Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả” chuẩn nhất 12/2024.
Dàn ý Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương
1. Mở bài
– Giới thiệu bản thân
– Khái quát về tình bản thân trải qua
2. Thân bài
– Vì chồng tôi có tính đa nghi nên tôi luôn phải giữ gìn khuôn phép để gia đình êm ấm hòa thuận
– Vì có giặc ngoại xâm nên chồng tôi phải ra biên ải, trong khoảng thời gian đó tôi ở nhà lo mọi việc chu đáo
– Khi chồng tôi trở về liền nghi ngờ tôi thất tiết mà không chịu nghe tôi giải thích một lời
– Vì quá oan khuất nên tôi nhảy xuống sông tự vẫn để chứng minh sự trong sạch
– Cũng may tôi được Linh Phi giúp đỡ cho chỗ nương thân chốn thủy cung
– Tại đây tôi gặp Phan Lang – người cùng quê, tôi đã nhờ chàng gửi lời đến Trương Sinh mong chàng lập đàn giải oan
– Khi Trương Sinh lập đàn giải oan, tôi hiện lên cảm ơn và từ biệt chàng rồi trở về thủy cung
3. Kết bài
Cuộc đời tôi đau khổ truân chuyên vậy đó
Em hãy đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả- Mẫu 1
Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương. Mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Họ cầu mong cho tôi sẽ lấy được một người chồng xứng đáng và được hưởng hạnh phúc. Tôi đã gặp và thành vợ chàng Trương
Chàng rất mực yêu thương tôi, nhưng lại cũng rất đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm.
Cuộc sống của tôi đang êm đềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chồng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, lòng tôi thương chàng vô hạn. Tôi không mong chàng lập công để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng bình an trở về là tôi đã thoả nguyện. Giờ phút chia tay đã hết. Chàng dứt áo ra đi, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhoà lệ, lòng tái tê chua xót.
Ngày tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tươi vui bướm lượn đầy vườn ; hay mùa đông giá băng ảm đạm, mây che kín núi cũng chỉ là một, bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng, thường trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh được một bé trai và đặt tên cháu là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau mòn mỏi. Tôi đã hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Cảm động trước tình mẫu tử thiêng liêng mẹ dành cho chồng tôi, xót thương mẹ vô hạn, tôi đã lo ma chay chu tất cho mẹ.
Sau bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh đã trở về. Tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận. Chàng về tới nhà, biết mẹ đã qua đời liền bế con đi viếng mộ mẹ. Lúc trở về, chàng bỗng dưng nổi giận la mắng om sòm. Chàng cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng hoàng sửng sốt. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi vừa khóc thổn thức vừa giải thích : “Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác.
Em hãy đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả- Mẫu 2
Tôi là Vũ Nương, tôi được người làng yêu mến vì họ khen tôi công dung ngôn hạnh lại dịu dàng nết na. Trong làng có chàng tên Trương Sinh, tuy thất học nhưng giàu có nên chàng đã xin cha mẹ cưới tôi về làm vợ.
Chàng rất mực yêu thương tôi, nhưng lại cũng rất đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm.
Cuộc sống của tôi đang êm đềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chồng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, lòng tôi thương chàng vô hạn. Tôi không mong chàng lập công để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng bình an trở về là tôi đã thoả nguyện. Giờ phút chia tay đã hết. Chàng dứt áo ra đi, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhoà lệ, lòng tái tê chua xót.
Ngày tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tươi vui bướm lượn đầy vườn ; hay mùa đông giá băng ảm đạm, mây che kín núi cũng chỉ là một, bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng, thường trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh được một bé trai và đặt tên cháu là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau mòn mỏi. Tôi đã hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Cảm động trước tình mẫu tử thiêng liêng mẹ dành cho chồng tôi, xót thương mẹ vô hạn, tôi đã lo ma chay chu tất cho mẹ.
