Updated at: 17-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Phân tích Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật” chuẩn nhất 10/2024.

Dàn ý

I. Mở bài:

– Giới thiệu đôi nét về Bài thơ tiểu đội xe không kính và tác giả Phạm Tiến Duật.
– Giới thiệu hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong bài thơ.

II. Thân bài:

Cảm nghĩ về những người chiến sĩ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
1. Tư thế của những người chiến sĩ:

“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”

– Tư thế rất ung dung

– Khi lái xe trên một chiếc xe tàn, mà các chiên sĩ vẫn dũng cả, ung dung và vui tươi

– Các chiến sĩ nhìn trời, nhìn đất một cách rất bình thản và thản nhiên

=> Thể hiện nên sự ung dung, tập trung lái xe của những chiến sĩ trên đường hanh quân.

2. Tinh thần của các chiến sĩ:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”

– Cho dù những khó khăn như gió cay, bụi phun,.. nhưng các chiến sĩ vẫn tiếp tục lái xe.

– Thể hiện giọng điệu rất ngang tàng, bất chấp của các chiến sĩ.

=> Tinh thần bất chấp khó khăn, nguy hiểm, dù thế nào họ vẫn vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ.

3. Tình đồng đội của các chiến sĩ:
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

– Các chiến sĩ bắt tay qua cửa kính.

– Những cái bắt tay không chỉ là chào hỏi mà còn thể hiện sự lạc quan và cổ vũ tinh thần nhau.

– Tình đồng chí, đồng đội gắn bó kêu sơn

=> Dù có khó khăn gian khổ họ vẫn vượt qua để đem lại hòa bình, độc lập cho dân tộc.

III. Kết bài: 

Nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh người chiến sĩ và giá trị của tác phẩm.

Phân tích Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật- Mẫu 1

                           Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

                           Mà lòng phơi phới dậy tương lai.

       Đó là ý chí của những chiến sĩ Trường Sơn. Các anh hiện lên trên trang thơ thật dí dỏm, thật yêu đời. Khi gian khổ tưởng chừng không thể nào vượt qua được, khi cái chết tới gần. Vậy mà nụ cười lạc quan vẫn hiện hữu trên khuôn mặt các anh, nụ cười ấy rất ngang tàng và cũng đầy tinh nghịch. Nhắc tới họ, ta không thể quên người chiến sĩ lái xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, Không biết nhà thơ dã bao nhiêu lần trực tiếp lái chiếc xe như thế mà ông lại viết ra được những dòng thơ hết sức chân thực và sống động đến vậy.

                           Không kính không phải vì xe không có kính

                           Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

       Đó là lời giới thiệu của các anh, hết sức giản dị, rất thật. Trên chiếc xe không có kính đó người lính lái xe ở tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng khốc liệt. Bom giật bom rung họ vẫn vững tay lái, nhấn ga cho xe băng băng lao ra chiến trận.

       Chúng ta hãy lắng nghe các anh kết chuyện về mình với giọng điệu thật vui vẻ và hài hước:

                           Ung dung buồng lái ta ngồi,

                           Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

       Ung dung được đảo lêu đầu câu để nhấn mạnh tư thế bình tĩnh, đường hoàng, hiên ngang, tự tin khi họ phải lái một chiếc xe không kính. Nhìn thẳng là nhìn vào gian khổ, hi sinh không run sợ, không né tránh bởi họ chiến đấu vì chính nghĩa. Lái xe không kính, là gặp phải khó khăn nhưng những khó khăn lại thật bất ngờ:

                           Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

                           Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

                           Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

                           Như sa, như ùa vào buồng lái.

       Những câu thơ rất thực, thực đến từng chi tiết. Xe không có kính chắn gió lại chạy với tốc độ cao nên người lính lái xe phải đối mặt với bao nguy hiểm: gió xoa mắt đắng, con đường ngược lại chạy thẳng vào tim, sao trên trời, chim dưới đất bất ngờ như sa, như ùa, như rơi, rung, quăng, ném vào buồng lái. Những câu thơ chân thực, sống động, đầy ấn tượng như chính nhà thơ đang cầm vô lăng mà lái.

       Bao khó khăn thử thách nhưng người lính lái xe vẫn không run sợ, hoảng hốt. Trái lại, tư thế của các anh rất hiên ngang, ung dung tự tại, tinh thần của các anh vẫn vững vàng. Bởi các anh vẫn quyết tâm vượt qua gian khổ, để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao.

