Updated at: 08-05-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng năm tháng Giêng chuẩn nhất 04/2024.

Dàn ý

1. Mở bài

– Giới thiệu câu chuyện

2. Thân bài

– Nguyễn Huệ nghe tin quân Thanh đến Thăng Long giận lắm liền họp các tướng sĩ định thân chinh cầm quân đi ngay. Tướng sĩ xin Bắc Bình Vương lên ngôi để làm yên lòng người. Nguyễn Huệ cho đắp đàn trên núi tế cáo trời đất lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân hạ lệnh xuất quân.

– Đến Nghệ An, Quang Trung cho tuyển thêm hơn 1 vạn lính mở cuộc duyệt binh. Đến Tam Điệp mở tiệc khao quân, chia quân sĩ làm 5 đạo. Đúng tối 30 tết lập tức lên đường.

– Trên đường tiến quân ra Bắc, những toán quân Thanh do thám bị bắt sống. Ngày 03 tháng giêng năm Kỉ Dậu, đồn Hà Hồi bị hạ. Mờ sáng ngày 05 tiến đánh đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh đại bại. Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt cuống cuồng chạy mất mật. Quân Thanh tranh nhau qua cầu tháo chạy rơi xuống nước nhiều không kể xiết. Vua tôi Lê Chiêu Thống dìu dắt nhau chạy trốn sang đất Bắc.

C. Kết bài

– Nêu cảm nghĩ về trận chiến đấu oanh liệt và sự oai hùng của hoàng đế Quang Trung.

Thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng năm tháng Giêng- Mẫu 1

        Việt Nam – một đất nước nhỏ bé phải bao lần oằn mình dưới gót giày ngoại xâm nhưng chưa bao giờ cúi đầu làm nô lệ. Việt Nam – một đất nước anh hùng đã bao phen đánh đuổi các đế quốc xâm lược ra khỏi bờ cõi, làm chấn động năm châu, rung chuyển địa cầu. Việt Nam – một đất nước đã biến những tổn thương thành những chiến tích vàng son khiến người người cúi đầu nể phục. Trận chiến thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung là một trong những trận chiến xuất sắc đã trở thành một dấu son chói lọi sáng ngời trong lịch sử nước nhà.

        Lúc bấy giờ, Nguyễn Huệ – Bắc Bình Vương đóng quân tại Phú Xuân, ông là người dữ tướng, tóc xoăn, da sần, mắt sáng như chớp có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối. Mọi người sợ ông đến nỗi không dám nhìn thẳng vào mắt ông. Ngày 24 tháng 11. Nguyễn Văn Tuyết được lệnh của Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm chạy trạm vào Nam cấp báo cho Nguyễn Huệ biết về việc Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, mở đường cho Tôn Sĩ Nghị kéo hai mươi chín vạn quân sang xâm lược nước ta. Xem ra chúng là một đạo quân ô hợp, kinh thường nước ta. Trước thế giặc ồ ạt như vậy, Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm bèn cho quân rút lui, quân thuỷ đóng ở vùng Biện Sơn, quân bộ đóng ở vùng Tam Điệp, nghĩa là ta đã mất đất nước từ vùng cửa ải Lạng Sơn đến kinh thành Thăng Long.

        Tại Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị cho quân đi cướp bóc, giết người, bắt nhân dân phải nộp trâu, bò, có nơi phải nộp cỏ để nuôi ngựa. Chúng bắt nhân dân ta phải xây nhà và thành luỹ cho chúng. Còn Lê Chiêu Thống, ông được nhà Thanh phong là An Nam Quốc Vương nhưng thực ra chỉ là bù nhìn. Nhân dân thành Thăng Long nói với nhau rằng: từ khi nước Nam có đế có vương đến nay, chưa từng thấy một ông vua nào đê hèn như thế.