Sau bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh đã trở về. Tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận. Chàng về tới nhà, biết mẹ đã qua đời liền bế con đi viếng mộ mẹ. Lúc trở về, chàng bỗng dưng nổi giận la mắng om sòm. Chàng cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng hoàng sửng sốt. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi vừa khóc thổn thức vừa giải thích : “Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Chàng vẫn không tin, đánh đuổi tôi đi. Vì quá oan khuất và tủi hổ, tôi đã đến bến sông Hoàng Giang trầm mình. Rơi vào khoảng không tăm tối, tôi bỗng choàng dậy, thấy bản thân đang ở nơi cung điện nguy nga, xung quanh đều là cá tôm bơi lội, tôi mới biết sau khi chết, vợ vua Nam Hải là Linh Phi đã thương tình cho tôi ở lại chốn cung điện này để hầu hạ nàng. Rồi tôi gặp Phan Lang, người đàn ông sống cùng làng với mình cũng được Linh Phi cứu giúp vì trước kia anh ta cũng từng cứu nàng. Tôi đã nhờ anh ta đem chiếc trâm cài về cho chồng mình và dặn chàng lập đàn giải oan cho mình. Phan Lang đi vài ngày thì trên bờ có tiếng gõ mõ, hương cúng cùng với đoàn kiệu trên mặt nước, tôi liền bước lên đoàn kiệu và xuất hiện trên sông. Cuối cùng tôi cũng được hóa giải nỗi oan khuất. Vợ chồng tương phùng nhưng cách biệt âm dương, tôi chỉ chào tạm biệt Trương Sinh lần cuối rồi biến mất.
Em hãy đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả- Mẫu 3
Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi chàng Trương lập đàn giải oan, tôi hiện về nói lời tạ từ rồi ra đi mãi mãi. Tôi cũng đã bình tâm trở lại mà chấp nhận cuộc sống dưới thủy cung với Linh Phi và các nàng tiên trong cung nước. Tuy nhiên trong sâu thẳm trái tim tôi vẫn không nguôi nhớ trần thế, nhớ quê hương, nhớ cuộc sống gia đình hạnh phúc trước kia, đặc biệt là con trai. Những kỉ niệm ấy vẫn luôn hiện về trong tâm trí tôi.
Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn nên hiểu mọi lễ nghĩa, biết cư xử đúng mực. Đến tuổi 18 trong làng đã có vài người đánh tiếng trống hỏi tôi, nhưng vì cha mẹ của tôi không muốn tôi vất vả nên đã nhận 100 lạng vàng rồi gả tôi cho Trương Sinh, con một nhà giàu trong làng, thế là tôi được yên bề gia thất nhưng biết chồng có tính đa nghi, hay ghen, tuy là con nhà giàu nhưng đa nghi ít học nên tôi luôn giữ gìn khuôn phép không từng lúc nào để vợ chồng thất hòa.
Cuộc đoàn viên chưa được bao lâu thì đất nước có giặc. Chồng tôi tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Tôi và mẹ chồng tôi đều rất buồn, trong buổi tiễn đưa mẹ có dặn dò, tôi cũng nói mong chồng ra trận giữ gìn để trở về được bình yên chứ không cần quan cao tước lớn. Chàng nghe vậy xúc động không nói lên lời dứt áo ra đi. Sau khi chồng đi được mươi ngày thì tôi sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Đản rồi một mình vừa chăm sóc con, một lòng thủy chung chờ đợi mong chồng sớm về đoàn tụ
Nhưng mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Tôi hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật rồi khuyên như mong mẹ chóng khỏe. Song vì tuổi già bệnh nặng, vận trời khó tránh nên mẹ chồng tôi qua đời. Tước khi mất bà nói: “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đầy đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Tôi hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ như với cha mẹ đẻ của mình.
Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, khi buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng tổ tiên tạ ơn vừa để báo cho mẹ biết chàng đã về, cho mẹ yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn tụ. Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, buổi trưa hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời tra hỏi tôi trong thời gian chàng đi xa tại sao làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý… tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi đã giải thích cho chàng hiểu: Tôi nói đến thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chống đừng nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.