                           Không có kính, ừ thì có bụi

                           Bụi phun tóc tráng như người già

                           Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

                           Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

                           Không có kính, ừ thì ướt áo

                           Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời

                           Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.

                           Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Nhà thơ lại tiếp tực khắc họa những khó khăn, gian khổ của những người lính lái xe. Những câu thơ như những lời nói thường ngày, không gắn liền với những tiếng nói bỗ bã, đầy chất lính ngang tàng song cũng rất đáng yêu như bật lên từ tình cảm thực của những người lính lái xe. Khó khăn là thế, và vẫn chấp nhận là tất yếu: ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo nhưng cũng với thái độ rất thản nhiên:

                           Chưa cần rửa  phì phèo châm điếu thuốc

                            …Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

                           Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

       Sự bình thản của những người lính lái xe đến vô tư. Câu thơ cân đối, nhịp nhàng theo độ rung của bánh xe lăn, các thanh bằng, trắc phối hợp linh hoạt, giọng thơ pha chút ngang tàng thường thấy ở người lái xe.

       Hai khổ thơ làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe: dũng cảm, hiên ngang, phớt đời, bất chấp hiểm nguy trước biết bao thử thách. Họ đạp bằng gian khó tiến về phía trước với một quyết tâm: giải phóng miền Nam. Đúng là chiến tranh ác liệt có thể tàn phá những phương tiện kĩ thuật vật chất nhưng không thể đè bẹp được sức mạnh tinh thần của con người. Trái lại, aó chỉ càng làm nổi rõ thêm tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của họ mà thôi:

                           Những chiếc xe từ trong bom rơi

                           Đã về đây họp thành tiểu đội

                           Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

                           Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.

       Trong hoàn cảnh ác liệt, những người lính lái xe có cùng một mục đích, cùng chung lí tưởng nên ở họ đã hình thành nên tình cảm đồng chí, đồng đội tốt đẹp, ấm cúng như trong một gia đình:

                           Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

                           Chung bút đĩa nghĩa là gia đình đấy

       Hình ảnh những chiếc xe từ trong bom rơi đã gợi lên ý nghĩa về người lính lái xe gan góc vượt qua gian nan thử thách. Khi gặp nhau tình cảm giao lưu cua họ thật là đặc biệt:

                           …Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

để rồi:

                           Lại đi, lại đi trời thêm xanh.

Câu thơ có một cái gì đó thật lãng mạn và lạc quan:

                           Không có kính, rồi xe không có đèn,

                           Không có mui xe, thùng xe không có xước,

                           Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

                           Chỉ cần trong xe có một trái tỉm.

       Xe bị bom đạn Mĩ làm cho biến dạng đến trơ trụi: không kính, không đèn, không mui… nhưng đoàn xe vẫn cứ chạy vì một mục đích cao cả: vì miền Nam ruột thịt, vì thống nhất nước nhà. Thì ra mọi cội nguồn tạo ra sức mạnh của đoàn xe được tích tụ lại ở trái tim gan góc, kiên cường giàu bán lĩnh nhưng chan chứa tình yêu thương ở người cầm lái. Chính tình yêu Tổ quôc, tình thương đồng bào đã khích lệ, động viên người lính lái xe đạp bằng gian khó, lạc quan, bình tĩnh, nắm chắc vô lăng, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe tới đích. Khổ thơ cho ta thấy chân lí của cuộc đời: sức mạnh không chỉ là vũ khí, là vậ chất mà chính là con người. Con người mang trái tim nồng cháy, yêu thương, có ý chí kiên cường chiến đấu là con người chiến thắng:

                           Chỉ cần trong xe có một trái tim.

       Câu thơ làm toả sáng hình tượng người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, là linh hồn của cả bài thơ.

       Bài thơ đã khắc hoạ hình tượng người chiến sĩ lái xe thật đẹp, thật dí dỏm, thật lính. Đó là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ một thế hệ anh hùng, sống đẹp và giàu lí tưởng. Họ sẵn sáng làm bất cứ việc gì, đi bất cứ đâu mà Tổ quốc cần, trong gian khổ vẫn giữ vững một niềm tin, một niềm lạc quan tin tưởng vào chiến thắng. Đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh.

Phân tích Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật- Mẫu 2

       Phạm Tiến Duật là cây bút xuất hiện trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ anh chủ yếu viết về những chiến sĩ, những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Là người trong cuộc nhà thơ rất hiểu cuộc sống chiến đấu, đời sống tâm hồn của họ. Nguyên là một thành viên của đoàn 559, Phạm Tiến Duật đặc biệt quan tâm đến những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn khốc liệt. Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi tươi trẻ và ý chí chiến đấu vì miền Nam của họ. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ khá tiêu biểu cho chủ đề ấy của anh.