        Về phần Nguyễn Huệ, sau khi nghe tin xong thì tức giận lắm, ông giận đến nỗi mắt ông có thể đốt cháy mọi vật. Ông họp các tướng sĩ lại và tự mình thân chinh đi đánh giặc. Các tướng sĩ đều ngăn cản, khuyên ông hãy ban lệnh ân xá khắp trong ngoài để yên kẻ phản trắc và giữ được lòng người, rồi đánh quân Thanh cũng chưa muộn. Nghe lấy làm phải, ngày 25 tháng chạp, năm Mậu Thân, Nguyễn Huệ lập đàn trên núi Bân, tế thần sông thần núi, chế ra áo cổn mũ miện. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung, vẻ mặt ông cương trực mà thẳng thắn, oai phong lẫm liệt. Lễ xong, Quang Trung hạ lệnh xuất quân, tự mình đốc suất binh lính. Ngày 29 tháng chạp đến Nghệ An, ông có hỏi qua ý của Nguyễn Thiếp và được biết rằng: không quá mười ngày có thể dẹp được quân Thanh ra khỏi bờ cõi. Nghe vậy, Quang Trung mừng thầm, ông cho tập cuộc duyệt binh. Những hàng quân thẳng tắp, tay cầm cờ, gươm giáo, vũ khí rất chỉnh tề. Trong khuôn mặt mỗi người thể hiện ý chí chiến quyết thắng để bảo vệ đất nước hoà bình yên ổn, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm. Lời nói ông sang sảng mà đầy hào khí, tuyên bố với ba quân ý chí đánh tan quân xâm lược, bảo vệ nền độc lập, giử gìn văn hoá và những phong tục tập quán lâu đời của nhân dân. Ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc, khiến quân thù phải hiểu rằng nước Nam là nước anh hùng có chủ, không ai có thể xâm chiếm được. Quang Trung nói xong, thì các quân sĩ đồng loạt vâng lệnh.

        Hôm sau, ông hạ lệnh tiến quân, đến núi Tam Điệp, Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm đều mang gươm trên lưng mà chịu tội. Quang Trung phân tích rõ công tội của họ, khen ngợi kế hoạch tạm rút binh để bảo toàn lực lượng. Qua những lời nói đó, Quang Trung đã thể hiện mình là người sáng suốt, mưu lược, có sự am hiểu, lòng vị tha độ lượng, sử dụng quân lệnh rất nghiêm minh. Ngày 30 tháng chạp, vua mở tiệc khao quân, tuyên bố với mọi người mồng 7 sẽ vào thành ăn mừng chiến thắng. Những lời nói đó của ông đã đốc thúc được lòng quân, giúp quân sĩ lấy được tinh thần chiến đấu. Quang Trung chia quân sĩ thành năm đạo. Đạo chủ lực do ông trực tiếp chỉ huy, tấn công vào thành Thăng Long, đạo thứ hai và thứ ba tấn công vào tây nam Thăng Long và yểm trợ cho đạo thứ nhất. Đạo thứ tư tiến ra phía Hải Dương, đạo thứ năm tiến lên Lạng Giang, chặn đường rút lui của quân địch. Cả năm đạo quân đúng ngày tháng giêng lên đường, để giữ được sức chiến đấu. Vua cho sai dùng cáng làm võng, cứ hai người khiêng một người, cứ thế luân phiên nhau mà nghỉ ngơi. Khí thế của quân sĩ rất hùng dũng và oai nghiêm, ai cũng đồng lòng đánh đuổi quân giặc. Đêm 30 Tết, quân ta vượt sông Gián tiêu diệt toàn bộ quân địch, không để cho tên nào chạy thoát nên những đạo quân Thanh đóng ở Thăng Long và Ngọc Hồi không hay biết gì. Nửa đêm ngày mồng 3 Tết, sau khi đi được hai ngày ba đêm thì đã tới làng Ngọc Hồi.