Nhưng chàng không tin, hỏi chuyện kia do ai nói chàng cũng không nói. Làng xóm bênh vực cho tôi cũng chẳng ăn thua gì, chàng vẫn một mực mắng mỏ rồi đuổi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập đến nên cố bày tỏ nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Biết rằng người có tính cách như chàng thật khó giải thích nên tôi tắm gội chay sạch, suy nghĩ trước sau thấy rằng cuộc đời thật không có ý nghĩa, bao nhiêu vất vả với gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung một mực chăm lo cho mẹ già, con trẻ nhưng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan. Tôi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Nhưng các nàng tiên trong cung nước thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung.
Một hôm tôi gặp Phan lang, người cùng làng trước đây có ơn với Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi cứu. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau mọi người nghe chàng ân hận kể lại rằng: Một hôm phòng không vắng vẻ chợt đứa con chỉ cái bóng trên tường của chàng nói là cha Đản. Chàng lúc ấy mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”.
Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa thương chồng con vì không ai chăm sóc. Không kiên nhẫn tìm hiểu nguyên nhân mà quá đau đớn tuyệt vọng mà dẫn tới cái chết. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi đã nói không còn mặt mũi nào quay lại nữa nhưng sau đó vì nhớ quê hương, chồng con, lại mong muốn được giải oan, phục hồi danh dự nên tôi lại nói sẽ quay trở về. Hôm sau Phan Lang trở về dương thế, tôi gửi theo chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương tôi sẽ có ngày trở về dương thế. Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Hoàng Giang với tình cảm chân thành hối lỗi và thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi có ý khuyên tôi nên về với chồng con nhưng tôi vì có nghĩa với Linh Phi và lại hạnh phúc gia đình tan vỡ khó hàn gắn nên không muốn trở về.
Đến ngày thứ ba, giữa trốn trần gian mịt mù khói tỏa thì Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất.
Chuyện của gia đình tôi là câu chuyện buồn: Dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Riêng bản thân tôi dù đã sống cuộc sống trần gian, nhớ chồng con vẫn chôn kín ở trong lòng khó có thể diễn tả bởi chính cuộc sống ấy đã đẩy tôi đến cái chết. Hy vọng rằng đừng gia đình nào rơi vào bi kịch.
Em hãy đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả- Mẫu 4
Tôi là Vũ Nương, con gái một gia đình nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần về lễ nghĩa, đức hạnh. Năm ấy, Trương Sinh vì yêu mến dung hạnh mà xin mẹ trăm lạng vàng đến cưới tôi về làm vợ.
Trương Sinh chồng tôi, vốn là người đa nghi, đối với vợ phòng ngừa hết mức. Tôi biết tính chàng như thế nên cũng giữ gìn khuôn phép, không lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa. Sum vầy, êm đềm chẳng được bao lâu thì quân Chiêm quấy nhiễu biên cương, chồng tôi tuy là còn nhà hào phú nhưng ít học, nên bị ghi tên đi lính vào loại đầu.
Ngày tiễn chồng nên đường, tôi chỉ biết rót chén rượu đầy tiễn đưa, chỉ cầu mong giặc dữ sớm ngày quy phục, chàng được bình an trở về, không cầu áo gấm, công danh. Nghĩ đến tháng ngày cách biệt, tôi không thể kìm được nước mắt.
Đương thời lúc bấy giờ tôi đang mang thai đầu, chàng đi chẳng được bao lâu tôi bèn sinh con và đặt tên con là Đản. Có con trai, tôi phần nào vơi bớt nỗi nhớ chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì tuổi già, lại nhớ mong con khiến bà sinh bệnh năng. Thay chồng tận hiếu tôi hết mực thuốc thang, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn nhưng mẹ không qua nổi, trước khi đi mẹ để lại những trăn trối tha thiết rồi tắt thở. Tôi đau lòng lo ma chay cho mẹ. Vậy là chỉ còn mẹ con tôi quặn quẽ trong căn nhà lớn nhà.
