Updated at: 30-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “nêu Cảm nhận về kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng” chuẩn nhất 12/2024.

 Dàn ý Cảm nhận vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng hay nhất:

1.1. Mở bài:

  • Nguyễn Huy Tưởng là một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam.
  • Đoạn trích thuộc kịch “Bắc Sơn” phần thể hiện xung đột giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù, đồng thời thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật Thơm.

1.2. Thân bài:

– Tình huống kịch:

  • Thái và Cửu bị Ngọc truy đuổi và chạy vào nhà Thơm.
  • Tình huống này thúc ép nhân vật Thơm phải có sự thay đổi thái độ, dứt khoát đứng về phía cách mạng.

– Nhân vật Thơm:

  • Hoàn cảnh: cha và em trai đã hi sinh, mẹ bỏ đi, chỉ còn chồng là Ngọc.
  • Tâm trạng: luôn day dứt, ân hận về cha, mẹ.
  • Thái độ với chồng: băn khoăn, nghi ngờ chồng làm Việt gian, tìm cách dò xét, nhưng cố níu chút hy vọng về chồng.
  • Hành động: che giấu Thái và Cửu trong nhà, khôn ngoan che mắt Ngọc để bảo vệ hai chiến sĩ cách mạng.

⇒ Nhân vật Thơm là người trung thực, có lòng tự trọng, nhận thức về cách mạng, nghệ thuật miêu tả được thể hiện qua hành động táo bạo, bất ngờ của cô.

⇒ Khẳng định chân lý: Cuộc đấu tranh cách mạng không thể bị tiêu diệt, vẫn có thể thức tỉnh quần chúng, cả với những người ở vị trí trung gian như Thơm.

– Nhân vật Ngọc:

  • Là nhân vật giả nhân giả nghĩa.
  • Ham muốn địa vị, quyền lực, tiền tài.
  • Làm tay sai cho giặc (Việt gian).
  • Tên Việt gian bán nước đê tiện, đáng khinh, đáng ghét.

⇒ Nhân vật Ngọc thể hiện một người hám lợi, hám danh.

– Nhân vật Thái và Cửu:

  • Bị truy đuổi và chạy vào nhà Thơm.
  • Thái: giữ lại, tươi cười, định chạy ra cửa

Tác giả Nguyễn Huy Tưởng đã thành công trong việc khắc họa các nhân vật, tạo ra những tình huống đầy căng thẳng và giúp người đọc hiểu rõ hơn về tình hình đấu tranh giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù trong giai đoạn đó.

Cuối cùng, đoạn trích cũng chứa đựng thông điệp về lòng yêu nước, trung thành với cách mạng, cùng với sự kiên cường và quyết tâm của các chiến sĩ cách mạng, nhằm xây dựng đất nước độc lập, thống nhất và phát triển.

1.3. Kết luận:

Bài phân tích trên đã đưa ra các chi tiết về tình huống kịch, các nhân vật và nội dung của đoạn trích trong tác phẩm Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng. Đây là một tác phẩm văn học đặc sắc của văn học Việt Nam, với sự khắc họa tài tình của tác giả về các nhân vật và diễn biến tâm lý, từ đó truyền tải được những thông điệp về tình yêu nước, trung thành và kiên cường trong đấu tranh giành độc lập và tự do cho dân tộc.

 Cảm nhận về kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng- Mẫu 1

1. Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) quê ở Dục Tú, Từ Sơn, Bắc Ninh, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông là gương mặt tiêu biểu của nền Văn học Việt Nam hiện đại. Cảm hứng lịch sử, cảm hứng cách mạng in đậm trong tiểu thuyết và tác phẩm kịch của ông.

Về tiểu thuyết có: Đêm hội Long Trì,  An Tư công chúa,  Sống mãi với Thủ đô, Truyện Anh Lục,…

Về kịch có: Vũ Như Tô, Cột  đồng Mã Viện, Bắc Sơn, Những người ở lại….

Về truyện viết cho thiếu nhi: An Dương Vương xây thành Ốc, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Kể chuyện Quang Trung…

2. Nguyễn Huy Tưởng viết kịch Bắc Sơn vào cuối năm 1945 – đầu năm 1946. Vở kịch được công diễn lần đầu vào đêm 6 – 4 – 1946 tại Nhà hát lớn Hà Nội. Bắc Sơn thuộc tỉnh Lạng Sơn. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã nổ ra vào cuối năm 1940 đầu năm 1941, là một trang sử oanh liệt của nhân dân ta và Đảng ta. Vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng đã nói về cuộc khởi nghĩa này.

Kịch Bắc Sơn có năm hồi. Có thể tóm tắt như sau:

      Ở Vũ Lăng bùng nổ khởi nghĩa. Nhiều Tây và quan lại bị bắt và bị giết. Nhân dân rầm rập kéo đi mít tính, đem bò, lợn, gạo ủng hộ quân cách mạng. Cụ Phương, cậu con trai tên là Sáng nhiệt liệt hưởng ứng. Bà cụ Phương, con gái là Thơm, nho Ngọc (chàng rể) thì sợ hãi, lừng chừng, lẩn tránh. Cừu, một nông dân 24 tuổi, người Tày trở thành cốt cán của phong trào.

      Sau đó, cấp trên cử giáo Thái về Vũ Lăng để lãnh đạo. Các hiện tượng lệch lạc về quân sự, về chính trị, về tổ chức… được uốn nắn, để xốc phong trào lên.

      Ngọc là một tên Việt gian bị bắt, sắp bị xử tử thì bà cụ Phương “nói khó với thằng Cam”, cháu nể tình cô ruột nên đã tha cho nó! Ngọc dẫn Tây về đàn áp cuộc khởi nghĩa. Nhiều người bị bắt, bị bắn giết dã man. Sáng bị giặc bắn. Cụ Phương trúng đạn giặc mà hi sinh. Bà cụ Phương sợ, bỏ nhà đi đâu mất.

      Ngọc được thưởng nhiều tiền, may áo mua vàng cho vợ. Hắn dẫn Tây đi lùng bắt cán bộ, bắt anh Thái và Cửu. Hắn đi suốt đêm. Hắn được quan cho nhiều bạc để mua nhà mới, tậu mấy mẫu ruộng, mơ hàm cửu phẩm và ăn khao. Nửa đêm, Ngọc, lí trưởng, quan, bọn Tây truy đuổi theo anh Thái và anh Cửu, hai người chạy đến nhà Ngọc. Thơm đã giấu hai cán bộ cách mạng vào buồng và cứu thoát họ. Khâu súng lục của cụ Phương để lại đã được Thơm tặng cho giáo Thái.

      Quân khởi nghĩa rút vào rừng. Biết được Ngọc ngày mai sẽ dẫn Tây vào đánh úp, Thơm đã băng rừng giữa đêm khuya vào tận căn cứ tiếp tế muối, chăn và báo cho quân cách mạng kịp thời ứng phó. Thơm quay về gặp Ngọc, bị hắn bắn trọng thương. Còn Ngọc thì lại trúng đạn lũ quan thầy mà chết. Cuộc vây quét của Tây bị thất bại, quân cách mạng thu được nhiều súng đạn. Thái và Cửu cứu chữa cho Thơm. Trong cơn mê sảng, cô nói: “Trường Vũ Lăng ta lại chiếm được kia kìa. Đi mau lên, các ông! Các ông cố lên nhớ! Mau lên! Có phải cờ ta đấy không? Được thật rồi!”. Trong lúc đó, tiếng hát của du kích quân cất lên vang lừng, hùng dũng, văng vẳng…

3. Bắc Sơn là vở kịch nói đầu tiên biểu hiện thành công chủ đề cách mạng. Nó ca ngợi tinh thần chiến đấu và vai trò lãnh đạo của cán bộ cách mạng, biểu dương tình yêu nước và chí khí chiến đấu sôi sục của nhân dân, nó nói lên một cách chân thực cảm động quá trình giác ngộ và đứng hẳn về phía cách mạng của người phụ nữ, của quần chúng. Đồng thời kịch Bắc Sơn đã căm thù vạch trần tội ác vô cùng dã man của thực dân Pháp, vạch mặt lên án bọn Việt gian bán nước cầu vinh. Cảm nhận về hồi IV kịch Bắc Sơn.

