu 1:

Ai đã từng đọc những truyện ngắn của nhà văn người Mĩ O’Hen-ri (1862 – 1910) hẳn sẽ cảm nhận một điều: từ hiện thực cuộc sống đầy rẫy những bất công vô lý, đem đến bao bất hạnh cho những cuộc đời nghèo khổ, nhà văn luôn khơi dậy được vẻ đẹp tâm hồn những con người ấy qua những tình huống truyện bất ngờ, cảm động

Chiếc lá cuối cùng là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn ắp tràn tình thương yêu và niềm tin với con người, một bức thông điệp khẳng định sứ mạng và sức mạnh của nghệ thuật chân chính. Câu chuyện kể về cuộc sống chật vật của những người hoạ sĩ nghèo: hai nữ họa sĩ trẻ Xiu và Giôn-xi sống cùng căn hộ với người họa sĩ già Bơ-men. Những khó khăn về vật chất đã vắt kiệt sức sáng tạo, khiến họ lâm vào cảnh bi đát. Cụ Bơ-men suốt bốn chục năm mơ ước vẽ một bức kiệt tác mà không thực hiện được, đành phải ngồi làm mẫu cho các họa sĩ trẻ để kiếm chút tiền nuôi thân. Giôn-xi bị sưng phổi, bệnh tật và nghèo túng đã lấy nốt của cô niềm tin vào cuộc sống. Chỉ còn lại Xiu mòn mỏi với những bức vẽ và ám ảnh bởi suy nghĩ của Giôn-xi: Cô gái bệnh tật ấy đang đếm từng chiếc lá rơi để chờ định mệnh phán quyết mạng sống của chính mình, với niềm tin khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì cô sẽ ra đi… Không gian cuộc sống của những con người khốn khổ ấy lạnh lẽo u ám như mùa đông, nặng trĩu những buồn lo.

Đáng sợ làm sao khi mỗi ngày trôi đi trong gió tuyết và những cơn mưa lạnh lẽo dai dẳng, những chiếc lá thường xuân tiếp tục rơi xuống, chỉ còn lại một chiếc lá cuối cùng để Giôn-xi như nhìn thấy cái chết của mình đang đến gần. Có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy rối lòng, bất lực trước một con người đã buông xuôi, chán sống. Bởi thế nhà văn đã tập trung miêu tả khoảnh khắc căng thẳng của Xiu và cụ Bơ-men lúc Giôn-xi đang ngủ: “Họ sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì”. Có lẽ trong giây phút đó, họ đã nhìn thấy nhánh thường xuân cuối cùng trụi lá rồi chăng? Dường như cùng với cái khắc nghiệt của trời đông, mưa gió, họ có thể đoán trước được điều gì khi Giôn-xi tỉnh dậy vào sáng hôm sau và thấy chiếc lá cuối cùng đã rụng.
Trong hoàn cảnh này, người đau khổ nhất không phải là Giôn-xi mà chính là cô gái trẻ Xiu. Bởi lẽ, cô là người sẽ phải chứng kiến toàn bộ tấn bi kịch sắp diễn ra vào sáng hôm sau khi Giôn-xi lại nhìn ra cửa sổ. Nhà văn không mô tả cụ thể tâm trạng Xiu, chỉ cho biết cô “tỉnh dậy sau khi chợp mắt được một tiếng đồng hồ”, như vậy có nghĩa là cô đã phải trải qua một đêm trắng đầy âu lo thổn thức, trong sự bồn chồn và bất lực. Một đêm mưa gió ngoài trời dữ dội, một chiếc lá mong manh bám trên bức tường gạch chắc chắn sẽ bị vùi dập tơi tả, không chống chọi nổi sự tàn phá của tự nhiên. Điều đó có nghĩa là sau phút kéo mành lên, Giôn-xi sẽ nhìn thấy cái chết của chính mình. Nhưng Xiu cũng không thể chịu được khoảnh khắc nhìn thấy “Giôn-xi đang mở to cặp mắt thẫn thờ nhìn tấm mành mành màu xanh đã kéo xuống”. Không kéo mành lên cũng không được, vì như vậy Xiu sẽ mang mặc cảm chính mình mới là người gây ra cái chết của Giôn-xi. Ta hiểu tâm trạng của cô khi làm theo một cách chán nản, bản thân cô cũng không còn phương cách nào giúp cho người đồng nghiệp, người em gái kia từ bỏ suy nghĩ điên rồ đáng sợ kia.
Chính vào lúc ấy, một hình ảnh bất ngờ đã làm đảo lộn mọi dự đoán, đảo ngược cả tình huống tưởng như chắc chắn trong dự định của Giôn-xi, trong nỗi lo của Xiu và trong sự thất vọng của mọi người. Tình huống ấy đã thắp lại niềm hy vọng như một phép màu: Vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường gạch. Có lẽ người vui mừng nhất lúc này là Xiu, vì chiếc lá cô nhìn thấy không phải là một ảo ảnh: “Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây. Ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm treo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ”. Còn Giôn-xi? Cô cũng nhận ra: “Đó là chiếc lá cuối cùng”, thừa nhận sự thật một cách miễn cưỡng và tiếp tục suy nghĩ: “Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết”.
Giôn-xi thật đáng thương nhưng cô cũng thật đáng trách khi vẫn đeo đuổi ý định từ bỏ cuộc sống. Cô chìm đắm trong ý nghĩ kỳ quặc của mình, mặc kệ những sợi dây ràng buộc cô với tình bạn và với thế gian cứ lơi lỏng dần từng sợi một. Cô đã phụ lòng của Xiu, bởi lẽ cô đã xem nỗi đau của mình lớn hơn tất cả mọi sự quan tâm lo lắng của mọi người. Trong thời điểm ấy, sẽ không ai có thể giúp đỡ cô, ngoại trừ chính bản thân cô. Thời gian một ngày kéo dài đằng đẵng để Giôn-xi chứng kiến chiếc lá thường xuân chống chọi với mùa đông khắc nghiệt. Chiếc lá bướng bỉnh ấy không chấp nhận sự buông xuôi của một cô gái còn quá trẻ. Thế nhưng, khi con người ấy đã chấp nhận đầu hàng số phận, thì sức mạnh của màn đêm buông xuống, gió bấc ào ào, mưa đập mạnh vào cửa sổ lại có một uy lực khiến cho Giôn-xi không còn một niềm tin nào vào sự sống của chính mình. Sự cố chấp ấy quả thật đáng chê trách.
Nhà văn đã tạo ra một tình huống thử thách trước số phận của Giôn-xi, để rồi, cuối cùng người đọc có thể thở phào nhẹ nhõm: “chiếc lá thường xuân vẫn còn đó”. Chiếc lá mong manh ấy đã chiến thắng được thời tiết khắc nghiệt, để tạo ra một bước ngoặt trong nhận thức của Giôn-xi. Cuối cùng, cô gái ấy đã nhận ra sự ích kỷ tồi tệ của bản thân mình. Chiếc lá cuối cùng đã cứu sống một sinh linh. Trước hết là thức tỉnh khát vọng sống tiềm ẩn trong tâm hồn của Giôn-xi, để cô nhận ra: “có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội. Phép nhiệm màu đã xảy ra, vượt qua tất cả những quy luật thường tình của thiên nhiên tạo hoá, khiến Giôn-xi không hiểu và không sao hiểu được. Phải chăng, Thượng đế chí công và nhân từ không nỡ để một cô gái trẻ phải sớm giã từ cuộc sống? Không những thế, sau thời khắc bừng tỉnh, cô gái Giôn-xi đã lại bắt đầu mơ ước về tương lai: “một ngày nào đó em sẽ vẽ được vịnh Na-plơ”. Thượng đế thật công bằng, vị thượng đế ấy có tên là… Bơ-men.
Người hoạ sĩ già khốn khổ ấy không có quyền năng tối thượng của Thượng đế, nhưng ông có một trái tim giàu lòng thương cảm. Hoá ra, trong thời điểm làm mẫu cho Xiu, con người ấy đã đi đến một quyết định táo bạo, đoạt quyền của Đấng-toàn-năng bằng chính khả năng của mình. Con người đã bốn mươi năm theo đuổi kiệt tác mà không thành công đã tạo nên một kiệt tác cuối cùng của đời mình: Chiếc lá cuối cùng! Khi bắt tay vào công việc, người nghệ sĩ chân chính ấy đã âm thầm hành động với ước nguyện thật cao cả: Trả lại niềm tin vào sự sống cho Giôn-xi. Không ai được biết có bao nhiêu tinh hoa đã phát tiết trong giờ phút vẽ nên chiếc lá trên tường của cụ Bơ-men. Tất cả đều diễn ra quá bất ngờ, đến nỗi cả Xiu là người đã chứng kiến giờ phút chiếc lá cuối cùng rụng xuống cùng cụ Bơ-men cũng phải bàng hoàng. Ta chợt hiểu những lời nói hối hả của cô với Giôn-xi: “Em thân yêu, thân yêu. Em hãy nghĩ đến chị, nếu như em không còn muốn nghĩ đến mình nữa. Chị sẽ làm gì đây?”. Cô đã hiểu tất cả, nhưng không dám nói rõ cho Giôn-xi, bởi lẽ cô chưa thể hình dung ra phản ứng của Giôn-xi trước một sự lừa dối bắt nguồn từ lòng tốt của người hoạ sĩ già. Lời nói ấy còn bộc lộ một niềm sung sướng vô biên của Xiu trước giải pháp tình thế mà cụ Bơ-men đã nghĩ ra trong đêm chiếc lá cuối cùng thực sự đã rụng xuống. Bởi thế, lần kéo mành vào hôm sau, ta không còn gặp tâm trạng chán nản đến cùng cực của Xiu nữa.
Vì sự sống của một cô gái, cụ Bơ-men đã bất chấp thử thách của thời tiết khắc nghiệt, quên đi sự sống của bản thân. Có lẽ bản thân cụ cũng không ngờ đó là bức vẽ cuối cùng của cuộc đời mình, nhưng chắc chắn một điều khi người hoạ sĩ ấy vẽ chiếc lá, bức vẽ ấy không nhằm để lưu lại tên tuổi nghệ sĩ với đời. Điều đáng quan tâm lúc đó là sự sống đã tắt trong tâm hồn một cô gái trẻ, làm thế nào để cô thôi không bị ám ảnh bởi quy luật lạnh lùng của tạo hoá, để rồi vươn lên giữa cuộc đời bằng chính sức sống tiềm tàng trong tâm hồn cô. Đó là lúc người hoạ sĩ già ấy hiểu thấu sứ mạng vinh quang và cao cả của nghệ thuật: Hướng về con người chứ không phải là nhằm tạo chút danh tiếng hão huyền, nghệ thuật chỉ thật sự bắt đầu khi sáng tạo của người nghệ sĩ giúp ích cho đời.
Cuối cùng thì Giôn-xi đã vượt qua cửa ải của chính mình, trở lại với niềm tin sự sống nhờ niềm tin vào sức sống mãnh liệt từ chiếc lá cuối cùng – tác phẩm của cụ Bơ-men. Nhưng người nghệ sĩ già ấy đã phải trả một cái giá quá đắt bằng chính mạng sống của mình. Giôn-xi chỉ được biết điều ấy khi đã thật sự bình phục bằng nghị lực của chính mình. Qua lời thuật lại của Xiu, ta hiểu được lòng biết ơn của Xiu đối với người hoạ sĩ cao cả ấy, và cô muốn nhắc nhở Giôn-xi không thể vô ơn trước sự hy sinh của một con người chân chính, vì sự sống của đồng loại đã không ngần ngại xả thân. Cụ Bơ-men đã nhiễm chính căn bệnh sưng phổi của Giôn-xi vào lúc tạo nên chiếc lá cuối cùng giữa một đêm đông mưa gió lạnh lẽo. Chi tiết xúc động này khiến ta tin rằng Giôn-xi dù biết rằng chiếc lá ấy là một sản phẩm nhân tạo, nhưng chắc chắn cô sẽ không bao giờ hối hận trước một sự lừa dối cao cả như thế, Người hoạ sĩ già Bơ-men là hiện thân của sự cao thượng, lòng vị tha, đức hy sinh của một con người chân chính.
Câu chuyện kết thúc bằng một sự đảo ngược tình huống lần thứ hai. Chiếc lá cuối cùng là một sự lừa dối, nhưng lại là một sự lừa dối cao cả để đem lại niềm tin vào sự sống cho con người. Kiệt tác cuối cùng của người họa sĩ già đã được ra đời nằm ngoài tất cả mọi dự đoán của công chúng. Nhưng chiếc lá cuối cùng ấy mãi mãi là bằng chứng của tấm lòng yêu thương con người. Bởi thế, chiếc lá cuối cùng sẽ mãi bất tử với thời gian.