       Tứ thơ được hình thành từ một hình tượng, một chi tiết độc đáo: những chiếc xe không kính chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận:

            Không có kính không phải vì xe không có kính

            Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.

            Ung dung buồng lái ta ngồi

            Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

       Lời thơ của Phạm Tiến Duật hết sức tự nhiên chẳng khác gì lời nói bình thường hàng ngày. Cái gian khổ nguy hiểm: bom giật làm vỡ kính xe được anh kể lại một cách tự nhiên như không. Đó là chuyện quá bình thường đối với người lính lái xe trong thời chiến. Ngay khổ thơ mở đầu nhà thơ đã phác họa trước mắt người đọc tư thế hiên ngang của họ. Điệp từ “nhìn” được nhấn mạnh ba lần trong một câu kết hợp với cách ngắt nhịp hai – hai – hai: “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”  đã diễn tả được cái tư thế hiên ngang ấy. Mặc dù bom đạn trên đầu, mặc dù mặt đường sạt lở cây cối ngổn ngang, phải qua bao dốc cao, vực thẳm họ vẫn giữ nguyên tư thế ung dung, hiên ngang, như chẳng có việc gì xảy ra. Không có kính hóa ra lại hay, bởi vì:

           Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,

           Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

           Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

           Như sa, như ùa vào buồng lái.

       Phải người trong cuộc mới viết được những câu thơ vừa hay vừa chính xác đến như thế. Tâm hồn các chiến sĩ lái xe thật lãng mạn. Nhờ không có kính mà sao trời, cánh chim “như sa, như ùa” vào buồng lái. Sao và chim trở thành người bạn đường của họ. “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim” tả rất đúng cảm giác của người lái xe không kính, đồng thời còn nói được sự gắn bó của họ đối với con đường Trường Sơn, con đường đánh Mĩ: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

       Những chiến sĩ lái xe thật trẻ, thật hồn nhiên, pha một chút ngang tàng đáng yêu, đúng là kiểu ngang tàng của lính lái xe:

          Không có kính, ừ thì có bụi,

         Bụi phun tóc trắng như người già.

         Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

         Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!

       Có lần, bình khổ thơ này, Xuân Diệu tỏ ra không thích lắm về tiếng cười “ha ha”. Biết làm sao được! Đó là quyền của người thưởng thức. Nhưng cánh lính lái xe chắc là rất khoái vì Phạm Tiến Duật đã vẽ được rất đúng chân dung của họ. Cái dáng “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” thoải mái, trẻ trung càng làm nổi bật tư thế hiên ngang, tâm hồn lạc quan của họ trong những năm tháng vô cùng ác liệt.

           Những người lái xe coi gian khổ như không:

           Không có kính, ừ thì ướt áo

           Mưa tuôn, mưa  xối như ngoài trời

           Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

           Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!.

       “ừ thì ướt áo” chuyện quá bình thường không đáng kể. “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” thì cũng chẳng sao. Tất cả rồi sẽ nhanh chóng qua đi: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi?”… Vẫn cái chất giọng ngang tàng đáng yêu của lính lái xe.

       Tình cảm gắn bó giữa các chiến sĩ lái xe cũng được diễn tả rất đúng, rất hợp cái phong cách ngang tàng đáng yêu của họ:

         Những chiếc xe từ trong bom rơi

         Đã về đây họp thành tiểu đội,

         Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

         Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

       Họ đều vất vả gian khổ như nhau, họ phải trải qua những phút giây nguy hiểm như nhau, họ chào nhau bằng cái bắt tay cảm thông và tin cậy. “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mang rất nhiều ý nghĩa. Sự gắn bó thân thiết ấy còn được nhà thơ diễn tả qua bữa ăn dã chiến của họ: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.  Họ coi nhau như anh em trong một nhà, cùng san sẻ với nhau bao khó khăn, vất vả. Đời sống chiến đấu càng thiếu thốn, gian khổ càng xích họ lại gần nhau hơn.

       Bài thơ kết thúc bằng sự nhận thức rất sâu sắc của người lính lái xe:

          Không có kính, rồi xe không có đèn,

          Không có mui xe, thùng xe có xước

          Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

          Chỉ cần trong xe có một trái tim.