      Ta có thể lấy câu nói này của Thơm để làm nhan đề cho hồi IV kịch Bắc Sơn “Tôi chết thì chết, chứ tôi không báo hai ông đâu ”. Sự việc diễn ra tại nhà vợ chồng Ngọc, có đủ bốn nhân vật: Ngọc, Thơm, Thái, Cửu.

      Ngọc dẫn Tây truy đuổi sắp bắt được hai cán bộ cách mạng là anh Cửu và giáo Thái. Bị dồn vào tình thế nguy kịch, Cửu dẫn Thái chạy trốn vào nhà anh Điếc người quen, ai ngờ đó là nhà Ngọc mới tậu được. Cửu rút súng toan bắn Thơm vì anh cho rằng: Vợ Việt gian thì cũng là Việt gian.  Nhưng Thái đã giữ tay lại và bảo: “đừng bắn ”, vì anh tin rằng Thơm mang “dòng máu cụ Phương”, đó là dòng máu yêu nước, cách mạng. Khi tiếng chó sủa râm ran, tiếng người chạy rầm rập, Cửu vừa thất vọng vừa hối hận, lo lắng thì Thơm đã nói : “Chết nỗi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không? Làm thế nào bây giờ?… Tôi không báo hai ông đâu. Tôi chết thì chết, chứ tôi không báo hai ông đâu”. Ngọc dẫn Tây đi khám nhà bà Lục, nhà bác Chui. Tiếng chân đi, tiếng gây lộc cộc càng gần. Thái và Cửu định chạy ra thì Thơm đã ngăn lại, đẩy hai cán bộ vào buồng và nói: “Có lối thông ra ngoài đây, khép cửa buồng lại”.

      Tình huống này đầy kịch tính, căng thẳng, hồi hộp. Vợ Việt gian đã che giấu, bảo vệ cán bộ cách mạng. Thơm đã đứng hẳn về phía cách mạng. Đó là sự thật thể hiện tấm lòng của nhân dân đối với cách mạng.

      Bình diện thứ hai là xung đột giữa Thơm và Ngọc. Ngọc mỗi ngày một lộ nguyên hình một con chó săn đắc lực cho bọn Tây. Đêm nào hắn cũng đi suốt đêm, tay cầm đèn bấm và gậy gộc để lùng bắt cán bộ. Lời đồn đến tai Thơm: “anh thằng Sáng dắt Tây vào đánh Vũ Lăng”. Ngọc có nhiều tiền. Hắn mơ cái hàm cửu phẩm. Hắn tự than thân: “Chỉ mình là đen, không có danh phận gì, lép vế trong làng quá!”. Ông Thái đối với Thơm là một người rất tốt: “bỏ cả cửa nhà đi làm cách mạng,  cả vùng này, có ai ghét ông ấy đâu!”. Trái lại, lúc thì Ngọc bịa đặt vu khống ông Thái là: “mật thám cho Tây đây”, lúc thì lại bảo, anh Cửu và ông Thái là “hai cái thằng tướng cướp… Bắt được hai thằng ấy thì cũng được vài ngàn đồng’’… Hắn đi suốt đêm, hắn đi lùng sục bắt ông Thái, bắt anh Cửu nộp cho Tây là để được thưởng nhiều tiền mà mua nhà, mà tậu mấy mẫu ruộng nữa, mà chạy cái hàm cửu phẩm, mà ăn khao một chuyến “thế mới thích’’!.

      Trong lúc ông Thái, anh Cửu đang trốn trong buồng nhà Thơm thì ở dưới chân cầu thang lại có lí trưởng, bọn tay sai, bọn lính Tây đang lùng sục, đang chờ Ngọc Ngọc đi đi về về. Hắn cứ ngồi nán lại mải nói với Thơm đủ chuyện, hắn đếm tiền, hay tính toán, hắn cười, ngắm vợ. Có lúc nó thốt lên: “Chắc là nó còn ở đấy,… nhất định là nó còn ở đấy!…”. Thơm nhìn trộm chồng, vô cùng sốt ruột nhưng chị đã khéo giấu kín tâm trạng lo lắng của mình. Thơm ăn nói nhẹ nhàng, tình cảm lúc thì nhắc chồng: “Mai thì ở nhà mà ngủ cho nó lại sức”, lúc thì giục giã: “ Thế nào có đi không?”. Lúc Ngọc nghe tiếng quan gọi, chạy ra khỏi nhà thì Thơm thở dài, khoan khoái nhìn theo phía Ngọc ra, mỉm cười, thầm nghĩ: “May thế!”. Đúng là Thơm đóng kịch giỏi, đã qua mắt được tên Việt gian, mà tên Việt gian ấy lại là chồng mình. Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện một tính cách tinh tế tâm trạng nhân vật Thơm đầy tính kịch – tính kịch của một tâm trạng bi kịch.

      Nhân vật Thơm là một hình tượng bi tráng về người phụ nữ Tày hơn 60 năm về trước. Vượt qua mọi cảnh ngộ đau thương, Thơm đã đến với cách mạng, sẵn sàng xả thân vì cách mạng. Tinh thần của các chiến sĩ trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đời đời bất tử. Hình tượng nhân vật Thơm trong kịch Bắc Sơn vô cùng chói lọi, một thành công đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng khi viết về cách mạng và người phụ nữ Việt Nam.

      Cũng cần nhắc lại, nghe lại lời của Thơm vạch mặt Ngọc trước khi chị bị tên Việt gian này bắn:

      “ Thôi, đến lúc này tôi cũng chẳng cần úp mở làm gì nữa. Tôi biết anh lắm rồi. Tôi biết anh từ khi em tôi chết, chú tôi chết, từ hôm mé tôi dở người. Anh giấu ai, chứ giấu tôi thế nào được? Ba tháng nay, tôi ăn chung, ở chung với anh, tôi khổ sở biết là chừng nào! Anh giết chú tôi, anh giết em tôi, anh làm tan cửa nát nhà tôi, anh làm hại bao nhiêu người, anh tưởng tôi không biết nhục à? Vợ một thằng chó săn! (…) Tôi  đố anh phá nổi quân du kích, tôi thách thằng Tây phá nổi quân du kích! Mở mắt ra: Nó sai như con chó, nó khinh như con chó, mà không biết đời à ?… Các ông đồng chí đâu! Bắt lấy nó! Nó đây rồi! Bắt cả tôi nữa, mà báo thù cho các đồng chí Bắc Sơn. Nó đây rồi, đừng thương nó.”

 Cảm nhận về kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng- Mẫu 2

Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) quê ở Dục Tú, Từ Sơn, Bắc Ninh, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông là gương mặt tiêu biểu của nền Văn học Việt Nam hiện đại. Cảm hứng lịch sử, cảm hứng cách mạng in đậm trong tiểu thuyết và tác phẩm kịch của ông.

Nguyễn Huy Tưởng viết kịch Bắc Sơn vào cuối năm 1945 – đầu năm 1946. Vở kịch được công diễn lần đầu vào đêm 6- 4 – 1946 tại Nhà hát lớn Hà Nội. Bắc Sơn thuộc tỉnh Lạng Sơn. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã nổ ra vào cuối năm 1940 đầu năm 1941, là một trang sử oanh liệt của nhân dân ta và Đảng ta. Vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng đã nói về cuộc khởi nghĩa này.

Bắc Sơn là vở kịch nói đầu tiên biểu hiện thành công chủ đề cách mạng. Nó ca ngợi tinh thần chiến đấu và vai trò lãnh đạo của cán bộ cách mạng, biểu dương tình yêu nước và chí khí chiến đấu sôi sục của nhân dân, nó nói lên một cách chân thực cảm động quá trình giác ngộ và đứng hẳn về phía cách mạng của người phụ nữ, của quần chúng. Đồng thời kịch Bắc Sơn đã căm thù vạch trần tội ác vô cùng dã man của thực dân Pháp, vạch mặt lên án bọn Việt gian bán nước cầu vinh. Cảm nhận về hồi IV kịch Bắc Sơn.