Bài mẫu 2:

Truyện ngắn là một hình thức tự sự loại nhỏ, dung lượng ngắn, có cốt truyện và ít nhân vật, miêu tả một khía cạnh, tính cách, một mảnh trong cuộc đời nhân vật. Tuy là truyện ngắn nhưng nó đề cập đến những vần đề lớn lao trong cuộc sống như truyện “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen – ri trong chương trình Ngữ văn 8. Một tác phẩm đặc sắc đã để lại trong lòng người đọc những nỗi niềm trăn trở …

O Hen-ri sinh năm 1862 mất năm 1910 là nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn. Truyện của ông nổi tiếng là dí dỏm, dễ hiểu, giàu tình cảm và luôn có những cái kết bất ngờ và khéo léo. Những truyện của O Hen-ri thường nhẹ nhàng nhưng toát lên tinh thần nhân đạo cao cả, tình thương yêu người nghèo khổ, rất cảm động. Được bạn đọc yêu thích hơn cả như: Căn gác xép, Tên cảnh sát và gã lang thang, Quà tặng của các đạo sĩ,… và “kiệt tác” Chiếc lá cuối cùng. Chiếc lá cuối cùng là một trong những truyện ngắn hay nhất của O Hen-ri.

Câu chuyện kể về Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men – những họa sĩ nghèo cùng sống trong một căn hộ thuê gần công viên Oa-sinh-tơn. Giôn-xi bị bênh viêm phổi khá nặng, cô thấy tuyệt vọng và tin rằng khi chiếc lá cuối cùng của cây thường xuân cạnh cửa sổ rụng xuống, cô cũng sẽ lìa đời. Kì diệu thay, sau một đêm mưa bão khủng khiếp, chiếc lá ấy vẫn dũng cảm bám vào cành cây bằng sự kiên cường mãnh liệt. Điều đó đã khiến Giôn-xi thay đổi ý nghĩ về cái chết của mình, cô không còn muốn chết nữa mà đã lạc quan, vui vẻ và có niềm tin vào cuộc sống hơn. Qua lời kể của Xiu, Giôn-xi mới biết rằng chiếc lá ấy là do cụ Bơ-men đã vẽ vào ngay cái đêm mà chiếc lá cuối cùng rụng xuống, trong khi đó, để cứu sống Giôn-xi, cụ Bơ-men đã hi sinh mạng sống của mình.

Điều gì đã khiến chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy, vẫn đeo bám vào cây dây leo mỏng manh mặc cho mưa gió trút xuống? Điều gì đã khiến Giôn-xi – con người tàn nhẫn có ý nghĩ quái gở ấy lấy lại niềm tin vào cuộc sống? Phải chăng tất cả đều là một phép màu? Vâng! Đúng là có phép màu, không phải phép màu nhiệm xảy ra ở trong truyện cổ tích mà ta thường đọc, cũng không phải do ông tiên hay thần linh nào ban tặng mà đó là phép màu của tình yêu thương. Chính cụ Bơ-men – con người có tình yêu thương, giàu đức hi sinh cao cả ấy đã làm cho chiếc lá vẫn còn mãi, vẫn tươi xanh mặc bao giông gió vùi dập phũ phàng.

Chiếc lá vẫn đeo bám lấy sự sống để Giôn-xi thấy rằng: cuộc sống này đáng quý biết bao! Đáng trân trọng biết bao! Tại sao lại không yêu quý, trân trọng từng phút giây được sống mà lại đặt cược mạng sống của mình vào những chiếc lá thường xuân? “Kiệt tác” của cụ Bơ-men cũng đã cho Giôn-xi biết rằng: cô đã quá yếu đuối, tệ bạc với cuộc đời và chính bản thân mình. Xiu cũng là một nhân vật đáng ca ngợi, một cô gái với tình bạn cao đẹp, chung thủy, hết lòng với Giôn-xi. Dù hoàn cảnh cũng nghèo khó nhưng cô luôn động viên Giôn-xi chiến thắng bệnh tật, khát khao sống với cuộc đời. Từ hiện thực đầy rẫy những bất công vô lý, đem đến bao bất hạnh cho những con người nghèo khổ, nhà văn luôn khơi dậy được vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật qua tình huống truyện thật bất ngờ và cảm động.