       Có thể còn nhiều gian khổ, còn nhiều mất mát, còn nhiều hi sinh… nhưng không thể ngăn cản được bước tiến của người lái xe nói riêng của dân tộc ta nói chung. “Trái tim”ở đây là trái tim yêu thương đối với đồng bào miền Nam, trái tim đã nguyện chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng đất nước.

       Bài thơ về tiểu đội xe không kính có một chất giọng riêng đáng quý. Chất giọng tự nhiên pha chút ngang tàng rất phù hợp với các chiến sĩ lái xe thời chiến. Bài thơ đã giúp người đọc hiểu được đời sống chiến đấu hết sức gian khổ thiếu thốn của họ, hiểu được tư thế hiên ngang, tâm hồn trẻ trung lãng mạn và ý chí cao đẹp của họ. Phạm Tiến Duật đã có những đóng góp đáng quý cho nền thơ ca chống Mĩ cứu nước.

Phân tích Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật- Mẫu 4

Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người, sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt.

Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật. Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ chiến sỹ. Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên, sống động, gân guốc, độc đáo và đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đôi xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó .
Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm: những chiếc xe và những người chiến sĩ lái xe. Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ tự nhiên ,mộc mạc như một lời phân bua mà có lẽ trước tác giả chưa ai khám phá ra chất thơ bộc lộ ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi .
Cách lý giải đơn giản, ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc. Cảm hứng thơ bắt đầu từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung” giúp ta hình dung sự tàn phá của đạn bom trên những nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ dội. Song thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Trên những chiếc xe không kính, dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm. Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến không ngờ. Trong tư thế ung dung, trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh, tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên nhiên. Nhịp thơ cân xứng, ý thơ trôi chảy, lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận. Cái vất vả, gian khổ hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Xe không kính, gió lùa mạnh vào cabin, người lái xe không chỉ cảm thấy mà còn nhìn thấy “gió vào xoa mắt đắng ”. Cử chỉ quá đỗi trìu mến, dịu dàng và thân thiện ấy của gió làm đắng những đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ. Và hơn thế nữa ,nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
…Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời.
Điệp từ “ừ thì”, “chưa cần”, hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”, giọng “cười haha” hào sảng làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ biết biến cái vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái. Qua đó làm sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực và bất chấp gian khó của những người biết vượt lên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh. Có lẽ ai đã từng đến Trường sơn mới thấu hết cái gian nan của người cầm lái. Đường Trường Sơn gập ghềnh,mưa Trường Sơn như trút nước, mùa khô xe chạy bụi mù trời. Bom đạn của quân thù không làm các anh chùn bước thì gió, bụi,mưa sa của thiên nhiên khắc nghiệt nào có đáng kể chi. Trên những chiếc xe không kính ,tâm trạng người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Lạ lùng thay, như một khám phá bất chợt của nhà thơ, sự hiểm nguy của những chiếc xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp nhau, bởi họ có thể không cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể hiện tình thân ái. Công việc vất vả, hiểm nguy nhưng phút nghỉ ngơi của những người lính lại vô cùng giản dị :
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm .Những người lính không chỉ là đồng chí ,đồng đội của nhau mà họ còn là những người cùng trong một gia đình. Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng. Chỉ có điều càng gần đến phương Nam những chiếc xe ngày càng hư hỏng:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước .
Khi tứ xe “không kính” được gói lại thì những con số không khác lại mở ra: “không đèn”,“không mui”,chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”. Như vậy cả “không có” và “có ”đều là tổn thất, đều là hư hại. Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt của chiến tranh , hoàn thiện dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe vận tải. Vượt dãy Trường Sơn, đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù ,mang trên mình đầy thương tích những chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường. Kì lạ thay:
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
“Trái tim” là một hoán dụ chỉ người chiến sĩ lái xe yêu nước căm thù giặc sống trẻ trung, sôi nổi và lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến. Câu thơ khép lại nhưng con mắt thơ thì mở ra. Ta chợt nhận ra người chiến sỹ lái xe là một phần không thể thiếu ,là con mắt ,là bộ não ,là linh hồn của xe. Có trái tim chiếc xe thành một cơ thể sống ,thành một khối thống nhất với người chiến sĩ. Ta hiểu vì sao cả đoàn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu thương. Có lẽ vì thế mà nhiều người cho rằng đây là hình ảnh trái tim cầm lái.
Đến với bài thơ ta thú vị nhận ra cái giọng rất trẻ, rất lính. Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ ,từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính tác giả đã từng sống, từng trải nghiệm. Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi, hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ, đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong thơ đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả.