Mừng rỡ thay, sau 3 năm thì giặc tan, chồng tôi bình yên trở về đúng như mong đợi. Khi biết tin mẹ mất, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng bái tổ tiên tạ ơn phù hộ để chồng bình an, vừa để báo cho mẹ biết để yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn viên gia đình.
Không ngờ giây phút đó chẳng có, buổi trưa khi hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời trách mắng tôi mất nết hư thân… tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi cố gắng giải thích rằng thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết.
Thế nhưng, dù hết lời phân giải, làng xóm bênh vực nhưng chàng nhất mực không tin lại nặng lời đuổi tôi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực, không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan.
Đứng trên bến Trường Giang, tôi ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Ngờ đâu, Linh Phi – vợ vua Thủy Tề, thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung và để tôi lưu lại ở đó.
Một hôm tôi gặp Phan Lang – người cùng làng trước đây đã có ơn với Linh Phi, được Linh Phi cứu khi gặp nạn. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau nghe con nói về chuyện cái bóng là cha mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”.
Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa cho chính mình, lại thương chồng con vì không ai chăm sóc. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, tôi lại mong muốn được giải oan nên tôi nhờ Phan Lang trở về với chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương lập đàn giải oan bên bờ Trường Giang.
Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Trường Giang thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi cũng có ý khuyên trở về gia đình. Đến ngày thứ ba, Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi biến mất.
Dù giải oan nhưng liệu rằng chuyện quá khứ vẫn còn đó. Bản thân tôi đã quá sợ cuộc sống trần gian cay nghiệt, sự bất công của xã hội phong kiến thối nát. Có lẽ trở về cũng chẳng sống được những tháng ngày bình yên, vì vậy khi được giải nỗi oan này, tôi liền biến mất.
Mong rằng qua câu chuyện của tôi thì các bạn sẽ rút ra được bài học về hạnh phúc gia đình. Hãy tin tưởng lẫn nhau, chia sẻ và thấu hiểu mới có thể duy trì được mái ấm tưởng trừng là cứng cáp nhưng nó thật sự quá mong manh.
Em hãy đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả- Mẫu 5
Tôi tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, mọi người yêu quý hay gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú. Và cuộc đời tôi cũng thay đổi từ đó.
Chàng đem lòng yêu mến bèn xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Có lẽ, cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối này khiến cuộc sống của tôi gặp bao khó khăn. Có lẽ, số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này chính là khổ cực biết bao!
Về nhà chồng chẳng được bao lâu, tôi cũng biết tính chồng đa nghi hay ghen với vợ nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện bất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng nên càng vui mừng hạnh phúc biết bao. Nhưng cuộc sống không bao giờ như ta trong đời, giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi, chồng tôi ít học nên bị bắt đi sung binh loại đầu, đoàn viên chưa được bao lâu đã phải chia lìa. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng chỉ mong chàng bình yên trở về không cầu công danh, áo gấm.
Thời gian chẳng mấy trôi qua, đến ngày tôi sinh bé Đản, đứa con bé bỏng phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì nhớ mong con trai mà càng ngày sức khỏe càng kém, tôi đã lấy lời khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để chờ chồng về rồi cả thuốc thang lễ bái thần phật mong mẹ mau khỏe. Như mẹ tôi tuổi già lại có nhớ mong quá độ đã không qua nổi. Trước lúc mất bà còn trăn trối lại:
“Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.”
Mẹ chồng mất, tôi hết lòng ma chay như với mẹ thân sinh vậy. Kể từ đó, tôi chỉ còn bé Đản. Thương con chưa gặp cha lần nào, tôi bèn nghĩ cách trỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.
Vậy là, thấm thoắt đã 3 năm, giặc Chiêm chịu rút về nước. May mắn biết bao khi thấy chồng bình an trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi, hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ nhưng tôi chẳng ngờ đâu từ khi chàng trở về lại la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tự dưng tai họa ở đâu ập xuống đầu, tôi ngỡ ngàng liền phân trần giải thích:
“Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, ….., đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.