        Quang Trung dùng kế nghi binh, lặng lẽ cho quân lính bao vây xung quanh làng rồi bắc loa truyền gọi, tiếng quân sĩ luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng. Lúc bấy giờ trong đồn mới biết, quân giặc rụng rời sợ hãi xin hàng, nộp toàn bộ khí giới và lương thực. Rồi Quang Trung cho ghép hai mươi bức ván, chọn người khoẻ mạnh, cứ mười người khiên một bức. Mờ sáng ngày mồng 5, quân ta tiến sát đến Hà Hồi. Đây là đồn quan trọng nhất của địch với khoảng hai mươi vạn quân tinh nhuệ. Đồn lũy được xây dựng kiên cố, xung quanh đều cắm chông sắt và chôn địa lôi. Mở đầu trận đánh, hơn một trăm voi chiến của quân ta ào ạt tiến vào, tiếp sau là đội mang những tấm lá chắn bằng gỗ tẩm rơm ướt bên ngoài, đội bảo vệ bộ binh theo sau với hai mươi nghìn người cầm binh khí dàn thành trận thứ nhất. Khi tiến sát đến gần. Quang Trung truyền lệnh cho tượng binh và bộ binh đồng loạt xông tới, quân Thanh nổ súng nhưng không trúng bèn phun khói lửa nhưng không ngờ gió đổi hướng, quân Thanh tự làm hại mình, thế gọi là gậy ông đập lưng ông. Được lệnh, đội quân khiêng ván vừa che vừa xông lên, khi đà chạm nhau thì quăng ván xuống; dùng dao ngắn chém bừa, những quân sĩ đằng sau cũng nhất tề xông lên. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại. Cùng lúc đó, đạo quân thứ hai và thứ ba tấn công vào đồn Đống Đa, được nhân dân địa phương ủng hộ, quân ta giáp chiến, đốt lửa thiêu cháy doanh trại. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống khiếp sợ, thắt cổ tự tử. Quân Thanh tháo chạy về phía đông trông thấy đạo quân thứ tư càng khiếp sợ, bèn tìm lối tắt nhưng bị đạo quân thứ năm chặn đường. Hết hồn vía, quân Thanh bèn trốn xuống làng Quỳnh Đô, bị voi quân ta giày đạp, chết hàng loạt.

        Tôn Sĩ Nghị nghe tin cấp báo thì bàng hoàng mất vía, thật là tướng từ trên trời rơi xuống, quân chui dưới đất lên. Sợ mất mặt, Tôn Sĩ Nghị vội vã bỏ trốn quân sĩ nghe tin thì hoảng hốt tranh nhau qua cầu, xô đẩy nhau rơi xuống nước mà chết. Khi cầu gãy, quân lính rơi xuống sông làm nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn, về phần vua Lê, đang chăm chú mải mê yến tiệc, nghe tin liền chạy trốn. Trời nhá nhem tối thì đến kịp chỗ của Tôn Sĩ Nghị. Trưa mồng 5 Tết Kỉ Dậu, Quang Trung cùng đoàn quân tiến thẳng vào Thăng Long giữa muôn ngàn tiếng reo hò của nhân dân.

        Chiến công thần tốc Quang Trung đại phá quân Thanh đã để lại một dấu ấn lịch sử to lớn của nước ta và làm tăng thêm sự oai hùng một lần nữa người phương Bắc lại thua người phương Nam. Lễ hội Đống Đa hằng năm chính là lễ hội mừng cho chiến thắng lần ấy.

Thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng năm tháng Giêng- Mẫu 2

Nhà Tây Sơn gồm ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ. Mỗi người xưng vương một miền. Nguyễn Huệ được mọi người gọi là Bắc Bình Vương. Trong thời kì đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam những năm 30 cuối thế kỷ XVIII, Lê Chiêu Thống rất lo sợ cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên đã cầu cứu mở đường cho quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Trần Văn Tuyết chạy vào thành Phú Xuân cấp báo cho Bắc Bình Vương về việc quân Thanh xâm lược nước ta; Lê Chiêu Thống nhận sắc phong của vua nhà Thanh là Nam Quốc Vương; Ngô Văn Sở cho quân rút lui về Tam Điệp nghĩa là nước ta mất hết đất từ cửa ải phía Bắc đến Thăng Long. Nghe được tin cấp báo, Bắc Bình Vương giận lắm. Biết là biến cố lớn, ông quyết định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh.

        Ông cho họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay nhưng mọi người đến họp đều ngăn lại, xin ngài trước hết hãy chính vị hiệu; ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau cất quân ra đánh dẹp cõi bắc là chưa muộn. Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi. Trong nghi lễ, ngài khoác lên mình chiếc áo long bào có thêu hình rồng uốn lượn lấp loáng, đầu ngài đội mũ miện, cổ đeo chuỗi hạt bằng ngọc, chân đi giày vàng. Trông ngài thật uy nghi và nghiêm trang bước lên đàn tế trời đất. Như cuốn Các triều đại Việt Nam có viết: Ngài là người có dung mạo đặc biệt. Tóc quăn, da sẫm, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối. Trên gương mặt ngài vẻ cương nghị, oai phong lẫm liệt và dữ tướng đến mức không ai dám nhìn thẳng vào mặt ngài.