Ta có thể lấy câu nói này của Thơm để làm nhan đề cho hồi IV kịch Bắc Sơn “Tôi chết thì chết, chứ tôi không báo hai ông đâu ”. Sự việc diễn ra tại nhà vợ chồng Ngọc, có đủ bốn nhân vật: Ngọc, Thơm, Thái, Cửu.

Ngọc dẫn Tây truy đuổi sắp bắt được hai cán bộ cách mạng là anh Cửu và giáo Thái. Bị dồn vào tình thế nguy kịch, Cửu dẫn Thái chạy trốn vào nhà anh Điếc người quen, ai ngờ đó là nhà Ngọc mới tậu được. Cửu rút súng toan bắn Thơm vì anh cho rằng: Vợ Việt gian thì cũng là Việt gian.  Nhưng Thái đã giữ tay lại và bảo: “đừng bắn ”, vì anh tin rằng Thơm mang “dòng máu cụ Phương”, đó là dòng máu yêu nước, cách mạng. Khi tiếng chó sủa râm ran, tiếng người chạy rầm rập, Cửu vừa thất vọng vừa hối hận, lo lắng thì Thơm đã nói : “Chết nỗi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không? Làm thế nào bây giờ?… Tôi không báo hai ông đâu. Tôi chết thì chết, chứ tôi không báo hai ông đâu”. Ngọc dẫn Tây đi khám nhà bà Lục, nhà bác Chui. Tiếng chân đi, tiếng gây lộc cộc càng gần. Thái và Cửu định chạy ra thì Thơm đã ngăn lại, đẩy hai cán bộ vào buồng và nói: “Có lối thông ra ngoài đây, khép cửa buồng lại”.

Tình huống này đầy kịch tính, căng thẳng, hồi hộp. Vợ Việt gian đã che giấu, bảo vệ cán bộ cách mạng. Thơm đã đứng hẳn về phía cách mạng. Đó là sự thật thể hiện tấm lòng của nhân dân đối với cách mạng.

Bình diện thứ hai là xung đột giữa Thơm và Ngọc. Ngọc mỗi ngày một lộ nguyên hình một con chó săn đắc lực cho bọn Tây. Đêm nào hắn cũng đi suốt đêm, tay cầm đèn bấm và gậy gộc để lùng bắt cán bộ. Lời đồn đến tai Thơm: “anh thằng Sáng dắt Tây vào đánh Vũ Lăng”. Ngọc có nhiều tiền. Hắn mơ cái hàm cửu phẩm. Hắn tự than thân: “Chỉ mình là đen, không có danh phận gì, lép vế trong làng quá!”. Ông Thái đối với Thơm là một người rất tốt: “bỏ cả cửa nhà đi làm cách mạng,  cả vùng này, có ai ghét ông ấy đâu!”. Trái lại, lúc thì Ngọc bịa đặt vu khống ông Thái là: “mật thám cho Tây đây”, lúc thì lại bảo, anh Cửu và ông Thái là “hai cái thằng tướng cướp… Bắt được hai thằng ấy thì cũng được vài ngàn đồng’’… Hắn đi suốt đêm, hắn đi lùng sục bắt ông Thái, bắt anh Cửu nộp cho Tây là để được thưởng nhiều tiền mà mua nhà, mà tậu mấy mẫu ruộng nữa, mà chạy cái hàm cửu phẩm, mà ăn khao một chuyến “thế mới thích’’!.

Trong lúc ông Thái, anh Cửu đang trốn trong buồng nhà Thơm thì ở dưới chân cầu thang lại có lí trưởng, bọn tay sai, bọn lính Tây đang lùng sục, đang chờ Ngọc Ngọc đi đi về về. Hắn cứ ngồi nán lại mải nói với Thơm đủ chuyện, hắn đếm tiền, hay tính toán, hắn cười, ngắm vợ. Có lúc nó thốt lên: “Chắc là nó còn ở đấy,… nhất định là nó còn ở đấy!…”. Thơm nhìn trộm chồng, vô cùng sốt ruột nhưng chị đã khéo giấu kín tâm trạng lo lắng của mình. Thơm ăn nói nhẹ nhàng, tình cảm lúc thì nhắc chồng: “Mai thì ở nhà mà ngủ cho nó lại sức”, lúc thì giục giã: “ Thế nào có đi không?”. Lúc Ngọc nghe tiếng quan gọi, chạy ra khỏi nhà thì Thơm thở dài, khoan khoái nhìn theo phía Ngọc ra, mỉm cười, thầm nghĩ: “May thế!”. Đúng là Thơm đóng kịch giỏi, đã qua mắt được tên Việt gian, mà tên Việt gian ấy lại là chồng mình. Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện một tính cách tinh tế tâm trạng nhân vật Thơm đầy tính kịch – tính kịch của một tâm trạng bi kịch.

Nhân vật Thơm là một hình tượng bi tráng về người phụ nữ Tày hơn 60 năm về trước. Vượt qua mọi cảnh ngộ đau thương, Thơm đã đến với cách mạng, sẵn sàng xả thân vì cách mạng. Tinh thần của các chiến sĩ trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đời đời bất tử. Hình tượng nhân vật Thơm trong kịch Bắc Sơn vô cùng chói lọi, một thành công đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng khi viết về cách mạng và người phụ nữ Việt Nam.

Cũng cần nhắc lại, nghe lại lời của Thơm vạch mặt Ngọc trước khi chị bị tên Việt gian này bắn:

“ Thôi, đến lúc này tôi cũng chẳng cần úp mở làm gì nữa. Tôi biết anh lắm rồi. Tôi biết anh từ khi em tôi chết, chú tôi chết, từ hôm mé tôi dở người. Anh giấu ai, chứ giấu tôi thế nào được? Ba tháng nay, tôi ăn chung, ở chung với anh, tôi khổ sở biết là chừng nào! Anh giết chú tôi, anh giết em tôi, anh làm tan cửa nát nhà tôi, anh làm hại bao nhiêu người, anh tưởng tôi không biết nhục à? Vợ một thằng chó săn! (…) Tôi  đố anh phá nổi quân du kích, tôi thách thằng Tây phá nổi quân du kích! Mở mắt ra: Nó sai như con chó, nó khinh như con chó, mà không biết đời à ?… Các ông đồng chí đâu! Bắt lấy nó! Nó đây rồi! Bắt cả tôi nữa, mà báo thù cho các đồng chí Bắc Sơn. Nó đây rồi, đừng thương nó.”

Cảm nhận về kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng- Mẫu 3

Bắc Sơn là vở kịch đầu tiên đã thể hiện thành công các sự kiện cách mạng với các nhân vật mới của thời đại: quần chúng và người chiến sĩ cách mạng.

Nguyễn Huy Tưởng là một cây bút lớn, người ta biết nhiều đến ông qua những tác phẩm văn học cách mạng và kịch cách mạng. Bắc Sơn là vở kịch đầu tiên đã thể hiện thành công các sự kiện cách mạng với các nhân vật mới của thời đại: quần chúng và người chiến sĩ cách mạng. Bắc Sơn được coi là sự khởi đầu cho nền kịch cách mạng nước nhà.

Bắc Sơn là một vở kịch nói gồm năm hồi, lấy bối cảnh là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940 – 1941). Chuyện kịch xoay quanh gia đình cụ Phương – một nông dân dân tộc Tày. Khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra năm người trong gia đình cụ có thái độ khác nhau: Cụ và Sáng – con trai cụ hăng hái tham gia chiến đấu; bà cụ Phương và Thơm (con gái) cùng Ngọc (chồng Thơm) lại sợ hãi lẫn trốn. Trong lúc bố vợ và anh vợ đang tham gia chiến đấu thì Ngọc lại làm tay sai cho giặc Pháp, dẫn chúng đánh chiếm Vũ Lăng, đàn áp quần chúng, truy lùng cán bộ lãnh đạo. Sau này, khi cha và em trai hi sinh, lại dần nhận ra bộ mặt phản động của Ngọc, Thơm đau xót, ân hận. Hồi bốn kể về việc Thái và Cửu – hai chiến sĩ cách mạng bị giặc truy lùng chạy nhầm vào nhà Thơm. Thơm nhanh trí che giấu và cứu thoát được hai người. Hành động ấy đã giúp Thơm đứng hẳn sang hàng ngũ cách mạng.