Nhưng mọi thứ tôi nói đều không thể lọt tai chàng, họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu khiến tôi không biết làm sao để thanh minh nữa
Cuối cùng, chàng đuổi tôi ra khỏi nhà. Chẳng thể ngờ sau 3 năm chia cách, 3 năm ngóng trông, để rồi hạnh phúc mà tôi cố vun đắp giờ đây chẳng còn nữa. Tuyệt vọng cùng cực, tôi chẳng thiết gì nữa. Danh dự không còn liền để nước sông Trường Giang chứng giám tấm lòng trong sạch của mình, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn.
Không nghĩ tới, nỗi oan khuất của tôi động lòng trời đất, các nàng tiên cá rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Linh Phi, tôi bèn an cư tại chốn này.
Trong một bữa tiệc Linh Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – người cùng làng với tôi và cũng là ân nhân của Linh Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh đã thấu hiểu nỗi oan của tôi. Thì ra chàng hiểu lầm chỉ vì lời nói vô tư của con nhỏ, chỉ vì chàng đa nghi, ghen tuông hồ đồ mà khiến gia đình tôi ra nông nỗi này.
Phan Lang kể rằng nhà tôi giờ tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chồng nhưng tôi vẫn quyết định tìm ngày về. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn kêu Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến Trường Giang.
Khi thấy chồng và con tôi thật sự muốn trở về nhưng người chết nào đâu có thể sống lại. Nỗi oan khuất được giải trừ, tôi chỉ được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Chỉ thương con côi cút không có mẹ chăm nom, thương cho tình nghĩa phu thê chưa tròn.
Tôi chỉ mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ, và từ câu chuyện cuộc đời của tôi để người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc gia đình không chỉ được xây dựng trên cơ sở tình yêu mà nó còn phải ở cả sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau.
Em hãy đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả- Mẫu 6
Đản à, hôm nay là tròn mười năm kể từ lúc mẹ con mất. Ta nghĩ có thể sẽ ôm bí mật này suốt đời cho đến khi chết nhưng suy cho cùng thì con cũng đã lớn, ta sẽ không giấu con nữa. Hôm nay ta quyết định sẽ kể lại cái chết oan ức của mẹ con cho con nghe.
Mẹ con hồi đó đẹp lắm, nàng thùy mị, nết na , vừa nhìn là ta mê ngay. Lúc đó , ta liền xin bà nội con đem ngay trăm lạng bạc để hỏi cưới mẹ con về. Biết ta có tính đa nghi và hay ghen nên mẹ con cũng luôn giữ khuôn phép, không để gia đình thất hòa.Vì thế mà gia đình chúng ta luôn có tiếng cười hạnh phúc. Chẳng bao lâu sau , do chiến tranh loạn lạc nên cha bị bắt đi lính trong thời gian mẹ con đang mang thai. . Vào cái ngày tiễn đưa, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu”, chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về bình yên.
Trong ba năm ta đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng người mẹ già của ta , sinh và nuôi dạy con .
Với mẹ chồng, mẹ con là một cô con dâu hiếu thảo.Ta đi xa nhà, nàng đã thay ta phụng dưỡng mẹ ta rất chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình.
Khi đi lính trở về, tới nhà thì nghe tin mẹ ta đã mất, con vừa học nói. Tình mẫu tử thiêng liêng, nguồn an ủi vô bờ đối với ta nay không còn nữa. Mẹ mất không được đội tang, ta cảm thấy mình mắc tội bất hiếu, một thứ tội lớn nhất của đời người. Ngay lúc đó, ta đã bế con ra thăm mộ của bà nội con trước . Nhưng dù vậy, ta vẫn là một người con không tròn đạo hiếu. Khát vọng tề gia của ta chẳng khác nào bọt nước chiều mưa.