Phân tích Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật- Mẫu 4

Phạm Tiến Duật là nhà thơ nổi lên từ phong trào chống Mỹ cứu nước. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Ông vào bộ đội và xung phong vào tuyến lửa khu Bốn. Từng là lính lái xe nên ông có những bài thơ viết rất hay về binh chủng này. “ Tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu. Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã vượt lên hiện thực dữ dội, ác liệt của khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ để hoàn thành nhiệm vụ.

Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những chiếc xe, nói cho đúng là cả một tiểu đội xe không có kính chắn gió, chắn bụi băng băng ra trận. Mà độc đáo thật, vì chỉ gặp ở Việt Nam, ở những chiến sĩ lái xe quân sự thời chống Mỹ. Có thể nói “chất” độc đáo này được lên men từ chiến trường ác liệt:
   “Không có kính không phải vì xe không có kính
                     Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Nguyên nhân xe không kính là vậy. Đấy là mội hiện thực trần trụi mà tác giả không thể hư cấu.
Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy là hình ảnh người lính lái xe hiện lên rất đẹp. Cứ tưởng với hiện thực dữ dội, ác liệt, trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó tay, thế nhưng vẫn nổi lên với tư thế:
 “Ung dung buồng lái ta ngồi
                     Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Nghĩa là xe cứ đi. Không những ung dung mà người lính lái xe còn tỏ ra rất chủ động, hiên ngang vượt lên tất cả. Nói đến người lái xe là nói đến con mắt, nói đến cái nhìn. Tô đậm cái nhìn của người lái xe, chỉ trong một dòng thơ, tác giả đã sử dụng 3 lần từ “nhìn” (điệp từ). Nhìn trời là để phát hiện máy bay hay pháo sáng về ban đêm. Nhìn thẳng là cái nhìn nghề nghiệp, hiên ngang. Và cũng từ ca bin không kính, qua cái nhìn đã tạo nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động, cụ thể đối với người lái xe:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
                     Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
                     Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
                     Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay tượng trưng, đều thể hiện cái thế ung dung tinh thần vượt lên của người lái xe.
Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được tô đậm. Cái tài của Phạm Tiến Duật trong khổ thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn cảnh của người lái xe trong thời gian chiến tranh ác liệt.
Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên.
Những cụm từ “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo” chứng tỏ họ không những đã ý thức được mà còn rất quen với những gian khổ đó.
Chính vì thế:
“Chưa cần lửa, phì phèo châm điếu thuốc

                     Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Và cao hơn:
”Chưa cần thay lái trăm cây số nữa

                     Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.”
Đây là những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh thần và cuộc sống của người lính Các động tác “phì phèo châm điếu thuốc” tuy có vụng về nhưng sao đáng yêu thế?. Cái cười “ha ha” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của mọi người sao mà rạng ngời đến thế? Bởi vậy, đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, yêu đời và tinh thần hoàn thành nhiệm vụ cao.
Hai khổ thơ tiếp nói về cảnh sinh hoạt và sự họp mặt sau những chuyến vận tải trên những chặng “đường đi tới”. Vẫn những câu thơ có giọng điệu riêng, đậm chất văn xuôi rất riêng của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tình đồng chí, đồng đội trong kháng chiến. Ở hai khổ thơ này, tác giả vẫn tô đậm cái hình tượng thơ “xe không kính”, nhưng lại có cách nói khác rất lính:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

                     Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với chúng ta một điều như một điều dự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe không kính mà tương lai còn là tiểu đội xe không đèn, không mui xe,… Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra còn hết sức ác liệt, người lính lái xe còn phải đối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã, thử thách: “Không có kính rồi xe không đèn, không có mui, thùng xe có xước” nhưng nhất định họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ, sẽ chiến thắng bởi vì phía trước họ là miến Nam thân yêu và vì họ sẵn có một nhiệt tình cách mạng, một trái tim quả cảm trái tim người lính Bác Hồ.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
                     Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bài thơ là bức tượng đài nghệ thuật về người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh người chiến sĩ đã được thể hiện rất rõ ràng và chân thật. Qua các hình ảnh ấy, ta thấy rõ được sự khó khăn và gian khổ của những người lính oai hùng và thêm yêu mến, thêm biết ơn đối với các vị anh hùng dân tộc đã ra đi để đất nước được vẹn tròn.