Thành công nổi bật trong nghệ thuật viết kịch của Nguyễn Huy Tưởng là tạo dựng tình huống để bộc lộ xung đột, tổ chức đối thoại và thể hiện tâm lí, tính cách nhân vật.

Một vở kịch có lôi cuốn hấp dẫn người xem được hay không trước hết phụ thuộc vào tình huống. Những tình huống thắt nút, cao trào, đỉnh điểm, mở nút… thường làm cho người xem lắm phen nín thở hụt hơi. Hồi bốn của vở Bắc Sơn đã làm được điều đó. Trước hết tình huống của Hồi bốn đã đề cập đến xung đột cơ bản của toàn bộ vở kịch: xung đột giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù. Cụ thể là sự đối đầu giữa Ngọc cùng đồng bọn với Thái và Cửu – hai chiến sĩ cách mạng đang bị truy lùng ráo riết. Xung đột ấy diễn ra trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến đang bị đàn áp dã man. Không chỉ có vậy, xung đột kịch còn diễn ra trong nhân vật Thơm để cuối cùng cô đã lựa chọn đứng hẳn về phía cách mạng. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một tình huống căng thẳng, bất ngờ đó là: Thái, Cửu trong lúc lẩn trốn sự truy lùng của Ngọc và đồng bọn lại chạy đúng vào nhà Ngọc, trong lúc chỉ có Thơm ở nhà. Chi tiết đầu tiên này khiến cho người xem không thể không hồi hộp lo lắng và phải suy đoán: Liệu thái độ của Thơm sẽ thế nào? Liệu hai chiến sĩ có bị bắt không?

Nguyễn Huy Tưởng cũng đã tổ chức đối thoại và thể hiện tâm lí nhân vật hết sức tài tình. Trước hết là cuộc đối thoại ngắn, vội vã thể hiện tâm lí nhân vật Thơm. Tác giả gây sự căng thẳng, gấp gáp, lo lắng, hồi hộp ngay khi mở đầu hồi bốn:

– Cửu (thất sắc): Nhầm rồi! Thôi hỏng! (chĩa súng định bắn).

– Thái (giữ lại): Đừng bắn, Cửu!

Qua chi tiết này chúng ta thấy cho đến lúc hai người cách mạng vào nhà Thơm thì cô ấy vẫn bị coi là người không ủng hộ cách mạng, thậm chí Cừu định bắn cô. Vào chính những giờ khắc đó Thơm đã buộc có thái độ dứt khoát với cách mạng. Trước câu hỏi của Thái: “Cô có định bắt tôi không?”, Thơm đã khẳng định: “Không, không đời nào”, “Tôi cứ lo cho hai ông”, ‘Tôi chết thì chết chứ tôi không bảo hai ông đâu”. Những câu nói ấy đã thể hiện thái độ đứng về phía cách mạng của Thơm. Tình cảm của cô đối với những chiến sĩ cách mạng càng lúc càng rõ ràng, cô cuống quýt gần như khóc: “Có cả Tây. Ngọc cũng đi vào đây. Tôi lo quá,..” (nghẹn ngào). Để rồi cuối cùng cô có một hành động hết sức khôn ngoan và bất ngờ: “Hai ông đừng đi đâu, hãy tạm vào đây, may ra… (chỉ vào buồng). Chúng ta bỗng thót tim khi Ngọc đột ngột quay về nhà, liệu Thơm sẽ xử trí ra sao đây. Cô bình tĩnh, khôn ngoan che mắt Ngọc bằng cách giả như đang ngủ và khéo đó là Ngọc “Có còn phải đi nữa không”. Cô cuống quýt khi biết đồng bọn của Ngọc phục ngang lối buồng đi ra, cô lo cho số phận người chiến sĩ cách mạng. Cô đã khéo léo: “Sao lại đợi ở đây? Sao không mời các ông ấy lên chơi cả cho vui có được không?” và khéo giục chồng đi khỏi nhà. Qua cuộc đối thoại với chồng Thơm đã nhận rõ bộ mặt Việt gian cùng sự xấu xa của Ngọc.

Bằng cách đặt nhân vật vào tình huống càng thẳng, gay cấn, tác giả đã diễn tả thái độ và hành động dứt khoát đứng hẳn về phía cách mạng của nhân vật Thơm. Qua nhân vật này, tác giả đã chứng minh rằng ngay cả trong lúc cách mạng gặp khó khăn, bị kẻ thù đàn áp khốc liệt thì nó vẫn có khả năng thức tỉnh quần chúng, cả với những người đang lưỡng lự khi đến với cách mạng. Bằng đối thoại và nội tâm nhân vật, chúng ta thấy bản chất của Thơm là người tốt, chỉ có điều trước đây cô chưa đến với cách mạng là do hoàn cảnh sống (sung sướng đã quen, có chồng làm Việt gian), nhưng khi được giác ngộ, cô đã sẵn sàng đến với cách mạng.

Nói tóm lại, khi viết hồi bốn của vở kịch Bắc Sơn, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng thành công tình huống xung đột kịch đẩy câu chuyện phát triển, xây dựng được nhân vật với ngôn ngữ đối thoại và diễn biến tâm lí hợp lí, sâu sắc. Thành công của hồi bốn đã góp phần quan trọng vào thành công chung của vở kịch Bắc Sơn.

Cảm nhận về kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng- Mẫu 4

Có một người con của quê hương Dục Tú đã đưa vào tác phẩm của mình một hiện thực cách mạng và kháng chiến với đậm chất anh hùng và không khí lịch sử. Con người ấy cùng với vở kịch Bắc Sơn đã mở đầu cho nền văn học kịch cách mạng của nước nhà. Đó là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, người luôn đề cao tinh thần dân tộc và cảm hứng lịch sử mà đoạn trích vở kịch Bắc Sơn với diễn biến nội tâm của nhân vật Thơm khi đứng trước những lựa chọn là một minh chứng tiêu biểu. Quả đúng như nhận định: “Ai cũng phải đối diện với lựa chọn khó khăn ít nhất một lấn trong đời. Nhưng khi đã vượt qua sự lựa chọn, người ta sẽ hiểu mình là ai và có được sự thanh thản”

Cuộc sống luôn đặt chúng ta giữa nhiểu lựa chọn và không dễ gì đưa ra quyết định đúng đắn. Đó là quá trình của sự đấu tranh nội tâm gian khổ nhưng khi đưa ra lựa chọn, con người không chỉ hiểu vê’ bản thân mình mà í còn có được niềm vui sống, sự yên tĩnh trong tầm hồn. Nhân vật Thơm – nhân vật trung tâm của đoạn trích, là con gái của cụ Phương và là chị của Sáng – hai người chiến sĩ cách mạng đã chiến đấu và hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dần tộc. Nhưng Thơm cũng là vợ của Ngọc – một tên Việt gian, tay sai đớn hèn dẫn Pháp về tấn công làng Vũ Lăng, gây đau thương cho chính đổng bào mình, gây thiệt hại nặng nê’ cho cách mạng. Thái và Cửu, hai chiến sĩ cách mạng trong khi bị Ngọc lùng bắt đã chạy nhẩm vào nhà hắn, may thay chỉ có Thơm ở nhà. Chính lúc này, chúng ta được chứng kiến sự chuyển biến mạnh mẽ, dứt khoát về cả tâm trạng và hành động của nhân vật Thơm.