Trong lúc đó, ta bế con ra mộ bà. Ra đến đồng thì con cứ quấy khóc mãi, ta dỗ cũng không chịu nín. Rồi con bập bẹ nói rằng ban đêm thường có người đàn ông hay lui tới, mẹ con đứng thì đứng, mẹ con ngồi thì ngồi.
Đặt vào hoàn cảnh của ta vừa đi chinh chiến về, quá mệt mỏi, ta đang cần một chỗ dựa là gia đình, bên mẹ, bên vợ và bên con nhưng vừa về đến nhà đã gặp bao khổ đau: không có được giây phút hồi hộp, thiêng liêng đón giọt máu của mình chào đời; mẹ già đã ra đi… Bà con mất, niềm hạnh phúc gia đình nhỏ còn lại của ta là vợ và con trai. Vậy nhưng, con nhất định không chịu nhận ta là cha .
Thế nên với bản tính hay ghen và đa nghi, ta liền về nhà với vẻ mặt giận dữ quát lớn cho hả giận. Sau đó đánh đập, mắng nhiếc thậm tệ và đuổi mẹ con ra khỏi nhà . Mặc cho nàng có khóc lóc cố minh oan, mặc cho hàng xóm có giải thích mẹ con trong sạch nhưng ta đều gạt bỏ ngoài tai. Chính vì quá uất ức nên mẹ con tắm rửa chay sạch , rồi gieo mình xuống sông Hoàng Giang mà tự vẫn.
Trong lòng ta dù giận nhưng biết nàng đi tự vẫn cũng động lòng thương xót mà sai người đi vớt xác nàng nhưng không thấy. Rồi một đêm có gió thổi nhè nhẹ, êm dịu, chiếc đèn dầu sáng mập mờ thì con liền thốt lên cha con đã tới và chỉ tay vào cái bóng trên tường. Ta chợt hiểu trong những ngày ta đi xa, vì thương nhớ chồng, vì không muốn con nhỏ thiếu vắng bóng người cha nên hàng đêm, mẹ con đã chỉ bóng mình trên tường, nói dối con đó là cha .
Cũng tại sự ngu dốt, hồ đồ, sự đa nghi mà ta đã giết nàng, ta thấy hối hận lắm nhưng đã quá muộn rồi. Nếu lúc đó , ta bình tĩnh mà nghe nàng giải thích thì có lẽ giờ gia đình ta đang rất hạnh phúc và mẹ con cũng không bị ta bức tử mà rời xa chúng ta. Kể từ lúc mẹ con đi, căn nhà của chúng ta trở nên trống vắng, con thì đêm nào cũng khóc đòi mẹ, còn ta thì chỉ biết ôm nỗi nhớ nàng một mình và giận chính bản thân.
Vài tháng sau, hay tin của Phan Lang_ là người cùng làng kể cho ta nghe mẹ con sống dưới thủy cung cũng đang rất nhớ con và muốn nhắn nhủ ta lập đàn giải oan cho nàng. Thoạt đầu ta nghe không tin nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng mà lúc đi mẹ con mang bên mình thì ta liền sợ hãi làm theo lời Phan Lang. Trong vòng ba ngày ba đêm, cuối cùng cũng gặp được mẹ con bên bến sông Hoàng Giang. Ta cố muốn giữ mẹ con lại nhưng lúc này nàng thoắt ẩn , thoắt hiện rồi từ từ biến mất trong làn sương trắng.
Đã quá muộn để ta nói lời xin lỗi với nàng. Cho đến cuối đời, ta cũng sẽ không quên được cái khoảng khắc ta bức tử nàng, ta sẽ phải cô đơn và dằn vặt bản thân và chắc đó chính là quả báo mà ông trời dành cho ta.