Phân tích Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật- Mẫu 5

Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của những năm tháng kháng chiến chống Mỹ vĩ đại. Là một người từng trải, lại trực tiếp nắm tay lái trên tuyến đường Trường Sơn, nhà thơ đã tạo nên những vần thơ vô cùng mới mẻ. Với bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã tái hiện lại những chiến công hào hùng của dân tộc.

Trong bài thơ, Phạm Tiến Duật mô tả hình ảnh những chiến sĩ lái xe tiếp viện cho tiền tuyến. Một hình ảnh đầy ngang tàng, nhưng không kém phần giản dị và chuẩn mực. Tuy nhiên, những chiếc xe lại không đủ trang thiết bị thiết yếu, không đèn, không kính, không mui, thậm chí còn xước xác do bom đạn của giặc. Nhưng đó không làm suy yếu tinh thần của những chiến sĩ lái xe, mà ngược lại, họ luôn lạc quan yêu đời, tin tưởng vào tương lai.

Với những câu thơ đầy cảm xúc, bài thơ của Phạm Tiến Duật đã tạo nên một hình ảnh chân thực và đặc sắc của những người lính lái xe không kính, đồng thời cũng khắc họa nên tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam trong những năm đại chiến.

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái.

Tại đây, nhịp thơ trở nên nhanh và dồn dập như nhịp đập của những chiếc xe chạy trên đường. Chính vì không có kính, các anh lái xe mới cảm nhận rõ nhất được thế giới bên ngoài: gió thổi, đường đi, chim bay, sao trời… Chỉ có những người đã trải qua thực tế mới có thể có được những cảm xúc chân thật như vậy. Gió thổi vào làm dịu đi nỗi mắt đau. Ở đây, mắt đau không phải do bụi mà do thiếu ngủ. Chính những cơn gió thổi vào cửa đã giúp các anh lái xe tỉnh táo và minh mẫn hơn khi lái xe. Tất cả những cảnh vật bên ngoài “như sa, như ùa” vào bên trong để các anh có thể nhìn thấy cả con đường chạy thẳng vào trái tim. Mặc dù khó khăn và thiếu thốn đến đâu, tâm hồn của người lính vẫn lạc quan và yêu đời.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.

Dẫu cho phải trải qua muôn vàn khó khăn, gian khổ thì chỉ cần có niềm tin và lòng say mê thì xe của những người lính vẫn chạy thẳng về phía trước.

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Trong bài thơ, tác giả muốn truyền tải thông điệp về sức mạnh của tinh thần yêu nước và quyết tâm chiến đấu của con người trong bối cảnh chiến tranh đang diễn ra. Dù mọi thứ xung quanh đều bị phá hủy, chiếc xe tàn phá nhưng tinh thần của người lái xe vẫn bền bỉ và bất diệt, và đó là điều làm cho chiếc xe vẫn chạy tiếp.

Hình ảnh người chiến sĩ lái xe là tượng trưng cho tất cả các chiến sĩ trong cuộc chiến tranh, những người đã đổ máu và hy sinh để bảo vệ đất nước và dân tộc. Tác giả muốn khẳng định rằng, dù bị tàn phá và đánh bại, tinh thần và ý chí của con người vẫn có thể vượt qua mọi thử thách và khó khăn trong cuộc sống.

Những hình ảnh về chiến tranh và sự tàn phá của nó trong bài thơ là để kêu gọi những sự cảm thông và sự quan tâm từ độc giả. Tác giả muốn nhắc nhở mọi người rằng, sự hy sinh của các chiến sĩ là để bảo vệ cho sự tự do và hạnh phúc của dân tộc, và chúng ta cần phải giữ gìn và bảo vệ những giá trị đó.

Phân tích Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật- Mẫu 6

Trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh, nhan sắc thanh niên xung phong và những người lính trên tuyến đường Trường Sơn đã trở thành đề tài hấp dẫn của nhiều tác giả. Trong số đó, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã gợi lên hình ảnh rõ nét của những người lính trên chiếc xe không kính, được thể hiện đầy tinh tế và thống nhất. Trong khi đó, bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã miêu tả hình ảnh những người lính nông dân, đồng cảm và chia sẻ với nhau trong những khoảnh khắc cùng chịu đựng những gian khổ, những nỗi niềm và thiếu thốn. Ngược lại, trong tác phẩm của Phạm Tiến Duật, hình ảnh người lính lại mang đậm nét trẻ trung, với sự ung dung và hiên ngang đối mặt với những khó khăn trên tuyến đường Trường Sơn.