Thơm, từ chỗ thờ ơ, sợ liên lụy, đến sự ân hận khi cha và em hi sinh cho cách mạng. Và rồi, cô càng bị giày vò khi chổng làm tay sai cho giặc. Chính lúc ấy, nhân vật được đặt vào tình huống vô cùng gay cấn, căng thẳng. Thái và Cửu, hai chiến sĩ cách mạng bị Pháp truy lùng gắt gao chạy thẳng đến trước cửa nhà của cô, trong khi Ngọc – chồng cô lại đang lùng bắt các anh và có thể trở về nhà bất cứ lúc nào. Tình huống ấy yêu cấu Thơm phải nhanh chóng suy tính và đưa ra lựa chọn dứt khoát. Hai lựa chọn trước mắt cô lúc này là đứng vể phía cách ; mạng, cứu hai người chiến sĩ hay tiếp tục đứng ngoài mà để mặc Thái và Cửu bị bắt. Sau này cô sẽ sống trong sự day dứt lương tâm. Đây quả thực là “lựa chọn khó khăn” trong cuộc đời Thơm.

Đứng trước lựa chọn ấy, Thơm luống cuống, hốt hoảng: “Chết nỗi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không? Làm thế nào bây giờ? Ngọc nó vừa mới đi, chắc… Tôi không báo hai ông đâu. Tôi chết thì chết, chứ tôi không báo hai ông ý đâu. Nhưng làm thế nào hai ông đi được bây giờ?”. Vậy là cô đã đưa ra quyết định sẽ đứng vê’ phía cách mạng, sẽ cứu Thái và Cửu. Nhưng một cô gái vốn yếu đuối, quen sống an nhàn như Thơm khi đưa ra lựa chọn này cũng chưa nghĩ ra cách giúp hai chiến sĩ cách mạng trốn thoát, vì thế cô càng hoảng loạn và lo lắng.

Ngay lúc ấy, Ngọc lại về, tình huống càng cam go, nguy hiểm. Chính lúc này, Thơm quyết định hành động “chỉ vào buồng” và nói: “Hai ông đừng đi đâu, hãy tạm vào đây, may ra…”. Mặc dù lối xưng hô vẫn đầy xa cách nhưng ta đã thấy có sự thân quen, gần gũi hơn “ngoan ngoãn và mau lẹ, thân mật như một người em gái” với hai anh trong gia đình.

Cùng với lựa chọn này, Thơm thoát khỏi tình trạng day dứt để đứng hẳn về phía hàng ngũ quần chúng có cảm tình với cách mạng. Đây không phải lựa chọn ngẫu nhiên, may rủi. Nguyễn Huy Tưởng cũng không xây dựng tâm lí nhân vật gò ép, gượng gạo mà có sự biến chuyển dẩn dần và có những tác nhân thúc đẩy. Quyết định đứng vê’ phía cách mạng không chỉ từ sự ăn năn, hối hận vê’ sự hi sinh anh dũng của cha và em, nối tiếp truyền thống của gia đình mà còn bởi lòng thương người, sự kính phục đối với Thái. Nếu như trước đầy, Thơm chỉ biết đến Thái qua lời kể thì ngay từ lần gặp đầu tiên này, sự dũng cảm, sáng suốt, bình tĩnh của Thái đã cảm hóa, thức tỉnh Thơm. Cũng như các chiến sĩ cách mạng khác, đặt niềm tin nơi nhân dần, Thái tin tưởng Thơm, tin vào dòng máu cụ Phương. Mà cũng nhờ niềm tin ấy, Thơm mới đưa ra lựa chọn và quyết định dứt khoát, mau lẹ và đúng đắn như vậy.

Quyết định ấy càng được khẳng định khi Ngọc trở về. Để che giấu, bằng sự thông minh, nhanh nhạy của mình, Thơm nói chuyện với Ngọc hết sức thân mật, dịu dàng để đánh lạc hướng. Trong cuộc hội thoại với Ngọc, Thơm càng nhận rõ bộ mặt gian xảo, tham quyền chức địa vị, lòng thâm thù của chổng. Từ chỗ khéo léo: “Chỉ thương anh thẳng Sáng vất vả” đến chỗ tài trí, nói to: “Đẳng sau nhà! Ở chỗ buồng đi ra đấy à” như một cách báo tin cho hai người chiến sĩ, cũng thể hiện sự lo lắng thực sự của cô, lo lắng đến cuống quýt: “Sao lại đợi ở đấy? Sao không mời các ông ấy lên chơi cả cho vui có được không?”. Nhận ra bộ mặt thật của Ngọc, Thơm càng hiểu rằng lựa chọn của mình là đúng đắn. Ngay cả trong gian nguy, khó khăn, bị kẻ thù đàn áp khốc liệt thì tình cảm cách mạng vẫn nhen nhóm trong lòng mỗi người như một ngọn lửa, chỉ đợi gió vể là cháy sáng rực rỡ. Cách mạng không thể bị tiêu diệt bởi nó luôn tiềm tàng khả năng cảm hóa, thức tỉnh quần chúng nhân dân và luôn được nuôi dưỡng bởi tinh thần đoàn kết, tình quần dân cá nước.

Thể hiện nhân vật Thơm trong sự chuyển biến tâm lí tài tình, hợp lí và bước ngoặt quan trọng khi đưa ra lựa chọn là nghệ thuật viết kịch tài tình của Nguyễn Huy Tưởng. Xây dựng mâu thuẫn, xung đột kịch trong chính nội tâm Thơm, tổ chức đối thoại khắc họa rõ nét tính cách nổi bật của từng nhân vật: Cửu anh dũng, quả cảm, kiên quyết loại trừ Việt gian nhưng nóng nảy, bộc trực; Thái bình tĩnh, sáng suốt, luôn đặt niềm tin ở quần chúng nhân dân, có sức mạnh cảm hóa con người; Ngọc gian xảo, thâm thù, tham lam quyền thế. Qua đó, tính cách nhân vật Thơm càng nổi bật là một người phụ nữ Tày được cách mạng cảm hóa, soi đường, vượt qua những đau thương trong quá khứ đến với cách mạng và hết lòng vì cách mạng. Người phụ nữ can trường ngay trước khi bị xử bắn vẫn dõng dạc: “Tôi đố anh phá nổi quân du kích, tôi thách thằng Tây phá nổi quân du kích”. Đó là niềm tin mãnh liệt và tình cảm của nhân dân với cách mạng. Ở Thơm là vẻ đẹp của quần chúng nhân dân và cũng là vẻ đẹp của người phụ nữ, là một hình tượng “vô cùng chói lọi, một thành công đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng khi viết về cách mạng và người phụ nữ Việt Nam”.

Cuộc kháng chiến bi tráng, hào hùng của dân tộc đã qua đi, nhưng trong từng câu văn, trang viết, ta vẫn thấy thấm đượm tình người, sâu sắc tình quân dân. Đó là những người dân áo vải “không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm nên Đất nước” là đổng bào Tây Nguyên đã quật cường, mạnh mẽ chống Pháp được khắc họa qua nhân vật Núp trong Đất nước đứng lên; những con người “mang theo tên làng, tên xã trong mỗi chuyến di dân” bằng tình cảm và niềm tin vào cách mạng như ông Hai trong truyện ngắn Làng hay những cảnh đời nghèo khổ, bị nạn đói bủa vầy đã nhìn thấy hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trong Vợ nhặt. Là những “bát cơm nuôi quân em giấu giữa rừng”, là người phụ nữ “dịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, những người mẹ Việt Nam anh hùng, bà mẹ Vệ quốc quân “yêu con, yêu luôn đồng chí/ Bầm quý con, Bấm quý anh em”. Nền văn học kháng chiến với những tượng đài bằng chữ về nhân dân, về cội nguồn cách mạng đã phản ảnh hiện thực đấu tranh của một thời với nhiều khó khăn, nguy hiểm nhưng ấm áp tình đời, mạnh mẽ tinh thần đại đoàn kết toàn dần.

Những lời đối thoại cuối cùng của hai lớp kịch hổi bốn vở Bắc Sơn có thể khép lại, nhưng sự kiện cách mạng và những nhân vật mới của thời đại là quẩn chúng và người chiến sĩ cách mạng còn sống mãi trong lòng ta. Nhân vật Thơm là đại diện cho cả một cộng đồng đang chuyển mình mạnh mẽ, dứt khoát đi theo con đường cách mạng, giành lấy sự an yên trong tâm hổn, tiếp nối và phát huy truyền thống yêu nước của mỗi gia đình, mỗi vùng miền, góp phẩn làm nên chiến thắng của cả một dân tộc anh dũng, kiên cường.