Thành công của “Chiếc lá cuối cùng” còn phải kể đến tài năng viết truyện điêu luyện của O Hen-ri đặc biệt là nghệ thuật đảo ngược tình huống hai lần và việc kể, tả tâm trạng nhân vật. O Hen-ri đã rất khéo léo trong việc lựa chọn ngôi kể thứ ba để có thể kể hết câu chuyện của nhân vật một cách khách quan, biểu thị thái độ đánh giá, bộc lộ các khía cạnh khác nhau cùa từng nhân vật. Truyện được xây dựng theo kiểu có nhiều tình tiết hấp dẫn, sắp xếp chặt chẽ và khéo léo khiến người đọc bị lôi cuốn vào câu chuyện một cách say mê, hứng thú. Kết thúc truyện thật bất ngờ khiến cho người đọc phải ngẫm nghĩ rất nhiều về sự hi sinh cao cả của cụ Bơ-men mà Giôn-xi lại không phản ứng gì thêm, tạo sự dư âm cho truyện ngắn đặc sắc này.

Chiếc lá cuối cùng là một tác phẩm có giá trị cao đối với nền văn học thế giới. Một truyện ngắn gởi thông điệp đến mọi người quan niệm về nghệ thuật và tình người thật đẹp trong cuộc sống : Đó chính là người nghệ sĩ phải sáng tạo ra những tác phẩm không chỉ bằng tài năng mà bằng cả trái tim. Một trái tim chan chứa tình yêu thương giữa con người với con người. Dư âm của câu chuyện sẽ mãi lắng đọng trong tâm trí ngưởi đọc xoay quanh chiếc lá cuối cùng – một “kiệt tác nghệ thuật” của O Hen-ri.Hiếm có một truyện ngắn nào mang một sức sống mãnh liệt và để lại nhiều cảm xúc như “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen – ri. Có lẽ chất triết lý trong truyện ngắn đã tạo nên vẽ đẹp trường tồn và chính vì thế, “chiếc lá” ấy còn mãi với thời gian.

Bài mẫu 3:

Hình ảnh về chiếc lá cuối cùng neo đậu lại trên cành cây như ranh giới giữa những điều mong manh, dễ tan biến vẫn luôn ấn tượng trong tâm trí tôi. Hình ảnh đó thậm chí còn ám ảnh tôi một quãng thời gian sau khi gấp lại những trang sách của nhà văn Ô Hen-ri. Đó là câu chuyện về niềm tin từ một chiếc lá không rơi.Từ cái chết của cụ họa sĩ già đến sự hồi sinh của một cô gái mang trong mình căn bệnh quái ác là một hành trình của niềm tin, của tình yêu thương giữa con người với con người. Tôi gọi đó là “Tình đời trong chiếc lá”.

Câu chuyện nói về cuộc sống cơ cực, vất vả của hai nữ họa sĩ trẻ Xiu và Giôn-xi sống cùng căn hộ với người họa sĩ già Bơ-men. Những khó khăn trong cuộc sống đời thường khiến họ lâm vào cảnh khốn cùng. Giôn-xi là một người có tài năng, cô khao khát khi được sống với đam mê của mình với nghệ thuật nhưng trớ trêu thay, cô lại bị bệnh sưng phổi hiểm nghèo. Cụ Bơ-men bốn chục năm trời có ước mơ vẽ được một kiệt tác nghệ thuật nhưng cũng không thực hiện được. Không gian, cuộc sống của những con người làm nghệ thuật ấy đang lạnh lẽo, u ám, ảm đạm với những nỗi lo gánh nặng cơm áo gạo tiền và bệnh tật. Mỗi ngày trôi qua, Giôn-xi phải đối mặt với cái chết đang cận kề.Cô không biết mình còn sống được bao nhiêu ngày. Trong cơn lạnh của bão tuyết và mưa gió, những chiếc lá thường xuân trên cây gần khung cửa sổ cứ rụng dần, chỉ còn sót lại duy nhất một chiếc lá trơ trọi trên cây. Giôn-xi ngày đêm không rời mắt khỏi chiếc lá ấy.Cô tin vào sự tồn tại của chiếc lá như tin vào sự sống của chính bản thân mình. Nhưng cô vô cùng sợ khi chẳng may chiếc lá cuối cùng kia rơi xuống, rồi cũng như sự sống của cô sẽ kết thúc vĩnh viễn. Nỗi lo của Giôn-xi không lớn bằng nỗi lo lắng của Xiu và của cụ Bơ-men.Họ sợ rằng sự thật ấy sẽ xảy ra, sự thật chiếc lá cuối cùng trên cây thường xuân sẽ rụng xuống sau cái đêm định mệnh ấy, sau đêm mưa gió bão tuyết ấy. Họ đau khổ và sẽ cảm thấy vô cùng bất lực nếu sáng sớm hôm sau, khi thức giấc, Giôn-xi sẽ chứng kiến điều đó và suy sụp. Câu chuyện sẽ có thể sẽ kết thúc khi Giôn-xi tỉnh dậy không thấy chiếc lá sau sự hủy hoại của thiên nhiên nhưng không, một tình huống hoàn toàn mới, bất ngờ đã được tái hiện. Ngày hôm sau, khi Xiu vén chiếc màn lên, vẫn còn một chiếc lá thường xuân cuối cùng trên cây: “ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa”. Chiếc lá ấy vẫn kiên cường bám lấy cành cây.Đến hôm sau, hôm sau nữa chiếc lá ấy vẫn ở đó.Đó như một phép màu với Giôn-xi.Nó đã thắp lên trong cô một hi vọng, tạo ra một sự thay đổi trong suy nghĩ của cô gái trẻ. Chiếc lá cuối cùng ấy như cứu sống lấy mạng của cô, để cô nhận ra rằng: “có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội”.Cô đã nhận ra sự sai lầm khi đã có ý định từ bỏ đi chính mạng sống của mình. Giờ đây, cô nhận ra rằng chỉ có bản thân mình mới quyết định được cuộc sống của mình chứ không phải một ai khác. Sau đó, cô bất giác nghĩ về những điều tươi đẹp hơn trong tương lai: “một ngày nào đó em sẽ vẽ được vịnh Na-plơ”. Không chỉ có những suy nghĩ tích cực, lạc quan, niềm tin vào cuộc sống mà Giôn-xi còn có cảm hứng với niềm đam mê nghệ thuật đã mất đi từ lâu.

Không ai biết rằng, người tạo nên sự kì diệu mang tên chiếc lá cuối cùng ấy lại chính là cụ họa sĩ già Bơ-men.Cụ không có những tài năng thần kì để biến chiếc lá vĩnh viễn còn lại trên thân cây thường xuân mà cụ chỉ có duy nhất là lòng yêu thương. Con người ấy sau bốn mươi năm theo đuổi những kiệt tác cuối cùng cũng tạo nên được kiệt tác của đời mình theo một cách thật đặc biệt. Khi tạo ra kiệt tác ấy, cụ Bơ-men chỉ suy nghĩ duy nhất một điều đó là trả lại niềm tin và sự sống cho Giôn-xi. Trong đêm mưa gió bão tuyết ấy, hình ảnh một người họa sĩ già cầm những cây cọ vẽ cặm cụi tạo nên bức hình tràn đầy lòng thương cảm với cô gái trẻ, với đồng nghiệp trẻ của mình tạo nên một hình ảnh vô cùng đẹp trong tâm tưởng của độc giả. Đó có thể không phải là không gian thích hợp và tốt nhất cho việc vẽ tranh, cũng không phải là điều kiện thuận lợi nhất cho việc tạo ra một bức hình nghệ thuật nhưng đó là thời điểm thích hợp nhất để tạo ra một niềm tin đối với một người sắp mất đi sự sống. Đó là nghệ thuật chân chính, đó là tình người giữa những con người khốn khổ với nhau.Cụ Bơ-men dùng hết sức lực, tâm trí và tấm lòng cao cả của mình để khắc họa chiếc lá thường xuân cuối cùng ấy.Không ai nghĩ rằng đó cũng chính là bức họa cuối cùng trong cuộc đời người họa sĩ già khốn khổ ấy.Khi hoàn thành tác phẩm ấy cũng là lúc cụ từ giã cõi đời này.Chiếc lá cuối cùng mang đậm tình đời, tình người đã đổi lấy mạng sống cho cô gái trẻ. Đó cũng chính là sứ mệnh của nghệ thuật mà Ô-hen-ri muốn truyền tải đến người đọc: nghệ thuật chân chính là nghệ thuật hướng về con người, lấy giá trị nhân sinh, nhân bản làm gốc chứ không phải những danh tiếng hư vọng, hão huyền. Nghệ thuật chỉ thực sự có giá trị khi xuất phát từ tình yêu thương giữa con người với con người.