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng

Dù đang chiến đấu trong một cuộc chiến tranh đầy khốc liệt, nhưng những người lính vẫn giữ được phong thái ung dung, với ánh mắt tự tin và nhiệt huyết đầy sức sống. Bằng cách sử dụng nhịp thơ 2/2/2 kết hợp với từ láy “ung dung” được đặt ở đầu câu, tác giả nhấn mạnh vào tư thế hiên ngang, sự chủ động của những người lính trên chiến trường. Họ không chỉ tập trung vào con đường phía trước, mà còn đối mặt với sự thật khắc nghiệt của chiến tranh và sẵn sàng tiến lên phía trước. Sau đó, tác giả cảm nhận được tinh thần chiến đấu của những người lính trên tuyến đường Trường Sơn.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái.

Bốn câu thơ mới chỉ miêu tả cảnh vật thực tế, nhưng đồng thời cũng mang đến cảm giác thơ mộng, lãng mạn. Khi các chiếc xe không kính di chuyển trên đường, gió luôn làm cho họ cảm thấy nóng bức và bỏng rát, đặc biệt là vào những ngày hè nắng nóng. Nhưng với mắt lãng mạn của những người lính, những cơn gió đó lại làm dịu đi sự mệt mỏi của họ. Hình ảnh con đường chạy thẳng vào trái tim là một nguồn cảm hứng đầy thú vị. Nó miêu tả được tốc độ nhanh của những chiếc xe không kính khi chạy trong mưa bom bão đạn, và sự can đảm không sợ hãi của những người lính.

Dưới cái nhìn thơ mộng của người lính, họ không chỉ nhìn thấy những đàn chim, đàn sao ùa vào buồng lái, trở thành bạn đồng hành của họ trên chặng đường Trường Sơn khắc nghiệt, gian khổ mà còn là cảm giác nhân hóa. Tác giả sử dụng động từ mạnh “vội vàng” thể hiện cái nhìn lạc quan của người lính: thiên nhiên không phải là chướng ngại vật cản bước họ mà là người bạn thân thiết cùng chia sẻ gian khổ trên con đường vào Nam.

Trong những năm tháng kháng chiến, sống xa gia đình, tình cảm đồng chí đồng đội trở nên quý giá và cần được trân trọng. Sức mạnh tinh thần đó giúp họ vượt qua mọi khó khăn, trở ngại. Các người lái xe cũng thế, bằng cách bắt tay vội vàng qua những ô cửa kính vỡ, tình thương ấm áp nối kết những người xa lạ. Điều đặc biệt hơn cả là khi cùng nhau ăn bữa cơm đơn giản giữa rừng. Những khoảnh khắc ấy không chỉ biến họ thành bạn đường mà còn trở nên như gia đình:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy

Trái ngược với những khó khăn, thiếu thốn vật chất bên ngoài, sức mạnh tinh thần bền bỉ và mạnh mẽ của người lính được biểu hiện qua trái tim nhiệt thành, cháy bỏng. Ngay cả khi đối diện với một miền Nam xa xôi, xe vẫn có thể tiếp tục chạy trước khi có một trái tim kiên định và quyết tâm. Những chiếc xe không chỉ chạy bằng nhiên liệu mà còn chạy bằng ý chí và nghị lực phi thường của những người lính. Chỉ cần có trái tim lạc quan, mang trong mình niềm tin chiến thắng, người lính có thể đưa đoàn xe đến mọi nẻo đường.

Tác giả đã mô tả một tượng đài của một người lính lái xe đầy dũng cảm, hóm hỉnh và lạc quan yêu đời bằng ngôn ngữ và giọng điệu độc đáo. Những hình ảnh này trở thành biểu tượng cho thế hệ thanh niên Việt Nam trong cuộc chiến cứu nước qua đường Xẻ dọc Trường Sơn. Thế hệ này đã tỏ ra anh hùng, kiên cường và quyết tâm hy sinh tính mạng và tuổi trẻ của mình để giải phóng đất nước và khát vọng tương lai:

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước 

Mà lòng phơi phới dậy tương lai

Phân tích Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật- Mẫu 7

Nhắc đến Phạm Tiến Duật là nhắc đến một trong những nhà thơ tiêu biểu của những năm tháng kháng chiến chống Mỹ vĩ đại. Là một người từng trải, lại trực tiếp nắm tay lái trên tuyến đường Trường Sơn nhà thơ đã tạo nên những vần thơ vô cùng mới mẻ. Vừa có nét gì đó tinh nghịch, hóm hỉnh lại không kém phần suy tư. Với bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã làm sống dậy cả những năm tháng hào hùng của dân tộc.