        Bắc Bình Vương lên ngôi hoàng đế đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung. Lễ xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy là ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh cả thuỷ lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 đến Nghệ An, vua cho gọi Nguyễn Thiếp, một người có tài tiên đoán vào hỏi về mưu đánh và giữ, cơ được hay thua. Được Nguyễn Thiếp trả lời: chuyến này ra đi không quá mười ngày quân Thanh sẽ bị dẹp tan. Vua Quang Trung mừng lắm liền sai đại tướng là Hám Hổ Hầu tuyển lính ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người. Ai cũng có thân hình vạm vỡ, bắp tay cuồn cuộn, họ đều là những nông dân lực điền. Chưa mấy chốc đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ, hàng ngũ thẳng tắp, cờ trống rợp trời, giáo mác sắc nhọn sẵn sàng chiến đấu.

        Vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn chia làm bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu là số quân ở Thuận Hoá, Quảng Nam còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì cho làm trung quân. Quang Trung cưỡi voi ra doanh trại an ủi quân lính bằng khẩu dụ vang rõ, sang sảng đầy hào khí trước ba quân, khẳng định niềm tin ý chí quyết thắng của quân đội chính nghĩa. Nghe xong các quân lính đều xin vâng lệnh, không dám hạ lòng. Hôm sau, vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Khi đến núi Tam Điệp, Sở và Lân đều ra đón, mang gươm trên lưng mà xin chịu tội. Vua phân tích rõ công, tội của Sở và Lân: Giặc đến mà không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: “Quân thua chém tướng” tội các người đều đáng chết một vạn lần. Tuy nhiên ta nghĩ các người đều là hạng vô dùng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tuỳ cơ ứng biến thì cũng không có tài. Vì lẽ đó vua đã cho Ngô Thì Nhậm ở lại làm việc cùng Sở và Lân. Thì Nhậm bèn lạy hai lạy để tạ ơn. Vua Quang Trung lại nói lần này phương lược tính sẵn rồi chẳng qua mười ngày có thể đuổi quân Thanh. Nhưng chúng gấp mười nước mình, thua đau sẽ trả thù thì đời sống nhân dân sẽ vô cùng khốn khổ vì nạn binh đao. Chờ mười năm nữa nước ta lớn mạnh có sợ gì chúng.

        Bọn Sở và Lân đều lạy tạ, trong lòng chúng thấy rất rõ sự am hiểu; quân lệnh nghiêm minh và vô cùng cảm kích trước sự vị tha độ lượng của vua Quang Trung. Đêm 30 tháng chạp, vua cho mở tiệc khao quân linh đình, chia quân làm ba đạo và bảo kín với các tướng đêm 30 lập tức lên đường hẹn ngày mồng 7 năm mới thì vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Giọng nói người sang sảng âm vang khắp quân lính. Trong bữa tiệc ai cùng vui mừng, vui chơi thoả thích. Đúng ngày, cả năm đạo quân đều vâng lệnh, gióng trống lên đường ra Bắc. Để giữ sức chiến đấu cho binh lính vua cho dùng cáng làm võng cứ hai người khiêng một người ngủ, luân phiên đi suốt ngày đêm. Khi đến sông Gián, ai nấy đều mệt lử, áo quần lôi thôi, mặt mũi bơ phờ, người bám đầy bụi bặm do hành quân quá dài nhưng vì lòng yêu nước, yêu Tổ quốc, nghĩ đến lời an ủi của vua binh lính lại phấn chấn, sẵn sàng chiến đấu. Nghĩa binh giặc trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước nháo nhác, lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt. Vua cho binh lính chạy theo bắt sống được hết vì vậy quân Thanh không hề có ai chạy về báo tin. Việc tiến quân của ta là hoàn toàn bí mật đến đồi Hà Hồi, Ngọc Hồi.

         Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỉ Dậu (1789), vua tới đồn ở làng Hà Hồi huyện Thượng Phúc lặng lẽ vây kín làng mới dùng kế nghi binh bắc loa truyền gọi: Quân. Tiếng quân lính luân phiên nhau: Dạ…dạ ran khắp cả vùng trời để hưởng ứng nghe như có hơn vài vạn người. Trong dồn lúc ấy mới biết, ai nấy run lẩy bẩy, rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân ta lấy hết. Vua lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm là một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức, rồi kén hạng lính khoẻ mạnh cứ mười người khiêng một bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác dùng binh khí theo sau, dàn thành hàng ngang. Mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng chẳng trúng người nào. Tiện có gió Bắc, chúng dùng súng phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không nhìn thấy gì cả hòng làm quân ta hoảng loạn. Không ngờ trời bổng trở gió Nam khiến khói bay ngược lại, quân Thanh tự hại mình. Quân ta gấp rút khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa bãi những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy rẫy, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.

        Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía đông. Đến lúc ấy. quân Thanh đều hết hồn vía, vội trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô. Quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người. Giữa trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành. Lại nói không nghe thấy tin cấp báo nên trong ngày Tết mọi người chỉ chăm chú yến tiệc. Nào ngờ cuộc vui chưa tàn cơ trời đã đổi. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cấp báo, Tôn Sĩ Nghi sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên. người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã chuồn trước qua cầu phao rồi nhằm hướng bắc mà chạy. Quân sĩ nghe tin hỏang hồn, tan tác bỏ chạy đánh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính rơi xuống nước đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa. Quân ta ăn mừng chiến thắng vô cùng giòn giã.

        Chiến công đại phá quân Thanh đã chứng tỏ nước ta là một nước mạnh mẽ, có độc lập, chủ quyền. Khắc hoạ sâu sắc hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ với tài mưu lược, ý chí kiên cường đấu tranh. Hằng năm, dân ta vẫn tổ chức lễ hội Đống Đa để nhớ đến công lao của ông cha ta thời xưa và ôn lại chiến thắng lịch sử hào hùng của dân tộc đã đại phá quân Thanh rất thần tốc.

Thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng năm tháng Giêng- Mẫu 3

Lê Chiêu Thống – một con người phản nước hại dân, do lo sợ mất ngôi vị hoàng đế nên đả cầu cứu mở đường cho quân Thanh xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, Lê Chiêu Thống nhận sắc phong của nhà Thanh là Nam Quốc Vương. Ngày 24 tháng 11, Văn Tuyết vào Nam cấp báo Bắc Bình Vương về việc Tôn Sĩ Nghị mang quân Thanh xâm lược Thăng Long. Do quân Thanh quá mạnh, Ngô Văn Sở phải rút lui về Tam Điệp không giữ được đất từ cửa ải phía Bắc cho đến Thăng Long, đây là một biến cố lớn trong lịch sử nước ta. Bắc Bình Vương một con người mưu lược, dũng tướng, nhạy bén, trí tuệ sáng suốt, mạnh mẽ có tài điều binh khiển tướng. Trước biến cố đó, ông tức giận vô cùng nhưng ông hết sức bình tĩnh và quyết định mở cuộc tiến công ra Bắc đại phá quân Thanh.

Để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788) Bắc Bình Vương cho đắp đàn trên núi Bản, tế trời đất cùng thần sông, thần núi, chế ra áo cẩn mũ miện lên ngôi hoàng đế đổi niên hiệu là Quang Trung. Quang Trung là một người có dung mạo đặc biệt: tóc xoăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, cặp mắt sáng như chớp có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối. Vẻ mặt ông toát lên sự cương nghị, oai phong lẫm liệt, càng tỏ rõ hơn trời đất sinh ra ông để làm một dũng tướng cứu nước cứu đời. Đúng như vậy, khi ông lên tế các trời đất cùng các thần sông, thần núi đã rất Ưng thuận và đã làm ra kì tích đôi hướng gió làm cho quân Thanh thêm một bước thua trận sau này.

Với tài nghệ của mình, ông đã rất tài trí sai đại tướng Hám Hổ Hầu tuyển lính ở Nghệ An. Cứ ba suất đinh thì lấy một người khỏe mạnh nhất nên đó chưa mấy lúc, Quang Trung đã có hơn một vạn quân tinh nhuệ với vũ khí và khí thế oai hùng, ý chí sần sàng hi sinh cho đất nước, dân tộc. Để trấn chỉnh, an ủi quân lính, vua Quang Trung đã cưỡi voi ra’doanh trại truyền cho quân sĩ ngồi xuống mà phân tích lí lẽ rằng đất Nam vua Nam ở đả rõ ở sách trời sao lũ giặc kia sang xâm phạm và chúng sẽ bị đánh cho tan tác. Như các đời Đinh, Lê, Lí, Trần chi đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Phân tích xong, Quang Trung dặn quần lính rằng:

– Chớ có quen theo thói ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc; không tha một ai chớ bảo ta không nói trước!