Em hãy đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả- Mẫu 7
Như thường lệ, mỗi năm một lần thủy cung lại mở hội mùa xuân. Năm nay để mừng thọ vua Thủy Tề, lễ hội mùa xuân được chuẩn bị công phu, chu đáo hơn mọi năm. Hôm đó ngay từ sớm Thủy cung đã được trang hoàng thật lộng lẫy. Từ xa đã thấy thấp thoáng bóng mấy hàng cờ hội tung bay phấp phới, tiếng trống, tiếng chiêng nổi lên rộn ràng. Đến nơi một khung cảnh tuyệt đẹp của chốn thần tiên đã hiện ra. Những khóm hoa màu sắc rực rỡ toả hương ngào ngạt, những bức trướng chạm khắc hình nổi trông thật tinh xảo, các cung nữ tết tóc cài trâm, thướt tha trong bộ xiêm y lộng lẫy. Khi vua Thủy Tề cùng Linh Phi bước ra cũng là lúc các hoàng tử, công chúa, và các quần thần đã có mặt đông đủ. Rồi khi mọi người đã yên vị và tiệc rượu chuẩn bị bắt đầu, bỗng nhà vua hướng về phía Vũ Nương và nói:
– Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi Vũ Nương được Linh Phi đưa về thủy cung sống cùng các nàng tiên trong cung nước, lúc nào ta cũng thấy vẻ u buồn hiện rõ trên nét mặt nàng. Có phải nàng vẫn đang ngày đêm nhớ về quê hương, gia đình không? Vậy nàng có thể kể cho ta, Linh Phi và mọi người ở đây biết về cuộc đời của nàng khi còn ở chốn dương gian được không? Nhà vua vừa dứt lời, đã có mấy tiếng nói ở phía sau cất lên:
– Đúng đấy, Vũ Nương kể đi! Kể đi cho mọi người ở đây được biết!Trước lời đề nghị của mọi người, biết không thể từ chối, Vũ Nương đã cất tiếng kể:
Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn nên hiểu mọi lễ nghĩa, biết cư xử đúng mực. Đến tuổi 18 tôi đã trở thành một thiếu nữ nết na, xinh đẹp nổi tiếng trong vùng. Đã có biết bao chàng trai đánh tiếng muốn cưới tôi làm vợ. Cha mẹ tôi không muốn con vất vả nên đã đồng ý gả tôi cho Trương Sinh, con một nhà giàu có trong làng và thế là tôi được yên bề gia thất. Biết chồng là con nhà giàu nhưng ít học lại đa nghi, hay ghen nên tôi luôn cư xử khéo léo, giữ gìn khuôn phép vì thế mà vợ chồng tôi chưa bao giờ xảy ra mâu thuẫn.
Hạnh phúc gia đình chưa được bao lâu thì chiến tranh binh lửa đã khiến vợ chồng tôi phải xa cách nhau. Chồng tôi tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Biết được tin này cả tôi và mẹ chồng tôi đều rất buồn rầu, lo lắng. Buổi tiễn chàng ra biên ải, mẹ tôi nghẹn ngào dặn chồng tôi rằng ra chiến trường, chỗ binh cách không nên ham quan cao tước lớn, quan trọng phải biết giữ mình để được bình an trở về thì mẹ mới yên lòng được. Nghe lời mẹ, chồng tôi quỳ xuống đất vâng lời dạy. Lúc này lòng tôi cũng nặng trĩu lo âu, phiền muộn, nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, tôi lại càng thương chàng vô hạn. Tôi cầm tay chàng mà căn dặn rằng:
– Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi.Chẳng mấy chốc giờ phút chia tay đã hết, chàng dứt áo ra đi với biết bao lưu luyến bịn rịn. Mắt nhòa lệ, lòng tê tái đau xót, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng cho đến khi khuất hẳn sau hàng dâu.