Cảm nhận về kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng- Mẫu 5

Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) quê ở xã Dục Tú, huyện Đông Anh – Hà Nội. Ông bắt đầu viết văn từ trước 1945. Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng đề cao tinh thần dân tộc và giàu cảm hứng lịch sử. Từ sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Huy Tưởng là một trong những nhà văn chủ chốt của nền văn học cách mạng.

Văn bản Bắc Sơn được trích từ vở kịch cùng tên của Nguyễn Huy Tưởng, viết về cuộc đấu tranh giữa những người dân yêu nước, ủng hộ cách mạng với những kẻ phản động, bán rẻ lương tâm, sẵn sàng quỳ gối làm tay sai cho giặc thời cách mạng Việt Nam còn trong trứng nước.

Các sự việc trong đoạn trích này diễn ra chủ yếu ở gia đình Thơm – Ngọc. Trước cái chết của cha, Thơm dần dần nhận ra bộ mặt phản bội của Ngọc. Cô vô cùng đau xót, ân hận. Thái và Cửu bị giặc truy bắt đã chạy nhầm vào nhà Thơm, được Thơm che giấu và cứu thoát.

Trong một vở kịch, tình huống đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó thúc đẩy nhanh diễn biến sự việc, buộc các nhân vật phải hành động, qua đó bộc lộ tính cách, phẩm chất cũng như tư tưởng, quan điểm… Xung đột kịch trong hồi bốn được bộc lộ qua tình huống hết sức căng thẳng. Ngọc dẫn bọn lính đi lùng bắt cán bộ và du kích. Thái và Cửu bị Ngọc và đồng bọn đuổi bắt lại chạy đúng vào nhà Ngọc. Tình huống ấy buộc Thơm phải có sự lựa chọn dứt khoát: hoặc là để cho Ngọc bắt cán bộ thì được yên thân, hoặc là che giấu họ ngay trong nhà mình thì sẽ vô cùng nguy hiểm. Bằng việc che giấu cho hai người, Thơm đã đứng hẳn về phía cách mạng.

Sự xuất hiện của hai người cán bộ cách mạng ở Lớp II đã đẩy mâu thuẫn kịch phát triển theo một chiều hướng khác. Trong hoàn cảnh bị địch truy bắt, lòng tin của những người cán bộ cách mạng đối với quần chúng nhân dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng, liên quan đến sinh mệnh của mỗi người, rộng hơn nữa là liên quan đến sự thành bại của cách mạng.

Trong lớp kịch này, sức hấp dẫn từ nhân vật Thơm không phải là cuộc đấu tranh giữa cái sống và cái chết, cũng không ở sự đắn đo nên che giấu hay khai báo việc hai người cán bộ đang ở trong nhà mình. Khi Cửu và Thái mới xuất hiện, Thơm có hoảng hốt nhưng chủ yếu là do bị bất ngờ. Qua phút hốt hoảng ban đầu, Thơm đã quyết bảo vệ hai người cán bộ. Cô không băn khoăn đến mối nguy hiểm khi cả gan che giấu cán bộ cách mạng mà chỉ lo lắng vì không biết bảo vệ họ như thế nào. Hoàn cảnh bức bách đã làm bật lên hành động cao đẹp của một quần chúng yêu nước. Cô nhanh trí đẩy họ vào buồng trong (theo phong tục của nhiều dân tộc thiểu số, gian buồng là nơi cấm kị đối với người lạ). Bằng cách táo bạo ấy, cô đã khiến cho Ngọc không mảy may nghi ngờ.

Ở Lớp III, tính chất khốc liệt và éo le của hoàn cảnh đã đẩy mâu thuẫn kịch phát triển đến đỉnh cao. Một bên là Thơm, người đã cả gan vượt khỏi tập tục, chống lại chồng, che giấu cán bộ cách mạng ngay trong buồng nhà mình. Một bên là Ngọc, đang trong cuộc vây bắt cán bộ để lập công với kẻ thù. Ngọc hoàn toàn không biết những người cán bộ mà hắn rắp tâm truy bắt để lập công lại đang ở ngay trong buồng nhà mình. Hắn nấn ná ở lại, không chịu đi ngay chỉ vì ham quấn quýt với người vợ trẻ đẹp của mình.

Hoàn cảnh trớ trêu đó đã làm cho tính kịch được tô đậm. Ngọc chỉ vô tình nhưng hắn càng nấn ná thì Thơm lại càng sốt ruột. Diễn biến tâm lí của nhân vật diễn ra khá phức tạp, có thể hình dung theo các giai đoạn:

Ban đầu, Thơm giả bộ ngọt ngào với chồng, lại còn tỏ ra ân hận về những lời nói không phải với chồng trước đó, mục đích để Ngọc không nghi ngờ gì.

Khi biết lối ra vườn đã vô tình bị chặn (do đồng bọn của Ngọc đợi hắn ngoài đó), Thơm cố tình nói to lên để cán bộ biết mà đề phòng, không ra theo lối ấy.

Thơm tìm cách đẩy chồng đi để nhanh chóng giải thoát cho hai người cán bộ. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với thái độ của Thơm ban đầu (cố giữ chồng ở nhà). Mặc dù tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng rất may là Ngọc không nhận thấy sự bất thường đó có nghĩa gì.

Trong lớp này, mọi lời nói, hành động của Ngọc chỉ vô tình nhưng sự vô tình đó lại làm cho vở kịch thêm hấp dẫn. Người nghe, người xem hồi hộp theo dõi mọi lời nói, hành động của nhân vật Thơm. Thơm ở trong tình cảnh rất khó xử: nếu đẩy chồng đi lộ liễu quá sẽ làm cho hắn nghi ngờ. Nếu giữ chồng lại như ban đầu, biết đâu hắn chẳng ở lại thật, như thế hai người cán bộ sẽ gặp phải nguy hiểm. Bởi vậy, một mặt Thơm phải khéo nói dựa theo những lời của chồng khiến hắn không nghi ngờ gì, mặt khác lại phải tìm cách đẩy hắn đi thật nhanh.

Lòng tin và quyết tâm bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng đã khiến Thơm trở nên nhanh trí, chính xác trong lời nói cũng như việc làm. Cô không những đã cứu cho hai người cán bộ khỏi bị địch bắt mà còn mang đến cho họ lòng tin vào sức mạnh của quần chúng.

Trong hồi bốn, Ngọc đã bộc lộ đầy đủ bản chất cua một tên Việt gian bán nước. Vốn chỉ là một anh nho lại có địa vị thấp kém, Ngọc nuôi tham vọng ngoi lên để thoảm mãn lòng ham muốn địa vị và tiền bạc. Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, Ngọc đã rắp tâm làm tay sai cho giặc. Hắn dẫn quân Pháp về đánh Vũ Lăng – căn cứ của lực lượng khởi nghĩa, sau đó lại ra sức truy lùng những người cách mạng, đặc biệt là Thái và Cửu. Tuy Ngọc cố che giấu nhưng dần dần bản chất xấu xa của Ngọc đã bị lộ ra, điều đó càng thúc đẩy Thơm dứt khoát đứng về phía cách mạng.

Trong hổi bốn, Thái và Cửu chỉ là những nhân vật phụ, xuất hiện trong chốc lát. Bị giặc truy đuổi, lại chạy nhầm vào chính nhà tên Ngọc nhưng Thái đã hết sức bình tĩnh, sáng suốt, đồng thời rất tin tưởng vào sự ủng hộ của quần chúng, ngay cả khi đó là vợ cua rmột tên Việt gian. Khác với Thái, Cửu có phần nôn nóng, thiếu chín chắn. Anh nghi ngờ Thơm, thậm chí còn định bắn cô…

Việc tác giả xây dựng những tính cách vừa đối lập vừa khác biệt ấy cũng là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy hành động kịch, đồng thời tạo được sức cuốn hút đối với bạn đọc.