Với bài phủ dụ đầy hào khí tuyên bố với ba quân khẳng định niềm tin chiến thắng của đội quân chính nghĩa và cộng thêm lối nói sang sảng như chuông, uy nghi, dõng dạc như vừa ra lệnh vừa an ủi làm lòng quân bớt lo lắng, yên lòng mà nói rằng:

– Xin vâng lệnh, không dám hai lòng!

Ngay ngày hôm sau, vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Khi đến núi Tam Điệp, Sở và Lân ra đón, đều mang gươm trên mình xin chịu tội. Quang Trung có vẻ giận lắm nhưng ông đã thông cảm mà rằng:

– Binh pháp dạy rằng quân thua chém tướng. Tội các ngươi đều đáng chết vạn lần. Các ngươi đều là hạng võ dũng chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như tuỳ cơ ứng biến thì không có có tài. Ta để Ngô Thì Nhậm ở đây chính là lo về điều đó. Thăng Long là nơi đánh cả bốn mặt không có sông núi để tựa. Năm trước ta ra đánh đất ấy Chúa Trịnh không chống đỡ nổi, đó là chứng cớ rõ ràng. Các ngươi biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng kế ấy là đúng. Mới nghe nói ta đã biết do Ngô Thì Nhậm chủ mưu sau hỏi lại quả như vậy.

Quang Trung đưa mắt nhìn Sở và Lân có vẻ đã hối hận lắm rồi, rồi ông nói tiếp:

– Lần này ta ra, thân chinh cầm quân phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được quân giặc. Nhưng nghĩ nước chúng lớn gấp mười lần nước ta nên sau khi thua trận, chúng ắt phải báo thù. Chờ mười năm nữa cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh thì sợ gì chúng.

Sở, Lân nghe xong cúi đầu lạy tạ, tướng lĩnh ở đó đều cảm phục sự am hiểu, lòng vị tha độ lượng, quân lệnh nghiêm minh củ,a Quang Trung.

Với sự lo xa, Tết gần đến nơi, ngày 30 tháng chạp Quang Trung đã sai mở tiệc khao quân và chia quân sĩ làm năm đạo, không khí của buổi tiệc thật nhộn nhịp tưng bừng. Rồi ông đã bảo với quân lính rằng hãy tạm sửa lễ cúng Tết, đến tối ngày 30 Tết lập tức lên đường, hẹn ngày mùng 5 mới vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Cả năm đạo quân đều vâng lệnh đúng ngày gióng trống lên đường, tiến quân ra Bắc. Quang Trung lo lắng cho quân đi đường mệt mỏi, để giữ sức ông đã cho dùng cáng làm võng, hai người khiêng một người ngủ cứ thế luân phiên nhau đi suốt ngày đêm. Khí thế quân ta hừng hực như lửa. Quang Trung đi đường suốt ngày đêm dù mệt mỏi chịu bụi bặm nhưng muôn cho quân sĩ không nao núng ông đã thực hiện nghiêm minh mình cũng giống quân, tướng có chịu được thì quân sĩ cũng mới chịu được. Đội quân lần này của Quang Trung đi trong bí mật thần tốc, bất ngờ. Khi đến sông Gián, quân giặc trấn thủ ở đó tan vỡ lo chạy trước như kiến vỡ tổ nhưng Quang Trung đã thúc quân đuổi theo không bỏ sót tên nào. Không báo được tin, việc tiến công của Quang Trung vẫn bí mật tiến về đồn Hà Hồi và Ngọc Hồi.

Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỉ Dậu (1789) vua Quang Trung tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, ông đã sai binh sĩ vây kín làng rồi bẩc loa truyền gọi, tiếng quân lính dạ ran để hưởng ứng. Quân giặc trong đồn lúc ấy mới biết, rụng rời chân tay, liền xin hàng, nộp toàn bộ khí giới lương thực. Lần này, trận đánh đất Ngọc Hồi rất quan trọng nên Quang Trung đã dùng mưu kế sai quân sĩ lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép ba tấm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Lưng giắt dao ngắn, hai mươi người cầm binh khí theo sau; dàn thành trận chữ nhất, mờ sáng ngày mùng 5 quân ta tiến sát đồn Ngọc Hồi. Do có bức màn che nên quân Thanh bắn súng ta chẳng trúng người nào. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói toả mù trời, cách gang tấc không nhìn thấy gì hòng làm cho quân ta rối loạn. Nhưng nhờ trời trong chốc lát trời bỗng trở gió nam thành ra quân Thanh tự làm hại mình. Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo của bên đã chạm nhau. Ai ai đều rút dao ra chém bừa những người cầm binh khí theo sau cũng nhất loạt xông lên mà đánh. Quân Thanh chống trả không được, bỏ chạy toán loạn giày xéo lên nhau mà chết. Tên giặc Thái thú sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân ta thừa thế xông lên chém giết lung tung thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại. Vào trưa hôm ấy, Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành.

Chiến công thần tốc Quang Trung đại phá ‘quân Thanh đã để lại một dấu ấn lịch sử to lớn của nước ta và làm tăng thêm sự oai hùng một lần nữa người phương Bắc lại thua người phương Nam. Lễ hội Đống Đa hằng năm chính là lễ hội mừng cho chiến thắng lần ấy.

Thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng năm tháng Giêng- Mẫu 4

Nguyễn Huệ là một người anh hùng rất tài giỏi, ông có tài điều binh khiển tướng. Nguyễn Huệ từng chỉ huy nhiều cuộc chiến lớn và đã giành thắng lợi, trong đó có cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Thanh, ông đã góp phần đem lại những mốc son vàng chói lọi cho lịch sử Việt Nam. Lê Chiêu Thống vốn là một tên vua ươn hèn, do lo cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên hắn cầu cứu nhà Thanh, mở đường cho quân Thanh xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Văn Tuyết vào Nam cấp báo cho Bắc Bình Vương, Lê Chiêu Thống thì nhận sắc phong của vua Thanh là Nam Quốc Vương, còn Sở và Lân rút lui về Tam Điệp. Điều này có nghĩa là nước ta mất hết đất từ cửa ải phía Bắc vào đến Thăng Long, đây quả là một biến cố lớn. Trước sự việc đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ dự định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh cứu nguy cho đất nước.