Xiu và Giôn-xi biết đó là chiếc lá nhân tạo, chiếc lá do cụ Bơ-men tạo ra chứ không phải chiếc lá cuối cùng thực sự. Thế nhưng sau cùng, cả hai đều biết ơn vô cùng với sự hi sinh của người họa sĩ già ấy.Chiếc lá giả ấy lại là ngọn lửa thắp lên niềm tin trong cô gái trẻ. Đó là một kiệt tác nghệ thuật vĩ đại vô cùng. Nó có giá trị hơn bất cứ bức họa đắt đỏ nào khác, bởi nó được tạo ra từ tình người, từ tình đời.Cụ Bơ-men cùng kiệt tác của mình đã làm nên một điều không tưởng chỉ xuất hiện trong cổ tích.

Chiếc lá cuối cùng, như chính cái tên nhan đề của tác phẩm mà Ô-hen-ri đã tạo nên.Đây là một nhan đề, một chi tiết nghệ thuật vô cùng ý nghĩa.Sự sống nối tiếp sự sống.Tình yêu thương nối liền tình yêu thương.Chiếc lá cuối cùng ấy là nơi chứa đựng tình đời.Câu chuyện gợi mở cho chúng ta đến những thông điệp tốt đẹp của cuộc sống.Đó là tình yêu thương, sự hi sinh thầm lặng và nguồn gốc của nghệ thuật chân chính.Chúng ta hãy cho đi và chúng ta sẽ để lại cho đời muôn vàn yêu thương.Hãy sống để viết lên những điều tốt đẹp cho cuộc đời.Bởi “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.Viết đến đây, ta lại nhớ đến những lời ca vô cùng ý nghĩa trong tác phẩm “Tự nguyện” của tác giả Trương Quốc Khánh:

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng

Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương

Nếu là mây, tôi sẽ là môt vầng mây ấm

Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”.

Bài mẫu 4:

Nếu là con chim, chiếc lá,

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.

Lẽ nào vay mà không có trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?

Những câu thơ vang lên như lời khẳng định về mối quan hệ giữa con người với con người, về sự chia sẻ và hi sinh. Phần cuối truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri  cũng khiến ta rung cảm trước tình yêu thương cao cả giữa những con người nghèo khổ với nhau giống như thế.

Tác phẩm là câu chuyện kể về sự thay đổi của Giôn-xi, một nữ họa sĩ trẻ tuổi. Là một người có tài, khao khát được sống hết mình với nghệ thuật. Thế nhưng căn bệnh sưng phổi và sự nghèo túng đã khiến cô tuyệt vọng và không muốn sống nữa. Giôn-xi đã sống một chuỗi những ngày đen tối, không niềm tin, không hi vọng thậm chí là tàn nhẫn với những người yêu quý cô khi đếm từng chiếc lá còn lại trên cây thường xuân bám vào bức tường gạch đối diện với cửa sổ, chờ đến khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì cô cũng buông xuôi, lìa đời.

Câu chuyện có lẽ đã dừng lại với cái chết được dự báo trước của Giôn-xi khi trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng suốt cả đêm qua, khiến cho những cây thường xuân cũng rã rời, lá của chúng sẽ rụng hết xuống. Nhưng không, vẫn còn một chiếc lá cuối cùng trên cây, được tác giả miêu tả “ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa”. Chiếc lá ấy vẫn kiên cường bám chặt vào cành cây cách mặt đất khoảng chừng hai mươi bộ, hôm sau, hôm sau nữa chiếc lá ấy vẫn như thế. Từ một con người tuyệt vọng chỉ chực chờ chết, hình ảnh của chiếc lá thường xuân kiên cường đã làm thay đổi suy nghĩ của Giôn-xi, cô khao khát được sống và mong mỏi “một ngày nào đó em hi vọng sẽ được vẽ vịnh Na-plơ”. Điều ấy cũng có nghĩa, chiếc lá cuối cùng đã khiến cho tâm hồn một con người hồi sinh, khiến cho cô gái sống lại với khao khát và đam mê nghệ thuật của mình. Cuối cùng thì Giôn-xi cũng qua cơn nguy hiểm và dần dần khỏe trở lại.

O Hen-ri đã sử dụng rất nhiều tình tiết hấp dẫn, sự sắp xếp chặt chẽ khéo léo và kết cấu đảo ngược tình huống hai lần khiến cho người đọc đi hết từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Hóa ra, chiếc lá cuối cùng kiên cường bám trụ lại trên cành ấy lại là “kiệt tác của cụ Bơ-men”. Hóa ra, người ốm yếu, tuyệt vọng bên bờ vực của cái chết lại đang dần khỏe lại, còn người khỏe mạnh như cụ Bơ-men lại chết vì sưng phổi, dù mới chỉ ốm có hai ngày. Điều đáng nói ở đây chính là tinh thần hi sinh cao cả của cụ Bơ-men, một người họa sĩ già với khao khát cả cuộc đời là “vẽ được một kiệt tác nhưng chưa thực hiện được”, cụ đã đánh đổi cả mạng sống của mình níu giữ tâm hồn và sự sống cho cô họa sĩ trẻ Giôn-xi. Xiu đã kể lại với Giôn-xi về cụ Bơ-men một cách đầy xúc động “…cụ ốm nặng trong căn phòng của cụ ở tầng dưới. Giày và áo quần của cụ ướt sũng và lạnh buốt…người ta tìm thấy một chiếc đèn bão vẫn còn thắm sáng và một chiếc thang đã bị lôi ra khỏi chỗ để của nó và vài chiếc bút lông rơi vung vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng trộn lẫn với nhau…”. Bức tranh của cụ đã làm thức dậy khao khát sống cũng đã khơi dậy trong lòng người đọc sự thương cảm, trân trọng với nghĩa cử cao đẹp của cụ Bơ-men. Đến tận giây phút cuối cùng của cuộc đời, cụ vẫn sống với đam mê hội họa của mình. Và phải chăng, chính vì câu chuyện đầy tình người đằng sau bức họa chiếc lá cuối cùng ấy đã biến nó thành một kiệt tác đúng như di nguyện của cụ Bơ-men lúc còn sống. Nghệ thuật suy cho cùng cũng là cách khiến cho con người cảm thấy thỏa mãn, khiến con người thay đổi và sống tốt hơn. Và, cụ Bơ-men đã mang tình người để làm nên giá trị vĩnh hằng cho tác phẩm cuối cùng – kiệt tác trong cuộc đời họa sĩ của mình.

Có thể nói, đoạn trích Chiếc lá cuối cùng trích trong truyện ngắn cùng tên của O Hen-ri đã khiến người đọc rung động trước tình yêu thương cao cả giữa những con người nghèo khổ, giữa Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men. Câu chuyện ấy cũng nhắc nhở chúng ta về tấm lòng lương thiện, sự chia sẻ giữa người với người trong xã hội ngày nay.

Bài mẫu 5:

Chiếc lá cuối cùng là tác phẩm của nhà văn bậc thầy người mĩ, nhà văn o.hen-ri, người đã được hội nghệ thuật và khoa học ở mĩ lấy tên đặt cho giải thưởng truyện ngắn hàng năm.

Chiếc lá cuối cùng là “bức thông về tình người” tác giả gửi đến người đọc, ca ngợi tình bạn thủy chung cao quý, nhắn nhủ mọi người hãy thương yêu con người, hây biết hi sinh vì sự sông của con người. Xiu và bơ-men là hai họa sĩ nghèo khác nhau về tuổi tác nhưng lại có chung mối lo lắng: làm sao cứu sống giôn-xi khỏi bàn tay lạnh giá của thần chết. Xiu đã phải làm việc rất nhiều, không tiếc sức mình để kiếm tiền mua thuốc, mời bác sĩ, mua thức ăn… Nuôi bạn và chữa bệnh cho bạn. Cô chăm sóc bạn từng li từng tí, từ việc nấu cháo, nâu súp tới việc dỗ dành bạn ăn. Xiu đúng là một người bạn thủy chung, gian nan, hoạn nạn bao giờ cũng có nhau. Nhưng chỉ như vậy cũng chưa thế’ cứu được giôn-xi. Bị viêm phổi nặng nhưng nguy nhất là tâm trạng tuyệt vọng của giôn-xi. Cô tin rằng mình không thế sống được khi chiếc lá cuối cùng của cây thường xuân bên kia cửa số rụng xuống.