Tuy mâu thuẫn chưa được đẩy đến mức gay gắt, quyết liệt nhưng đoạn trích (và tác phẩm nói chung) đã tạo nên được sức hấp dẫn lớn đối với người đọc, người xem bởi nó đã đặt ra và giải quyết được những vấn đề lớn của cách mạng: đó là mối quan hệ giữa cách mạng và nhân dân, là lòng tin của người cán bộ cách mạng vào tình cảm yêu nước cũng như lòng nhiệt tình cách mạng của quần chúng. Vở kịch đã chứng minh rằng: khi đã được nhân dân tin yêu và bảo vệ, những người chiến sĩ cách mạng có thể vượt qua bất cứ trở ngại, khó khăn nào.

Cảm nhận về kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng- Mẫu 6

Chủ đề cách mạng in đậm trong “Kịch Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng. Xung đột kịch thể hiện tập trung trong hồi 4 đã dựng nên một hình tượng bi tráng về người phụ nữ dân tộc Tày, tiêu biểu cho hàng nghìn, hàng vạn quần chúng được giác ngộ trong đấu tranh, trong mất mát đau thương đã đứng hẳn về phía cách mạng.

Ta có thể lấy câu nói này của Thơm để làm nhan đề cho hồi IV kịch “Bắc Sơn”: Tôi chết thì chết, chứ tôi không bảo hại ông đâu”. Sự việc diễn ra, xung đột kịch nổ ra tại nhà vợ chồng Ngọc, có đủ bốn nhân vật : Ngọc, Thơm, Thái, Cửu.

Ngọc dẫn Tây truy đuổi sắp bắt được hai cán bộ cách mạng là anh Cửu và giáo Thái. Bị dồn nguy kịch. Cửu dẫn Thái chạy trốn vào nhà anh Điếc người quen, ai ngờ đó là nhà Ngọc mới tậu được. Cửu rút súng toan bắn Thơm vì anh cho rằng: Vợ Việt gian thì cũng là Việt gian. Nhưng Thái đã giữ tay lại và bảo: “đừng bắn ”, vì anh tin rằng Thơm mang “dòng máu cụ Phương”, đó là dòng máu yêu nước, cách mạng. Khi tiếng chó sủa râm ran, tiếng người chạy rầm rập, Cửu vừa thất vọng vừa hối hận, lo lắng thì Thơm đã nói như thề: “Chết nỗi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không? Làm thế nào bây giờ?… Tôi không báo hai ông đâu. Tôi chết thì chết, chứ tôi không báo hai ông đâu Ngọc dẫn Tây đi khám nhà bà Lục, nhà bác Chui. Tiếng chân đi, tiếng gậy lộc cộc càng gần . Thái và Cửu định chạy ra thì Thơm đã ngăn lại, đẩy hai cán bộ vào buồng và nói: “ có lối thông ra ngoài đấy, khép cửa buồng lại”.

Tình huống này đầy kịch tính, căng thẳng, hồi hộp. Vợ Việt gian đã che giấu,  bảo vệ cán bộ cách mạng. Thơm đã đứng hẳn về phía cách mạng. Đó là sự thật để thấy được tấm lòng của nhân dân đối với cách mạng.

Bình diện thứ hai là xung đột giữa Thơm và Ngọc. Ngọc mỗi ngày một lộ nguyên bản là một con chó săn đắc lực cho bọn Tây. Đêm nào hắn cũng đi suốt đêm, tay cầm đèn pin và gậy gộc để lùng bắt cán bộ. Lời đồn đến tai Thơm: “anh thằng Sáng dắt Tây vào Linh Vũ Lăng Ngọc có nhiều tiền. Hắn mơ cái hàm cửu phẩm. Ông Thái đối với Thơm là một người rất tốt: “bỏ cả cửa nhà để làm cách mạng ”, “cả vùng này, có ai ghét ông ấy.

Trái lại. lúc thì Ngọc bịa đặt vu khống ông Thái là mật thám cho Tây đấy ”, lúc thì lại bảo anh Cửu và ông Thái là “hai cái thằng tướng cướp… Bắt được hai thằng ấy thì cũng được vài ngàn đồng .. Hắn đi suốt đêm, hắn đi lùng sục bắt ông Thái, bắt anh Cửu nộp cho Tây là để đựơc thưởng nhiều tiền mà mua nhà, mà tậu mấy mẫu ruộng nữa, mà chạy cái hàm cửu phẩm, mà ăn khao một chuyến “ ấy thể mới thích”!.

Trong lúc ông Thái, anh Cửu đang trốn trong buồng nhà Thơm thì ở dưới chân cầu thang lại có lí trưởng, bọn tay sai, bọn lính Tây đang lùng sục, đang chờ Ngọc. Ngọc đi đi về về. Hắn cứ ngồi nán lại mải nói với Thơm đủ chuyện, hắn đếm tiền, hay tính toán, hắn cười, ngắm vợ. Có lúc nó thốt lên:  “Chắc là nó còn ở đấy,… nhất định là nó còn ở đấy!… Thơm nhìn trộm chồng, vô cùng sốt ruột nhưng chị đã khéo dấu kín tâm trạng lo lắng của mình. Thơm ăn nói nhẹ nhàng, tình cảm lúc thì nhắc chồng: “Mai thà ở nhà mà ngủ cho nó lại sức”, lúc thì giục giã: “Thế nào có đi không? Lúc Ngọc nghe tiếng quan gọi, chạy ra khỏi nhà thì Thơm thở dài, khoan khoái nhìn theo phía Ngọc ra, mỉm cười, thầm nghĩ: “May thế!”. Đúng là Thơm đóng kịch giỏi, đã qua mắt được tên Việt gian, mà tên Việt gian ấy lại là chồng mình. Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện một tính cách tinh tế tâm trạng nhân vật Thơm đầy tính kịch – tính kịch của một tâm trạng bi kịch.

Nhân vật Thơm là một hình tượng bi tráng về người phụ nữ Tầy hơn 60 năm về trước. Vượt qua mọi cảnh ngộ đau thương, Thơm đã đến với cách mạng, sẵn sàng xả thân vì cách mạng. Tinh thần của các chiến sĩ trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đời đời bất tử. Hình tượng nhân vật Thơm trong kịch “Bắc Sơn ” vô cùng chói lọi, một thành công đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng khi viết về cách mạng và người phụ nữ Việt Nam.

Cũng cần nhắc lại, nghe lại lời của Thơm vạch mặt Ngọc trước khi chị bị tên Việt gian này bắn:

… “Thôi, đến lúc này tôi cũng chẳng cần úp mở làm gì nữa. Tôi biết anh lắm rồi. Tôi biết anh từ khi em tôi chết, chú tôi chết, từ hôm mé lởi dà người. Anh giấu ai, chứ giấu tôi thế nào được? Ba tháng nay, tôi ăn chung, ở chung với anh, tôi khổ sở biết là chừng nào! Anh giết chú tôi, anh giết em tôi, anh làm tan cửa nát nhà tôi, anh làm hại bao nhiêu người, anh tưởng tôi không biết nhục à? Vợ một thằng chó săn ! (…) Tôi đố anh phá nổi quân du kích, tôi thách thằng Tây phá nổi quân du kích! Mở mắt ra: Nó sai như con chó, nó khinh như con chó, mà không biết đời à?… Các ông đồng chí đâu! Bắt lấy nó! Nó đây rồi! Bắt cả tôi nữa, mà báo thù cho các đồng chí Bắc Sơn. Nó đây rồi, đừng thương nó! “

Cảm nhận về kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng- Mẫu 7

Kịch Bắc Sơn là một trong những tác phẩm tạo nên tên tuổi của Nguyễn Huy Tưởng. Viết về chủ đề cách mang, vở kịch ca ngợi tinh thần chiến đấu và vai trò của các cán bộ cách mạng trong việc định hướng tư tưởng đấu tranh của nhân dân. Qua đó, tác giả biểu dương tinh thần yêu nước và ý chiến quật cường chiến đấu của quần chúng. Hồi IV của vở kịch là một trong những đoạn nổi bật nhất với tình huống gấp gáp, thể hiện bước ngoặt kịch tính về cả tâm lý nhân vật và diễn biến sự kiện. Tính bi tráng là hơi thở nổi bật của hồi kịch này, được thể hiện qua hình tượng người phụ nữ dân tộc Tày tiêu biểu cho hàng ngàn quần chúng nhân dân đã và đang trên con đường giác ngộ cách mạng.