Mấy hôm trước khi xuất quân, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung vào tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Nguyễn Huệ lên ngôi rất uy nghi đường bệ, nghi lễ vô cùng trang nghiêm. Đây là một con người có dung mạo vô cùng đặc biệt. Trong cuốn Các triều đại Việt Nam có viết: ông là người tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối nên không một ai dám nhìn vào mắt Nguyễn Huệ. Ta có thể thấy ở vị vua này toát lên vẻ mặt cương nghị, oai phong, lẫm liệt. Vua Quang Trung sai lính là Hám Hổ Hầu tuyển quân ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chẳng mấy chốc đã được một vạn quân tinh nhuệ. Sau đó, vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trại, những hàng quân thẳng tắp, gươm giáo nhất loạt bên mình, lá cờ tung bay phấp phới đã khí thế sẵn sàng luôn chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ đất nước. Trước khi xuất quân, vua Quang Trung cưỡi voi thân chinh ra doanh trại an ủi quân lính bằng phủ dụ của mình. Giọng nói của ông sang sảng giữa bốn bề núi rừng thanh vắng, đầy hào khí, tuyên bố với ba quân, khẳng định niềm tin, ý chí quyết chiến quyết thắng của đội quân chính nghĩa. Lời vua Quang Trung nói vừa như ân cần khuyên bảo, vừa như răn dạy khiến cho quân sĩ rất cảm phục. Vì vậy họ đồng thanh mà nói rằng: xin vâng lệnh không dám hai lòng. Ngay hôm sau, Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các hàng quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Đến núi Tam Điệp, ông gặp Sở và Lân. Vua Quang Trung phân tích rõ công tội của họ. Không những không chém mà còn tha tội chết cho họ. Quang Trung đã thể hiện sự am hiểu, lòng vị tha độ lượng và quân lệnh nghiêm minh, quân thua chém tướng khiến cho mọi người nhất là Sở và Lân đều vô cùng cảm động và biết ơn ông. Ngoài ra ông còn nói rõ sẽ cho quân sĩ hiểu rằng quân Thanh là đội quân lớn mạnh gấp mười lần đội quân mình, nếu chúng thua trận này ắt thấy thẹn mà báo thù như vậy việc binh đao không bao giờ dứt, lúc đó dân chúng sẽ lâm vào cảnh lầm than. Điều này đã thể hiện rõ vua Quang Trung còn rất biết lo xa, lo lắng cho vận mệnh dân chúng. Đêm 30 tháng chạp, ông cho mở tiệc khao quân, bữa tiệc Tết trước khi ra trận tuy làm không to, không khí không có tiếng đàn, ca hát nhưng quân sĩ ai ai cũng thấy lòng phơi phới niềm vui và niềm tin quyết thắng vào trận chiến hôm sau. Vua Quang Trung dõng dạc tuyên bố với một vài tướng sĩ của mình trước ngày thắng trận đã cho thấy ông là người có khả năng tiên đoán trước tình hình, có tầm nhìn xa trông rộng. Vào tối 30 Tết lập tức lên đường ra Bắc. Để giữ sức cho quân sĩ, ông liền nghĩ ra cách lấy cáng làm võng cứ hai người khiêng một người nằm ngủ luân phiên nhau đi suốt, đêm ngày, mau chóng thần tốc, tiến thẳng ra Bắc. Khi quân sĩ của vua Quang Trung ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước lúc đến sân Thanh Quyết, quân Thanh ở đó trông thấy cũng chạy nốt. Vua Qung Trung liền thúc quân đuổi theo, đến huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết không để tên nào về báo tin. Lại nói Quang Trung đi rất nhiều ngày đêm, quần áo sộc sệch bám đầy bụi đường, da den sạm đi vì nắng và gió. Có lúc quân sĩ còn lên cơn sốt nửa đường do không quen với khí hậu phía Bắc và do cái lạnh căm căm của ngày Tết. Nhưng ông vẫn đủ minh mẫn để chỉ huy cả đội quân tiến đánh. Việc tấn công của quân ta là hoàn toàn bí mật tiến về đồn Hà Hồi – Ngọc Hồi. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỉ Dậu (1789), sau khi đi suốt 3 đêm 3 ngày, nghĩa quân đã tới làng Hà Hồi. Từ nửa đêm mồng 3 tháng giêng vua Quang Trung lặng lẽ cho bao vây khắp làng, ông đã rất thông minh khi dùng kế nghi binh: bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc đó mới biết, ai nấy đều rụng rời xin hàng. Toàn bộ vũ khí và lương thực đều bị quân Nam lấy hết. Chính vì vậy nên việc hạ đồn Hà Hồi rất nhanh gọn. Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván cứ ghép ba tấm làm một bức, lấy rơm đắp nước phủ quanh ngoài. Mờ sáng ngày mồng 5, đoàn quân đã tiến sát đến đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng chẳng trúng người nào, nhân có gió Bắc bọn chúng liền dùng ống phun lửa, khói lửa mù trời. Nhưng bỗng trời trở gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Sự việc đó lại càng chứng tỏ việc làm của nghĩa quân Quang Trung là rất chính nghĩa đến trời đất cũng ủng hộ. Quân Thanh chống không nổi. Bỏ chạy tán loạn giẫm đạp, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Quân ta thừa thắng xông lên chém giết quân giặc, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại. Giữa trưa hôm ấy, Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi vào thành. Vua Quang Trung cho mở tiệc khao quân ăn mừng, hôm ấy là ngày mồng 5 tháng giêng. Như vậy dự đoán của Quang Trung quả không sai. Quân sĩ hết sức vui mừng cho chiến thắng oanh liệt này.

Qua đây ta càng cảm thấy khâm phục trước chiến công thần tốc của vua Quang Trung. Nó mang lại một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Tuy Đại Việt chỉ là một nước nhỏ nhưng dân tộc ta lại có một sức mạnh vô cùng ghê gớm, sức mạnh này có thể đánh bại bất kỳ một nước lớn nào dám sang xâm lược. Hằng năm, Việt Nam ta thường tổ chức lễ hội Đống Đa cũng là đế tưởng nhớ đến người anh hùng áo vải Quang Trung cùng toàn bộ quân sĩ đã dũng cảm chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng năm tháng Giêng hay nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!