Chữa bệnh viêm phối, y học có thể làm được nhưng chữa tâm trạng tuyệt vọng, bác sĩ cũng bó tay. Bằng sự nhạy cảm của một người giàu lòng nhân ái, bác bơ-men đã nhận ra chìa khóa mở cánh cửa đưa giôn-xi trở về với cuộc sống. Bằng tài năng, bác đã vẽ nên bức tranh kiệt tác của mình – cũng chính là bức tranh cuối cùng để mang lại cho giôn-xi niềm tin yêu vào cuộc sống. Cả hai con người, xiu và bơ-men là hình ảnh tượng trưng cho lòng nhân đạo cao cả, cho tình thương yêu con người. Thông qua bức vẽ cuối cùng, gắn liền với sự hi sinh thầm lặng của bơ-men, tác giả còn muốn nói tới một vấn đề nữa: mục đích của nghệ thuật. Suốt bốn mươi năm lao động nghệ thật, bác bơ-men luôn thất bại, chưa bao giò’ ngòi bút của bác chạm tới tà áo của nữ thần nghệ thuật. Tấm vải chờ đợi bức vẽ kiệt tác của bác từ hai mươi lăm năm nay vẫn trống trơn ỏ’ góc buồng. Nhưng đến khi không định làm nghệ thuật, nhưng vì mục đích giành lại sự sống cho một người, bác đã hoàn thành bức tranh kiệt tác của mình trong một hoàn cảnh khắc nghiệt: đêm đông, gió lạnh, tuyết rơi, một mình với chiếc đèn bão trên một chiếc thang chênh vênh. Tác phẩm của bác tuy chỉ là một chiếc lá thường xuân bình thường nhưng lại trở nên bất tử vì nó hiện hình trong sự sống của một con người (cô xiu) và biết đâu, nó là sự sống của một tài năng.

Cốt truyện của chiếc lá cuối cùng đơn giản. Câu chuyện sống được với thời gian không chỉ vì ý nghĩa nhân bản sâu sắc của nó mà còn vì ngòi bút dựng truyện, khắc họa nhân vật đầy tài năng của tác giả. Về mặt kết cấu, ông đã sử dụng thành công thủ pháp đảo lộn tình thế hai lần một cách đột ngột, bất ngờ để hấp dẫn người đọc. Lần thứ nhất là khi giôn-xi đi đến trạng thái tuyệt vọng, buông thả mọi ý chí, phó mặc cho thần chết đưa lưỡi hái cắt đứt đời mình. Cô đã tâm niệm một ý nghĩ tuyệt vọng: “trên cây thường xuân, khi nào chiếc lá cuối cùng rụng thì em cũng ra đi thôi. Em biết điều đó đã ba ngày nay rồi”. Ba lần liền cô nhắc lại suy nghĩ này. Nghe lời khuyên của xiu, giôn-xi trả lời “em đợi mãi ngán lắm rồi, em nghĩ mãi mệt lắm rồi. Em muốn buông trôi hết thảy và dong buồm xuôi dòng như một trong những chiếc lá mệt mỏi và tội nghiệp kia”. Người đọc cảm thấy nghẹt thở tưởng như vô phương cứu chữa trước một con người không còn chút hi vọng nào vào cuộc sống. Nhưng kì diệu thay, chiếc lá cuối cùng lại không rụng. Nó còn đó mãi mãi như sự bất tử của cuộc đời. Giôn-xi lấy lại được lòng tin yêu vào cuộc sống. Cô bình phục dần.

Lần đảo lộn tình thế thứ hai tiếp liền sau khi giôn-xi bình phục, ở đoạn trên, ông già bơ-men xuất hiện thoáng qua rồi mất hút, người đọc bị hấp dẫn bởi cuộc đấu tranh giành sự sống trong giôn-xi cũng đã quên mất ông. Chính lúc ấy lời kể chuyện của xiu làm cho cả giôn-xi và người đọc sống lại một sự kiện bi tráng. Chiếc lá cuối cùng thật đã rụng. Còn lại mãi mãi trên tường là chiếc lá của tình thương yêu, là lòng yêu mến cuộc sống cháy bỏng của người họa sĩ già. Sự bất ngờ này đưa bơ-men thành nhân vật quan trọng nhất thể hiện sâu đậm chủ đề của truyện. Đọc truyện, em thấy cảm phục tình bạn của Xiu với Giôn-xi của bác Bơ-men. Em đâu ngờ đằng sau vẻ khắc khổ, thói nát rượu, bơ-men lại có tấm lòng thương yêu con người mãnh liệt đến như vậy. Bác đã tìm ra phương thuốc thần diệu để thắp lên trong lòng giôn-xi ngọn lửa yêu đời quyết giành lại cuộc sống với tử thần. Bác đã chết nhưng em thấy bác như còn đang sống. Đó là một vị thánh thần khoác bên ngoài dáng vẻ khắc khổ.

Gấp trang sách lại, em mãi mãi nhớ tới bức thông điệp màu xanh kêu gọi sự thương yêu giữa con người với con người, kêu gọi nghệ thuật hướng về con người. Chiếc lá cuối cùng mang đậm tình đời, tình người đã đổi lấy mạng sống cho cô gái trẻ. Đó cũng chính là sứ mệnh của nghệ thuật mà Ô-hen-ri muốn truyền tải đến người đọc: nghệ thuật chân chính là nghệ thuật hướng về con người, lấy giá trị nhân sinh, nhân bản làm gốc chứ không phải những danh tiếng hư vọng, hão huyền. Nghệ thuật chỉ thực sự có giá trị khi xuất phát từ tình yêu thương giữa con người với con người.

Bài mẫu 6:

Cách đây 86 năm, trên bầu trời văn học nước Mĩ, một ngôi sao sáng đã lặn. Ngôi sao ấy là O. Hen-ri. Sự ra đi của ông quả thật, đã để lại cho nhân dân nước Mĩ nhiều tiếc nuối. Thế nhưng, đúng như có người đã nói: “Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” Mặc dù ngôi sáng ấy lặn khá lâu rồi song dư quang của nó vẫn lấp lánh toả sáng trên những trang văn mà ông O. Hen-ri để lại cho đời. Sự nghiệp sáng tác của ông không đồ sộ như M.Gorđki, L.Tônxlôi nhưng hầu hết các tác phẩm mà nhà văn viết ra đều có giá trị lớn. Chiếc lá cuối cùng là một trong những tác phẩm như thế.

Tiếp xúc với thiên truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng, ta sẽ được nhà văn đưa đến phía Tây công viên Oa-sinh-tơn của nước Mĩ. Đó là một địa điểm nhỏ, phố xá nhằng nhịt không có lối ra rõ ràng. Hầu như khu công viên nhỏ này bị một màn xám bao phủ, vây quanh. Nó đã làm cho cuộc sống của những con người như Xiu, Giôn-xi và bác Ba-men thiếu sinh khí: “Hãy tưởng tượng một tay thu ngàn nào đó mang hoá đơn đòi tiền sơn hay giấy và vải vẽ đi qua con đường này, đột nhiên lại gặp ngay chính mình quay trở ra, tiền nợ không thu một xu nhỏ”. Cách nói rất hình ảnh của tác giả đã cho ta cảm nhận được cái nghèo nàn, đạm bạc của những con người ở đây. Ở đây hầu hết là giới nghệ sĩ chung sống với nhau. Họ phải bỏ tiền ra thuê những căn phòng tối om và vẽ những bức vẽ bình thường đổ kiếm sống. Họ chăm chỉ làm ăn là thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo, thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn. Ta tưởng như họ sống trong hôm nay mà chẳng đến hết ngày mai. Những họa sĩ (Giôn-xi, Xiu, Bơ-men) trong ý thức họ vẫn muốn hẹn một cuộc sống tốt đẹp, một tương lai sáng lạn. Thế nhưng cơ hội lại chưa mỉm cười với họ. Thành ra họ chỉ còn biết chờ đợi với tình cảm mông lung, huyễn tưởng. Rõ ràng ta nhận thấy O. Hen-ri không thi vị hoá cuộc sống. Ngòi bút của ông hướng về hiện thực, tái hiện chân thực những cảnh đời đói khổ.