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

Bài thơ có nhan đề vô cùng độc đáo nó góp phần thể hiện tâm hồn vô cùng lạc quan yêu đời của những chiến sĩ lái xe tiếp viện cho tiền tuyến. Những con người đầy ngang tàng, nhưng cũng không kém phần giản dị chuẩn mực.

Hình ảnh của những người chiến sĩ lái xe gắn liền với những chiếc xe không kính, một hình ảnh miêu tả vô cùng chân thực. Bom đạn của giặc đã khiến cho những chiếc xe trở nên thiếu hụt đủ thứ: không đèn, không kính , không mui thậm chí còn xước xác….

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

Thế nhưng chính vì không có kính nên hình ảnh những người chiến sĩ lái xe mới hiện lên một cách chân thực và tài tình đến vậy. Những con người bất chấp sự thiếu thốn, khó khăn vẫn băng băng lao về phía trước một lòng vì tiền tuyến:

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái.

Đến đây ta thấy nhịp thơ trở nên dồn dập và nhanh đến lạ nó như là những nhịp xe chạy trên đường vậy. Chính vì xe không có kính nên các anh mới có thể cảm nhận rõ nhất những thứ đang ở ngoài đến vậy: thấy gió, thấy con đường, cánh chim, sao trời…. Chỉ có những con người đã trải qua thực tế mới có thể có những cảm nghĩ chân thực đến vậy. Gió ùa vào làm xoa dịu đi mắt đắng. Mắt đắng ở đây không phải do bụi mà là do thiếu ngủ, chính cơn gió ùa vào nơi cửa đã giúp các anh trở nên tỉnh táo và minh mẫn hơn khi cầm lái. Tất cả những cảnh vật bên ngoài “như sa, như ùa” vào bên trong để các anh có thể nhìn thấy cả con đường chạy thẳng vào tim.

Thế nhưng dù thiếu thốn đến vậy khó khăn đến vậy tâm hồn người lính vẫn hết sức lạc quan và ngang tàng:

Không có kính, ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già.

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo.

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa .

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!

Có lần bình luận về khổ thơ này nhà thơ Xuân Diệu tỏ ra không hài lòng với cụm từ cười “ha ha”. Thế nhưng biết làm sao được. Có thế mới tạo nên khí phách của các anh có thế mới cảm nhận hết sự sảng khoái hồn nhiên của một tinh thần đầy lạc quan trong những năm tháng kháng chiến gian khổ.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.

Dẫu cho phải trải qua ngàn khó khăn ngàn gian khổ thì chỉ cần con người còn có niềm tin còn có say mê thì xe vẫn chạy thẳng về phía trước. Bầu trời kia như xanh thêm khi có các anh có nụ cười của các anh.

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Khổ thơ cuối cùng mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm đặc biệt. Trong khói lửa hoang tàn của chiến tranh mọi thứ đều bị phá hủy. Chiếc xe thảm hại vì không có kính, chẳng có đèn, không có mui mà lại còn xước thế nhưng bom đạn của kẻ thù dường như chẳng thể thắng nổi ý chí con người. Chỉ cần trong buồng lái vẫn còn một trái tim còn đập còn một tinh thần bất diệt thì xe vẫn còn chạy. Đó chính là điều mà nhà thơ muốn gửi gắm, tinh thần yêu nước sẽ trở thành một ngọn lửa bất diệt chiến thắng mọi kẻ thù, nó vượt lên trên hết cả những mũi tên hòn đạn, đạp lên mọi kẻ thù tàn bạo.

Hình ảnh người chiến sĩ lái xe là hình ảnh đại diện cho vô số lớp người chiến sĩ trong khói lửa chiến tranh. Tinh thần của các anh cũng chính là thứ tình yêu nước thiết tha mà cả dân tộc thời bấy giờ đang hừng hực.

Chiến tranh tuy đã lùi xa hơn ba mươi năm thế nhưng hình tượng người chiến sĩ ấy vẫn sống mãi trong lòng độc giả. Nó trở thành những bức tượng đài bất diệt về tinh thần yêu nước và sự quả cảm trong những năm tháng đau thương mà anh hùng của dân tộc.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Phân tích Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 10/2024!