Tính bi tráng, bi là bi ai, buồn bã, còn tráng là hùng tráng, thể hiện vẻ đẹp lý tưởng. Bi tráng là đau thương, mất mát về một thời quá khứ oai hùng, vừa có tính bi thương, lại không hề kém phần gân guốc, hùng dũng. Trong vở kịch Bắc Sơn, tính bi tráng được thể hiện ở tinh thần cách mạng. bộc lộ qua những nút thắt tâm lý nhân vật và hình tượng nhân vật người phụ nữ đang trên con đường giác ngộ – cô Thơm. Chất anh hùng ca không được miêu tả trực tiếp, nhưng qua những cử chỉ, hành động, lời nói của nhân vật, cái bi tráng được bộc lộ một cách rõ nét và ngày càng có xu hướng tăng tiến.

Hồi năm của vở kịch kể về cảnh Ngọc dẫn Tây truy đuổi hai cán bộ Cách mạng là anh Cửu và giáo Thái. Rơi vào tình huống nguy kịch, hai người chạy trốn vào nhà anh Đốc người quen, ai ngờ lại đúng phải nhà tên Ngọc mới mua được. Cửu rút súng định bắn Thơm, vợ Ngọc vì cho rằng cô cũng là Việt gian nhưng Thái đã kịp ngăn cản vì tin rằng Thơm mang dòng máu yêu nước của cha cô. Đúng lúc ấy, Ngọc ghé qua nhà sau khi đã lùng sục nhà bà Lục bác Chui,… Thơm nhanh trí đẩy hai cán bộ vào buồng và chỉ chỗ trốn, đồng thời tỏ ra bình thản trước mặt Ngọc để hắn không nghi ngờ và nhanh chóng rời đi.

Tính bi tráng của vở kịch nằm ở mặt tình huống. Tình huống kịch tính, căng thẳng và hồi hộp. Thơm mang tiếng là vợ Việt gian, nhưng cô lại là người che giấu, bảo vệ cán bộ Cách mạng. Trái với suy nghĩ “Vợ Việt gian thì cũng là Việt gian” của anh Cửu, đứng trước áp lực Ngọc chuẩn bị vào nhà, tiếng chó săn sủa râm ran, tiếng chân người rầm rập, Thơm lo lắng: “Chết nỗi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không? Làm thế nào bây giờ?”. Bản thân cô thực sự lo lắng, cố gắng tìm cách giúp đỡ hại cán bộ cách mạng. Bị đẩy vào tình huống nguy cấp, Thơm bộc lộ tính cách quyết liệt, khéo léo và có bước ngoặt tâm lý rõ ràng trên con đường giác ngộ Cách mạng. Lời nói như lời thề: “Tôi không bảo hai ông đâu. Tôi chết thì chết, chứ tôi không bảo hai ông đâu” là đỉnh cao của tính bi tráng về mặt tình huống của vở kịch. Cái bi tráng ở đây là chất anh hùng trong sự cùng khổ, trong tình huống khó khăn ngàn cân treo sợi tóc, những con người một lòng vì Cách mạng đã thể hiện tinh thần quả cảm, không đầu hàng trước khó khăn thử thách. “Có lối thông ra ngoài đấy, khép cửa buồng lại”. khép lại tình huống đầy căng thẳng, kịch tính. Vợ một tên Việt gian sừng sỏ đã che giấu, bảo vệ cán bộ Cách mạng cho thấy, Thơm đã hoàn toàn giác ngộ, thể hiện tấm lòng của nhân dân với đường lối của Đảng.

Tính bi tráng cũng thể hiện ở xung đột giữa Thơm và Ngọc. Trong từng hành động và lời nói, Ngọc dần bộc lộ bản mặt bán nước, một tay sai đắc lực cho bọn Tây. Đêm nào hắn cũng đi lùng bắt cán bộ. Hắn được thưởng rất nhiều tiền từ việc làm bất nhân tính của hắn, hắn mơ hàm cửu phẩm, lúc nào cũng nghĩ đến danh tính: “”Chỉ mình là đen, không có danh phận gì, lép vế trong làng quá!”. NGoài ra, hắn còn đặt điều bôi nhọ anh Thái, phá bỏ hình tượng về anh Thái trong mắt Thơm. Với Thơm, anh Thái là người “bỏ cả cửa nhà đi làm cách mạng”, “cả vùng này, có ai ghét ông ấy đâu!”, như Ngọc lại bịa đặt: “mật thám cho Tây đấy “, lúc thì lại bảo anh Cửu và ông Thái là “hai cái thằng tướng cướp. Bắt được hai thằng ấy thì cũng được vài ngàn đồng”. Chính từ những mâu thuẫn về mặt tư tưởng giữa Thơm và Ngọc như vậy đã gây ra những xung đột tâm lí từ phía Thơm.

Khi ông Thái và anh Cửu đang trốn trong buồng nhà Thơm, ở dưới là lí trưởng, bọn tay sai, bọn lính Tây đang lùng sục và cả Ngọc, chồng của Thơm, tình huống này đã thể hiện tính bi tráng điển hình. Ngọc chần chừ trong nhà, nán lại nói chuyện với Thơm, đếm tiền, cười cợt, ngắm vợ, rồi còn thốt lên: “Chắc là nó còn ở đấy, nhất định là nó còn ở đấy!…”. Đứng trước tình huống như vậy, Thơm không tỏ ra sốt ruột dù trong lòng như lửa đốt mà tỏ ra rất nhẹ nhàng, tình cảm, dùng lời nói ngọt ngào:”Mai thì ở nhà mà ngủ cho nó lại sức” thể hiện thái độ ân cần, quan tâm, đồng thời khéo léo thúc đẩy Ngọc đi: “Thế nào có đi không?” lúc nghe tiếng quan gọi. Thơm đóng kịch giỏi hay là vì quá lo lắng cho hai cán bộ mà cô đã dìm nỗi sợ hãi của mình xuống. Qua mắt được tên Việt gian khôn ngoan, mà người đó còn là chồng mình, tác giả đã thể hiện tâm trạng nhân vật đầy tính bi tráng, trong khó khăn, gian khổ nhưng luôn ứng biến kịp thời, lộ rõ chất anh hùng, dũng cảm chảy trong huyết thống.

Tính bi tráng thể hiện rõ nhất qua hình tượng nhân vật Thơm, người phụ nữ hơn sáu chục năm về trước. Vượt qua cảnh ngộ đau thương mất mát, mất cha mẹ, Thơm được con đường cách mạng soi sáng, sẵn sàng hi sinh vì cách mạng. Tinh thần của những nhân vật trong vở kịch giống như tinh thần của những người lính ra trận, sáng chói, quyết tâm. Nhân vật Thơm là một sự thành công của tác giả trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, qua đó thể hiện tính bi tráng của tác phẩm. Trong khổ đau, gian khó, họ vẫn bộc lộ tính thần cao cả, hùng tráng của người con nhân dân trung thực, quả cảm. Tính bi tráng trong hồi IV vở kịch Bắc Sơn được thể hiện qua nhiều khía cạnh, từ nhân vật đến tình huống. Nói về tính bi tráng trong khuôn khổ Vũ Lăng nói riêng hay chính là toàn thể lãnh thổ Việt Nam, những người chiến sĩ nhân dân dũng cảm, không ngại xả thân vì đất nước.

Bằng ngòi bút sắc sảo và cách xây dựng tình huống truyện kịch tính, Nguyễn Huy Tưởng thể hiện sự tin tưởng vào con đường cách mạng – con đường duy nhất để đi tới độc lập dân tộc, đồng thời thể hiện sự thương yêu và trân trọng với những người thật thà, chân phương mà giàu sức sống, giàu lòng quyết chiến quyết thắng.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “nêu Cảm nhận về kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng (1912 -1960)” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 12/2024!