Nhưng, để tránh hiểu lầm, có lẽ cũng cần phải nói thêm: nhà văn phản ánh hiện thực không chỉ để phản ánh, để phơi bày hiện thực mà cái chính là qua bức ảnh chụp đó, tác giả muốn bày tỏ thái độ đối với con người. Dù chỉ là một góc phố nhỏ thôi – nhà văn cũng lách ngọn bút vào để tìm tòi khám phá. Những tâm tư, tình cảm của Bơ-men, Xiu, Giôn-xi đều được nhà văn chăm chú lắng nghe để rồi khơi lên trong lòng độc giả những tia nước nguồn thương. Nguồn thương của tác giả rung lên khi nhân vật gặp tình huống éo le. Ông tỏ ra rất quan tâm tới số phận của những con người này. Ông thương cảm cho Giôn-xi, một “phụ nữ nhỏ bé”, thiếu máu vì những cơn gió hiu hiu, bị mắc chứng bệnh viêm phổi. Ông đồng tình với ước mơ chính đáng của bác Bơ-men: muốn có một kiệt tác để lại cho đời. Với Bơ-men, tác giả thấy con người này thật đáng thương. Ông đã “ngoài sáu mươi “, đã “múa cây bút vẽ bốn mươi năm” mà vẫn không “với tới được gấu áo vị nữ thần của mình”. Nói chung, cuộc đời cơ cực nào cũng chiếm được trái tim nhân đạo của nhà văn. Ông đã viết về họ như viết về chính mình, cho nên dễ hiểu, dễ đọc, dễ làm xúc động lòng người. Cái dễ làm xúc động lòng người ấy không phải ngẫu nhiên mà có. Ta thấy trong thực tế, cuộc đời của tác giả cũng gặp nhiều nỗi gieo neo. Ông đã từng trải nghiệm qua rất nhiều nghề để kiếm sống, cảnh đời thật đã cho ông yêu sống phong phú. Khi viết truyện, ông đặt cái tâm nóng hổi của mình lên trang giấy. Từ bác Bơ-mcn đến Giôn-xi, Xiu, hầu hết đều có sự hoá thân của tác giả…

Cuộc sống sao mà đắng cay đến thế! Nhưng càng trong sự đắng cay, đen tối tâm hồn con người càng toả sáng và ngát hương. Nhà văn đã phát hiện ra trên đầm bùn, trên thảo nguyên hoang dại bỗng rực cháy sáng lên “ngọn lửa Đan- cô” ngọn lửa của tình thương yêu của con người với con người. Trước hết, ông muốn bày tỏ thái độ ca ngợi về nét đẹp trung trinh của Xiu và Giôn-xi. Với ông, ở họ có một tình hạn rất đẹp đẽ, trong sáng và rất đáng trân trọng. Cuộc sống nghèo khổ, sở thích tương đồng, tình cờ đã giúp họ xích lại gần nhau. Khi Giôn-xi bị bệnh, Xiu không lãnh đạm, không thờ ơ, không bỏ mặc bạn. Ngược lại, cô chăm nom, săn sóc Giôn-xi rất chu đáo. Cô mời bác sĩ về chữa bệnh cho bạn. Tình cảm của Xiu dành cho Giôn-xi thật là gắn bó, thật là cảm động. Nghe bác sĩ nói bệnh tình của Giôn-xi “mười phần chỉ còn hi vọng được một” thì Xiu đã vào phòng làm việc và “khóc đến ướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản”. Giọt nước mắt ấy là giọt nước mắt của tình thương. Trái tim cô không hề “chai sạn” mà luôn rung lên những nhịp đập đớn đau khi nghĩ đến cảnh: chỉ vài ngày nữa thôi cô bé sẽ mất đi một người bạn yêu quý. Thương thì thương vậy đấy, thế nhưng cô vẫn muốn kìm nén nỗi đau, cố chạy trên thực tại phũ phàng (“thản nhiên”) để Giôn-xi yên tâm. Rồi cô tỏ ra thực sự “lo lắng” khi phải chứng kiến ý nghĩ “kỳ quái” của bạn mình. Xiu luôn muốn được ở “bên cạnh” bạn để săn sóc, luôn tìm cách động viên an ủi Giôn-xi: “Ông bác sĩ đã nói với chị là em sẽ chóng hình phục thôi (…) khả năng khỏe là mười phần chắc chín”. Thực ra, đây là một lời nói dối. Nhưng sự nói dối của Xiu, trong hoàn cảnh này không hề có tội. Sự nói dối của cô chẳng qua chỉ là sự bất đắc dĩ, xuất phát từ tình yêu thương bạn, muốn giúp bạn bớt lo lắng và có niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống. Tình yêu thương của Xiu không chỉ thể hiện qua lời nói mà còn biểu lộ qua việc làm cụ thể. Cô nấu cháo cho bạn ăn. Cô dồn tâm sức để vẽ nhiều tranh ảnh để kiếm tiền chăm sóc cho Giôn-xi. Tình cảm của Xiu là tình cảm chân thành. Tình cảm ấy làm ta rưng rưng cảm động. Trong thâm tâm Xiu, Giôn-xi là một người em ruột. Cô đã chăm bẵm bạn theo cấp độ tình cảm máu thịt, chân tình ấy.

Bơ-men, người hoạ sĩ già, cũng là nhân vật được tác giả Chiếc lá cuối cùng dành cho những dòng văn ưu ái, trân trọng. Như đã nói, cuộc đời ông thất bại trong nghệ thuật và nghèo khổ trong cuộc sống. Do chí riêng không thoả, cuộc sống tẻ nhạt mà ông thường hay cáu gắt với mọi người. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông ta đã mất hết tình người. Ông tự nhận là “con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng trên”. Khi nghe Xiu kể chuyện, Bơ-men đã quá lo: “Sao trên đời này lại có những người ngớ ngẩn” vậy. “Lời nói của ông đích thực là một lời coi thường, một tiếng chửi. Thế nhưng trong lời chửi “độc mồm” ấy vẫn tiềm ẩn lòng thương con người “Chà, tội nghiệp cô bé Giôn-xi”.

Lòng yêu thương ấy dường như là một điểm gợi hứng, là một điểm khơi nguồn để bác Bơ-men sáng tác lên một bức tranh kiệt tác? Có thể là như thế. Sự nguy kịch có liên quan đến sự sống còn của một con người dường như đã thôi thúc trái tim bác phải làm một điều gì đó để giúp họ. Và thế là trong một đêm khủng khiếp, bất chấp cả mưa gió bác Bơ-men đã âm thầm một mình cùng với chiếc đèn, chiếc thang, chiếc bút lông ngồi hí hoáy vẽ chiếc lá thường xuân. Cuối cùng với sự cố’ gắng, với sức mạnh của tình yêu thương, bác đã vẽ xong bức tranh đó. Tiếc thay, khi bác hoàn thành xong tác phẩm cũng là lúc bác phải vĩnh biệt cõi đời. Sự ra đi của bác chỉ là sự ra đi của xác thịt, còn tâm hồn của bác thì chắc chắn sẽ còn kết tủa lại mãi với thời gian. Với nghị lực của mình, trái tim của mình, bác đã cho đời một kiệt tác. Kiệt tác ấy chính là kết quả của sự tích luỹ tổng hoà hơn 40 năm cầm cọ, là sự dồn tụ cao độ của cái tâm và tài trong đời nghệ sĩ. Đốn đây thì ông đã thực hiện được ước mơ, khát vọng cháy bỏng của mình từ trước. “Những rìa lá hình răng cưa đã nhuộm vàng úa” tượng trưng cho tuổi tác, sự ra đi về thân xác của Bơ-men. “Cuống lá còn giữ màu xanh sẫm”, tượng trưng cho mảnh tâm hồn sáng trong của cả một đời người hoạ sĩ già tích góp được. Kiệt tác của bác có ý nghĩa lớn lao vô cùng. Nó không chỉ là sự mãn nguyện, thoả ước mơ của bác mà nó còn là bức tranh cứu người. Bức tranh đã đem lại sự sống cho Giôn-xi, đã làm cho hồn Giôn-xi sắp chết bỗng được tái sinh. Bức tranh ấy đã đem lại cho Giôn-xi niềm tin vào cuộc sống, giúp cô nhận ra ý nghĩa của đời người: “Mình đã tộ như thế nào, muôn chết là một tội”. Nó chính là điểm cao trào của tình yêu thương con người. Bác Bơ-men đã hi sinh, đã trút cái sức lực còn lại của mình vì sự sống của Giôn-xi. Chiếc lá cuối cùng đúng là điểm sáng toàn truyện. Nó được vẽ giống như thật; nó đã ra đời trong một hoàn cảnh lao động vất vả, nó dũng cảm bất chấp quy luật, vươn lên tất cả để chiến thắng nghèo đói, bệnh tật. Tình người còn lớn hơn cả nghệ thuật, nó làm cho nghệ thuật trở thành sự sống bất tử. Và đó mới là tác phẩm “đáng thờ”, xứng đáng tồn tại với thời gian.

Bài mẫu 7:

Người phụ nữ bất hạnh bất lực trên giường bệnh, bất động trên chiếc giường sắt sơn, tạo ra ấn tượng về bức tranh được đóng khung treo tường. Không gian trở nên hẹp hơn sự vật đi vào chiều tĩnh lặng. Duy đôi mắt người bệnh có dấu hiệu sự sống, song đôi mắt ấy cứ trân trân nhìn cái đầu hồi nhà gạch bên cạnh đếm từng chiếc lá trường xuân đang rụng dần trong gió lạnh. Đó là biểu tượng của chiếc thước đo về cuộc đời của Giôn-Xi: Cô đã xây dựng cho mình một niềm tin bất hạnh: Cô sẽ chết khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống.