Sau khi chồng tôi đi được mươi ngày thì tôi sinh con trai đặt tên là Đản. Ngày qua tháng lại thoắt đã nửa năm chồng tôi đi lính xa nhà. Nén lại nỗi nhớ thương vơi đầy, một mình tôi vừa chăm sóc con thơ, vừa phụng dưỡng mẹ già và lo toan chu toàn cho gia đình nhà chồng. Tôi một lòng mong ngóng, chờ đợi chồng sớm về đoàn tụ. Trong thời gian chồng tôi đi lính mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Tôi rất lo lắng, đã hỏi tìm mua thuốc khắp nơi, ai mách ở đâu có thuốc tốt tôi cũng tìm đến mua cho mẹ uống. Song bệnh tình của mẹ chồng tôi vẫn không thuyên giảm mà cứ mỗi ngày một nặng thêm. Tôi hết sức lo lắng cho mẹ, chẳng còn biết làm cách nào hơn để chữa bệnh cho mẹ, nên tôi đã chuẩn bị lễ cúng thần phật mong thần phật phù hộ độ trì cho mẹ tôi khỏi bệnh. Tôi cũng hết lời khuyên nhủ mong mẹ gắng gượng ăn uống, thuốc thang cho chóng khỏe đợi chồng tôi trở về. Song vì tuổi già bệnh nặng, vận trời khó tránh nên mẹ chồng tôi đã ko qua khỏi. Đau xót tột cùng, tôi khóc tang mẹ đến sưng cả hai mắt và lo việc ma chay tế lễ cho mẹ như với cha mẹ đẻ của mình.
Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, tuy buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, còn tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho chàng bình yên trở về vừa để mừng ngày vợ chồng tôi đoàn tụ. Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang. Buổi trưa khi hai cha con trở về, mặt đỏ bừng bừng chàng giận dữ lôi đình đi thẳng vào bếp, nơi tôi đang chuẩn bị cơm để la mắng, tra hỏi tôi. Chàng nói trong cơn giận dữ rằng trong thời gian chàng đi xa tôi đã làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý… Như sét đánh ngang tai, tôi chết điếng người, không hiểu rõ nguyên nhân vì sao chàng như vậy. Tôi hết lời giải thích cho chàng hiểu rằng mình là con nhà nghèo khó được nương tựa nhà giàu, trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chàng đừng một m nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ. Nhưng chàng không tin, hỏi chuyện kia do ai nói chàng cũng không nói. Mặc cho làng xóm bênh vực khuyên can, chàng vẫn một mực không nghe, cứ mắng nhiếc, lăng mạ rồi đuổi tôi ra khỏi nhà. Đau xót đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập xuống, tôi tha thiết phân trần nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Tuyệt vọng, buồn chán vì không có cách nào cởi bỏ được mối nghi ngờ trong lòng chàng. Cuộc đời với tôi giờ ko còn ý nghĩa gì nữa, bao nhiêu vất vả lo toan cho gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung hết mực với chồng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan. Tôi đã tắm gội chay sạch rồi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than, cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình. Nói xong tôi gieo mình xuống sông tìm cái chết để giải thoát.Kể đến đây, Vũ Nương đã không thể kìm được nỗi đau xót, giọng nàng nghẹn ngào thổn thức và những giọt nước mắt đã lăn dài trên khuôn mặt đầy đau khổ. Thấy vậy vua Thủy Tề đã lên tiếng an ủi động viên Vũ Nương:
– Vũ Nương à! Nỗi oan khuất của nàng đã thấu tới chốn thủy cung của ta và ta đã cho các nàng tiên trong cung nước đợi sẵn để kịp thời rẽ nước mở đường đưa nàng về đây. Hôm nay câu chuyện của nàng đã cho ta hiểu rõ về nàng và càng thấy thương nàng hơn. Ta mong nàng từ nay hãy sống thật an lạc ở nơi này cùng Linh Phi và các cung nữ. Đây cũng là món quà mà ta muốn bù đắp cho những thiệt thòi của nàng trước đây. Nói xong nhà vua ra hiệu lệnh cho mọi người bắt đầu buổi tiệc. Và không khí lại rộn ràng vui tươi bởi tiếng chiêng tiếng trống hòa đã cùng tiếng nói tiếng cười, tiếng hát của mọi người.
Kết luận
Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.
Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 12/2024!