Câu chuyện của Giôn-xi, được Xiu cô bạn lớn tuổi hơn là người đang cưu mang Giôn-xi, nói lại với cụ Bơ-men. Cụ là một hoạ sĩ nhưng là một người thất bại trong nghệ thuật. Bởi lẽ “cụ múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn chưa với tới được gấu áo vị nữ thần của mình”. Nhưng cụ “luôn có ý định vẽ một bức tranh tuyệt tác”, cho dù “cụ chưa bao giờ bắt đầu cả”. Cụ kiếm tiền bằng cách “bôi bác một ngành buôn bán hay quảng cáo”, hoặc “ngồi làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ”. Dù vậy cụ vẫn luôn luôn nói về “tác phẩm kiệt tác sắp đến tới”. Điều đáng quý ở cụ là hay “chế nhạo sự mềm yếu của bất kì ai” và tự coi mình “là một con chó xồm lớn chuyên canh gác cửa bảo vệ cho hai nữ hoạ sĩ trẻ” Giôn-xi và Xiu.

Câu chuyện về cuộc đời yếu đuối và mong manh như chiếc lá giữa cơn phong ba của Giôn-xi đã được cụ Bơ-men tiếp đón bằng sự “khinh bỉ và nhạo báng”. Song bất chấp thái độ của cụ già, căn bệnh của Giôn-xi vẫn không hề thuyên giảm. Và cụ già “nhỏ bé dữ tợn” đã hứa một cách trịnh trọng qua mùi rượi “sặc sụa”: “Một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất…”.

Một ngày mới lại về Giôn-xi “thều thào và ra lệnh” kéo chiếc màn xanh để cô ta nhìn ra ngoài, cho dù Xiu không muốn và phải” làm theo một cách chán nản”. “Nhưng, ô kìa! Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng kéo dài suốt cả một đêm, tưởng chừng như không bao giờ dứt, vẫn còn một chiếc là thường xuân bám trên tường gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây… Chiếc lá vẫn dũng cảm bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ”.

Hôm sau “chiếc lá thường xuân vẫn còn đó”. Và Giôn-xi chợt hiểu ra: “Có một cái gì đấy làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cô thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội”. Và hi vọng một ngày nào đó “sẽ được vẽ vịnh Na-plơ” lại trỗi dậy trong cô. Nhựa sống lại lên men, nghị lực mầm sống lại hồi sinh, khiến bác sĩ phải thốt lên: “Cô ấy khỏi nguy hiểm rồi, chị đã chiến thắng.” Điều gì đã khiến Giôn-xi khoẻ lại? Có thể một phần do thuốc men phát huy có hiệu lực, có thể có một phần do bàn tay chăm sóc chu đáo của Xiu. Hẳn là thế, nhưng bao trùm lên tất cả, cái đã lôi Giôn-xi ra khỏi con đường dần về cõi hư vô là chiếc lá cuối cùng trên bức tường đối diện phòng với họ “chẳng bao giờ rung rinh và lay động khi gió thổi”, bởi đó là chính kiệt tác của cụ Bơ-men, cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng. Để tạo được tác phẩm kiệt xuất ấy, cụ Bơ-men đã đổi bằng cuộc sống của chính mình. Cụ đã trả lại màu xanh cho chiếc lá vàng úa, trả lại màu hồng cho đôi má người thiếu nữ, xanh xao, trả lại niềm tin nghị lực cho người yếu đuối.

Nghệ thuật chân chính mang trong nó chức năng sinh thành và tái tạo. Nó thức dậy niềm tin vào cuộc sống, nó mở đường cho những khát vọng lớn lao, nó chắp cánh cho những ước mơ. Vì thế, hình tượng cụ Bơ-men cho dù chỉ phác hoạ, nhưng vẫn sống mãi trong lòng người đọc bởi cụ đã tạo ra kiệt tác bằng màu xanh hi vọng, bằng chất liệu nhân đạo truyền thống được kết tinh trong tiến trình lịch sử. Chiếc lá cuối cùng trở thành niềm hi vọng hồi sinh.

Bài mẫu 8:

Yêu thương, gắn bó thân thiết nhưng cũng rất nóng bỏng kịch tính là tất cả những gì ta có thể cảm nhận được ở đoạn trích Chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn O Hen-ri. Câu chuyện như một nét phác thảo chân thực, đẹp đẽ về “Tinh đời trong chiếc lá”, phải chăng đây chính là điều nhà văn muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình.

Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh chiếc lá thường xuân lại trở thành nhan đề cho truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Mĩ nổi tiếng này. Xuyên suốt mỗi câu, mỗi chữ là một màu xanh rời rợi, là sự sống kiên cường, thiết tha của chiếc lá, là tình cảm bạn bè đầy yêu thương, chăm lo tận tình và cả sự hi sinh cao cả của những nghệ sĩ nghèo nước Mĩ. Phải chăng đó là chi tiết vừa cảm động nhưng cũng vừa bất ngờ, độc đáo của một ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc ?

Chiếc lá trong mỗi hoàn cảnh, mỗi con người lại ẩn chứa một ý nghĩa, một tâm tình khác nhau. Giôn-xi ngây thơ đến lạ lùng khi cô cho rằng sẽ buông xuôi tất cả và lìa cõi đời này vào lúc chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Bệnh tật hành hạ và sự nghèo khó đã dập tắt niềm tin và ý chí muốn sống trong lòng cô gái trẻ. Tuyệt vọng đã khiến cô đặt cược cả cuộc đời và số phận cho một chiếc lá nhỏ nhoi. Nhưng rồi chiếc lá vô tri đó đã trở thành niềm hi vọng của Giôn-xi khi mà cô còn giữ được “lửa” trong trái tim mình, khiến cô tìm lại được tình yêu cuộc sống với những mơ ước, khát khao. Khi ấy, Giôn-xi tin vào cuộc đời bằng một tình yêu cuộc sống mãnh liệt đã giúp cô vượt qua lưỡi hái tử thần. Cô tin rằng chiếc lá sẽ mãi còn đó, mãi xanh tươi như sự sống bất diệt, cô tin rằng trái tim mình cũng sẽ đập mãi, tâm hồn mình cũng sẽ trẻ mãi và tràn đầy ước mơ về bức kiệt tác “vịnh Na-plơ”. Đó là lúc cô khỏi bệnh, sống một cuộc đời đẹp nhất, có ý nghĩa nhất. Niềm tin yêu đó thật đáng quý biết bao. Như vậy, sự sống của chiếc lá đã thăng hoa tình cảm thiết tha yêu cuộc sống trong trái tim cô gái yếu đuối này.

Nỗi tuyệt vọng của Giôn-xi như nhát dao đâm vào trái tim thổn thức của người bạn thân thiết, gần gũi nhất – Xiu để rồi chiếc lá lại thực hiện tốt vai trò của mình, gợi nên sự quan tâm, lo lắng, yêu thương của Xiu dành cho bạn mình. Giôn-xi quả là một người tàn nhẫn với Xiu và với chính mình khi cô mỗi khi thức dậy đều muốn mở cửa sổ để chờ đợi chiếc lá cuối cùng lìa cành. Xiu làm sao có thể không buồn bã, không lo lắng khi thấy người bạn gái mỗi lúc một tuyệt vọng, héo mòn, tiều tuỵ và đang chờ chết. Bệnh tật, sự tuyệt vọng của Giôn-xi hành hạ Xiu về cả vật chất lẫn tinh thần. Cuộc sống vốn trước đây đã rất khó khăn giờ chỉ còn mình cô gánh vác, lại cần có tiền thuốc thang chữa bệnh cho bạn. Xiu không muốn kéo mành lên để bạn nhìn thấy sự sống níu kéo từng giây từng phút trên chiếc lá còn sót lại nhưng cô khó có đủ ánh sáng mà vẽ tranh, lấy tiền chữa trị cho Giôn-xi khi cửa so là nguồn sáng không phải trả tiền duy nhất đối với những người nghèo khổ như cô. Xiu day dứt, băn khoăn giữa hai sự lựa chọn vô cùng khó khăn. Chính trong những lúc thế này ta mới thấy hết được cái tình, cái nghĩa mà Xiu dành cho Giôn-xi, chiếc lá một lần nữa lại chứa nặng nỗi lo lắng khôn nguôi của cô gái trẻ, nó nhân lên trong cô sức mạnh của nghị lực, thăng hoa trong trái tim cô một tình yêu vô bờ bến với người bạn trẻ.

Lo lắng khiến Xiu không thể chịu đựng nỗi đau buồn một mình, cô đã tìm đến và chia sẻ nỗi niềm với cụ Bơ-men, người hoạ sĩ già sống ở dưới tầng trệt. Ông cụ đã tìm thấy lí tưởng sống, khát vọng tuổi trẻ, hoài bão lớn lao mà đên giờ cụ vẫn đang theo đuổi ở hai cô hoạ sĩ này. Nên chẳng biết tự bao giờ và tự lúc nào cụ đã coi hai cô bé như con ruột của mình. Điều đó càng khiến cụ đau xót biết ngần nào khi hiểu rằng Giôn-xi đang tuyệt vọng buông xuôi cuộc sống. Người hoạ sĩ già đã bối rối, vụng về đến nỗi trở nên bực tức, gắt gỏng, cảm xúc thương xót vô bờ bến nghẹn ngào trong trái tim ông. Bất lực và xa xót, cụ chỉ còn biết thắp lên “ngọn lửa” trong trái tim Giôn-xi, lấy lại niềm tin trong sáng của cô từ tay tử thần. Chiếc lá là mấu chốt của vấn đề sống còn lúc này. Định đoạt được vận mệnh của chiếc lá là giành lại sự sống cho Giôn-xi khỏi lựỡi hái tử thần. ở đây, chiếc lá lại một lần nữa thể hiện thành công tình yêu thương thiết tha cao cả đến kì diệu của cụ Bơ-men.

Người đọc thực sự cảm động trước hình ảnh một cụ già 60 tuổi run rẩy trong đêm mưa to gió lớn, tuyết ngập khắp đường, một tay bám vào chiếc thang đã mục, tay kia vừa cầm đèn bão vừa cầm bảng màu với hai sắc xanh vàng và bút vẽ để leo lên tường nơi cửa sổ phòng Giôn-xi nhìn ra. Bàn tay già nua miệt mài vẽ. Bằng nét vẽ tài hoa và chân thực hoà vào cùng với tình thương yêu cháy bỏng của “người cha”, cụ đã đem đến cho chiếc lá thường xuân bình thường một sức sống bất tử. Để đáp lại đức hi sinh cao cả của người hoạ sĩ già, chiếc lá đã trở thành kiệt tác của cuộc đời cụ Bơ-men, thể hiện hoàn hảo và sinh động nhất tình yêu thương lớn lao, cao cả. Điều mà hơn 40 năm theo đuổi nghệ thuật không lúc nào trái tim cụ không ngừng hướng tới với một mong ước ráo riết, nồng nàn.

Bằng một chi tiết độc đáo, cây bút văn xuôi đương đại nổi tiếng nước Mĩ – O Hen-ri đã để ba nhân vật trong truyện nhắn nhủ với chúng ta những điều đáng quý về tình yêu cuộc sống và trân trọng những tình cảm đã làm nên cuộc sống tươi đẹp.

Chiếc lá đã cứu sống Giôn-xi, tạo nên kiệt tác bất tử cho cụ Bơ-men. Hay nghệ thuật chân chính đã mang lại niềm tin mãnh liệt vào sự sống ngàn lần yêu quý. Một lần nữa, cái chân lí : nghệ thuật vì cuộc sống con người mới là nghệ thuật đích thực lại toả sáng trong cụ Bơ-men. Thế mới biết, nghệ thuật đích thực chính là sự kết tinh, lắng đọng của tình yêu thương sâu sắc ; là sự quên mình tuyệt đối vì mọi người.

Thực ra, chiếc lá cuối cùng đã rụng, nhưng còn mãi mãi trên tường và trong trái tim độc giả là chiếc lá của tình yêu thương, của sự hi sinh cao cả. O Hen-ri đã rời xa chúng ta nhưng câu chuyện của ông luôn sống mãi trong lòng người đọc bởi ẩn chứa trong chiếc lá là tình đời sâu nặng và nồng thắm mà ở bất cứ hoàn cảnh nào, thời đại nào đều đáng được trân trọng và ngợi ca…

Bài mẫu 9:

Điều kì diệu làm nên sự đẹp đẽ của nghệ thuật là gì? Nó không hẳn chỉ là những câu chuyện chắt lọc từ thực tế mà quan trọng nhất có lẽ đó chính là tình người. Giữa một xã hội đầy rẫy những sự rối ren, lừa lọc thì có lẽ thứ duy nhất tỏa sáng lấp lánh chính là tình yêu thương sự đồng cảm giữa con người với nhau. Và nhà văn O Hen – ri đã tạo nên một câu chuyện đầy tính nhân vật trong Chiếc lá cuối cùng. Nó không chỉ là câu chuyện về cuộc đời mà còn chứa đựng đằng sau cả một triết lí sống mãnh liệt. Hóa ra nghệ thuật chỉ thực sự đạt đến tuyệt mĩ khi nó cứu dỗi và tô đẹp tâm hồn của con người.

Đó là câu chuyện cụ Bơ- men nghe được về Giôn –xi một người con gái đang mang trong mình căn bệnh phổi hiểm nghèo tưởng chừng không thể qua khỏi sống nhờ sự cưu mang của Xiu. Cụ Bơ – men ở đây là một người họa sĩ thất bại. Tại sao lại thất bại? Bởi suốt bốn mươi năm cầm cọ mà chưa bao giờ người đàn ông đó với tới được gấu áo của vị nữ thần. Thế nhưng ẩn sâu trong con người đó vẫn khát khao một ngày sẽ vẽ nên được một tác phẩm tuyệt tác. Công việc hàng ngày để nuôi sống người đàn ông tội nghiệp đó chính là nhờ việc “bôi bác một ngành quảng cáo hay buôn bán” hoặc “ngồi làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ”. Điều đáng quý mà người đàn ông này có được đó chính là “luôn chế nhạo sự mềm yếu của bất kì ai” và tự coi mình “ là một con chó xồm lớn chuyên canh gác bảo vệ cho hai nữ họa sĩ trẻ” là Giôn- xi và Xiu.

Và chính vì lẽ đó nên câu chuyện yếu đuối mong manh như chiếc lá của Giôn- xi được cụ Bơ-men tiếp nhận bằng sự “khinh bỉ và nhạo báng”. Thế nhưng dường như sự nhạo báng của cụ căn bệnh của Giôn – xi không hề có dấu hiệu thuyên giảm. Cụ già ấy đã hứa một cách vô cùng trịnh trọng qua mùi rượu là “một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất”.

Một ngày kia lại đến với Giôn-xi trong sự tuyệt vọng khi sự sống tưởng chừng chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Chị yêu cầu Xiu mở cửa để ngắm những thứ còn xót lại trên đời này. Tuy không muốn nhưng Xiu cũng đành phải chấp nhận. Thế nhưng một sự ngạc nhiên đã đến với cả hai khi mà sau trận bão tuyết và trận mưa vùi dập chiếc lá thường xuân vẫn còn mạnh mẽ bám trên tường. Và nó chính là chiếc lá dũng cảm cuối cùng còn kiên trì bám lại với cây.

Và cứ tiếp ngày này qua ngày khác chiếc lá ấy vẫn kiên trì như thể chưa có chuyện gì xảy ra. Và chính sự sống tiềm tàng của chiếc lá thường xuân ấy như tiếp thêm nghị lực cho Giôn-xi để cô hiểu ra rằng mình đã tệ như thế nào. Ngay lúc này hi vọng một ngày nào đó được vẽ vịnh Na –plo như bùng lên mạnh mẽ trong cô. Nhựa sống như đang căng tràn, mầm sống trỗi dậy trong người cô gái trẻ. Điều đó khiến cho bác sĩ cũng phải ồ lên kinh ngạc “cô ấy khỏi nguy hiểm rồi”. Vậy điều gì đã khiến cho Giôn –xi bừng tỉnh? Đó có thể là công dụng tuyệt vời của thuốc thang, cũng có thể là nhờ bàn tay chăm sóc chu đáo của Xiu nhưng không ai biết rằng ẩn sâu trong nó đó chính là sự kiên trì bám trụ của chiếc lá cuối cùng. Chiếc lá chẳng bao giờ rung rinh và lay động khi gió thôi thế nhưng nó chính là cứu sinh của một sinh mệnh đang chảy qua kẽ tay. Chiếc lá cụ Bơ-men đã vẽ vào cái đêm mưa gió bão bùng đó, nó đã đánh đổi bằng cả sự sống của cụ. Cụ trả lại cho đời một chiếc lá xanh, trả lại cho cô gái ấy một mơ ước và trả lại màu hồng cho sự sống tiếp diễn.

Nghệ thuật chân chính luôn ươm mầm cho con người cho cái tốt đẹp phát triển. Ý nghĩa sâu xa và O Hen- ri muốn gửi gắm đến người đọc chính là nghệ thuật phải góp phần nâng đỡ cho con người hướng con người đến những cái chân thiện mỹ. Và nó chỉ thực sự đẹp khi biến con người trở nên tốt đẹp hơn mà thôi.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách ” Cảm nhận về bài Chiếc lá cuối cùng” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!