Updated at: 16-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, ngữ văn lớp 9” chuẩn nhất 04/2024.

Dàn ý – Mẫu 1

I. Mở bài:

Giới thiệu về tác giả Chính Hữu, bài thơ Đồng chí.

II. Thân bài:

Phân tích chi tiết tác phẩm và nêu cảm nhận về bài thơ

1. Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính

a. Tình đồng chí của người lính bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân

– Ngay từ những câu thơ mở đầu, tác giả đã lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của anh và tôi – của những người lính cách mạng:

“Quê hương tôi nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”

+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”

+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện

=> Các anh ra đi từ những miền quê nghèo đói, lam lũ – miền biển nước mặn, trung du đồi núi, và gặp gỡ nhau ở tình yêu Tổ quốc lớn lao. Các anh là những người nông dân mặc áo lính – đó là sự đồng cảm về giai cấp.

– Cũng như giọng thơ, ngôn ngữ thơ ở đây là ngôn ngữ của đời sống dân dã, mộc mạc:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

                   Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.

=> Đến từ mọi miền đất nước, vốn là những người xa lạ, các anh đã cùng tập hợp trong một đội ngũ và trở nên thân quen.

b. Cùng chung mục đích, lí tưởng chiến đấu:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

– Điệp từ, hình ảnh sóng đôi mang ý nghĩa tượng trưng => Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng gọi thiêng liêng  của Tổ quốc thân yêu, các anh đã cùng tập hợp dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong đội ngũ chiến đấu để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.

c. Cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn

– Mối tính tri kỉ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng một hìn ảnh cụ thể, giản dị, gợi cảm:“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.

=> Chính trong những ngày gian khó, các anh đã trở thành tri kỉ của nhau,để cùng chung nhau cái giá lạnh mùa đông, chia nhau cái khó khăn trong một cuộc sống đầy gian nan.

– Dòng thơ thứ bảy  trong bài thơ “Đồng chí” là một điểm sáng tạo, một nét độc đáo qua ngòi bút của Chính Hữu:

+ Dòng thơ được tách riêng độc lập, là một câu đặc biệt gồm từ hai âm tiết đi cùng dấu chấm than, ngân vang như tiếng gọi tha thiết, tạo một nút nhấn, lắng lại.

+ Hai tiếng “Đống chí” thật giản dị, đẹp đẽ, là điểm hội tụ, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,tình người trong chiến tranh.

=> Dòng thơ thứ bảy có ý nghĩa như một bản lề gắn kết đoạn đầu và đoạn thứ hai của bài thơ, là điểm nhấn, là mạch cảm xúc chung cho toàn bài. Có thể nói, hai tiếng “Đồng chí” vang lên thật giản dị và mang ý nghĩa vô cùng thiêng liêng trong thơ ca kháng chiến.

2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí

a. Tình đồng chí của người lính Cách mạng được biểu hiện qua sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau:

– Các anh là những người lính gác tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với bao băn khoăn, trăn trở.

– Hai chữ “mặc kệ” => Thái độ dứt khoát của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa:“Anh trai làng quyết đi giết giặc lập công”.

– Hình ảnh “gian nhà không” vừa gợi cái nghèo, cái xơ xác của những miền quê lam lũ, vừa gợi sự trống trải trong lòng người ở lại.

– “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là cách nói tế nhị, giàu sức gợi. Quê hương nhớ người đi lính hay chính những người ra đi luôn nhớ về quê hương. Thủ pháp nhân hóa và hai hình ảnh hoán dụ đã biểu đạt sâu sắc tâm trạng, nỗi niềm của những người lính nơi chiến tuyến. Nhớ về quê hương cũng chính là cách tự vượt lên mình, vượt lên tình riêng vì sự nghiệp chung của đất nước.

b.  Là đồng chí của nhau, họ cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ

 “Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”.

=> Những chi tiết tả thực, hình ảnh sóng đôi đã góp phần tái hiện chân thực những khó khăn, gian khổ của cuộc đời người lính trong buổi đầu kháng chiến. Các anh đã cùng nhau gánh vác, cùng nhau chịu đựng…Chính tình đồng đội đã giúp họ lên cái “buốt giá” của mùa đông chiến đầu để rồi tỏa sáng nụ cười và càng thương nhau hơn.

– Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” có sức gợi nhiều hơn tả với nhịp thơ chảy dài. Đây là cách thể hiện tình cảm rất lính. “Tay nắm lấy bàn tay” để truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng đội, truyền cho nhau sức mạnh của tình đồng chí. Cái nắm tay ấy còn là lời hứa hẹn lập công.

3. Biểu tượng của tình đồng chí

 Tình đồng đội trong bài “Đồng chí” được Chính Hữu thể hiện thật đẹp qua những câu thơ cuối bài:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”.

– Đây là bức tranh đẹp về tình đồng chí, là biểu tượng cao cả về cuộc đời người chiến sĩ.

– Rừng hoang sương muối: gợi sự khốc liệt, khắc nghiệt của thiên nhiên, của chiến tranh.

– “Đầu súng trăng treo”  là hình ảnh rất thực và cũng rất lãng mạn:

+“Súng” và “trăng” – hai hình ảnh tưởng như đối lập song lại thống nhất hòa quyện – là cứng rắn và dịu êm – là gần và xa – là thực tại và mơ mộng – là chất chiến đấu và chất trữ tình – là chiến sĩ và thi sĩ.

+ Hiếm thấy một hình tượng nào vừa đẹp,vừa mang đầy đủ ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu.

+ Đây là một phát hiện, một sáng tạo bất ngờ về vẻ đẹp bình dị và cao cả trong tâm hồn người chiến sĩ. Hình tượng này góp phần nâng cao giá trị bài thơ và trở thành nhan đề cho cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”.

III. Kết bài:

Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật qua đó nếu cảm nhận của em về tác phẩm.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu- Mẫu 1

“Đồng chí” là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.

Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.

Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ, vào sinh tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt” người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Mở đầu bài thơ với giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,

                           Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.

Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ “đôi người xa lạ” rồi “thành đôi tri kỉ”, về sau kết thành “đồng chí”. Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người xa lạ – Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

   “Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

                           Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

          Đồng chí!”

“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; “anh với tôi” cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri kỉ”. “Đôi tri ki” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ “đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành – đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đ-ồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên:

 “Ôi núi thẳm rừng sâu

                           Trung đội đã về đâu

                           Biết chăng chiều mưa mau

                           Nơi đây chăn giá ngắt

                           Nhớ cái rét ban đầu

                           Thấm mối tình Việt Bắc…”

(“Chiều mưa đường số 5” – Thâm Tâm)

Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:

     “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

                           Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,

                           Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.

Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: “Cây đa cũ, bến đò xưa… Gốc đa, giếng nước, sân đình…”, được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?

Hay “người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê huơng đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nén sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ “Bao giờ trở lại”, Hoàng Trung Thông viết:

   “Bấm tay tính buổi anh đi,

                           Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?

                           Lúa xanh xanh ngắt chân đê,

                           Anh đi là để giữ quê quán mình.”

Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,… nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men…. Người lính ra trận “áo vải chân không đi lùng giặc chinh”, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”:

    “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

                           Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

                            Áo anh rách vai

                           Quần tôi có vài mảnh vá

                            Miệng cười buốt giá chân không giày…”

Chữ “biết” trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh… quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao dẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ  được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, “đi tới và làm nên thắng trận”.

Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ – hai đồng chí trong chiến dấu. Họ cùng “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Cảnh tượng chiến trường là rừng hoang sương muối. Và, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng “chờ giặc tới”, hai chiến sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu, một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:

              “Đầu súng trăng treo”.

Người chiến sĩ trên đường ra trận thì “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông “rừng hoang sương muối” thì có “đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. “Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ – Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh “chờ giặc tới”. Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.

Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.

Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tình. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.

“Đồng chí” là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ – người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng. Năm tháng cuộc đời cứ trôi, còn hình ảnh người lính trong những tác phẩm văn chương vẫn vẹn nguyên và tỏa sáng mãi.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu- Mẫu 2

     “Đồng chí”! Ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết quá. Nó biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh chiến sĩ Cụ Hồ từ những năm 1948 của thời kì kháng Pháp. Cảm nhận được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ – người chiến sĩ cách mạng đã xúc động viết bài thơ Đồng chí. Với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.

     Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ của thời kì kháng chiến chín năm. Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc “cuốc cày” ở những vùng quê hẻo lánh khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng những lời thơ thật cảm động:

                           Quê hương anh nước mặn đồng chua

                           Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

                           Anh với tôi đôi người xa lạ

                           Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

      Ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì lạ ở những người chiến sĩ. Đó là sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội ta. Từ những con người rất “xa lạ” trong đời sống lại trở thành những đồng chí rất thân thương trong chiến đấu. Nhà thơ đã chọn lựa những chi tiết, những hình ảnh thơ rất chân thực để gợi tả về cuộc sống của người chiến sĩ. Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Và họ đã gặp nhau từ “xa lạ”. Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai người xa lạ mà là “đôi người xa lạ”. “Đôi” là chỉ hai đối tượng cùng đi với nhau. “Đôi người xa lạ” nghĩa là hai người cùng đi với nhau mà lại là xa lạ. Vì thế ý thơ được nhấn mạnh thêm. Hình ảnh những phương trời xa cách, những con người chẳng hẹn quen nhau nói lên cả một sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng khi tham gia kháng chiến, những con người xa lạ ấy đã cùng nhau chiến đấu, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế, họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng chí”:

                           Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

                           Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

                           Đồng chí!

     Câu thơ vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng “súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Tác giả đã tả thực những giờ phút bên nhau cùng chiến đấu đồng thời hình ảnh ấy còn tượng trưng cho sự nghiệp chiến đấu chung, lí tưởng cách mạng chung của quân đội ta. Câu thơ giúp ta hiểu thêm “đôi người xa lạ” ấy đã nảy nở một tình cảm mới khi họ cùng chiến đấu, cùng một lý tưởng lớn lao. Tình cảm ấy thật thân thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang tuôn liền mạch nhẹ nhàng bỗng bị ngắt nhịp đột ngột. Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ: “Đồng chí” – một tiếng nói thiêng liêng. “ Đồng chí”, một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm. Thế là thành “đồng chí!”.

Tình cảm ấy lại được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề cận bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “ruộng nương anh gởi bạn thân cày”, “gian nhà không, mặc kệ gió lung lay” cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính…”. Từ những lời tâm tình ấy, ta hiểu rằng các anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ. Các anh lại cùng chia ngọt xẻ bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ lại tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc cùng chịu với nhau “từng cơn ớn lạnh”, những lúc “ rét run người vừng trán ướt mồ hôi”. Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu “ áo anh” có “rách vai”, “quần tôi” có “vài mảnh vá”, dẫu trời có “buốt gía” thì miệng vẫn cười tươi. Bằng những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc sống chiến đấu gian khổ và sự gắn bó của tình đồng đội keo sơn. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện hằng cách “nắm lấy bàn tay”, “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất của cải, không phải là những lời hoa mĩ phô trương, những người chiến sĩ hiểu hiện tình đồng chí là “bàn tay nắm lấy bàn tay”. Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng chí. Đoạn thơ với nhiều nét tả thực chi tiết mà không trần trụi, vẫn gợi cảm nhớ hình ảnh “anh với tôi” gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động “thương nhau” nhưng không biết làm sao, chỉ biết lặng lẽ “tay nắm lấy bàn tay”. Chỉ có những con người cùng chung ý chí và lí tưởng cao cả mới có những biểu hiện tình cảm đáng quý như thế.

Mối tình đồng chí lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài thơ:

                           Đêm nay rừng hoang sương muối

                           Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

                           Đầu súng trăng treo.

     Câu thơ vừa tả thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính canh giăc trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng mũi lên trời, có ánh trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang tính chiến đấu lại vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đầy là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí, đang nẩy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.

Toàn bộ bài thơ bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái quát cao. Chính Hữu đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm cách mạng trong quân đội. Ở đây, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực của cuộc sống trong đời thường những người chiến sĩ, không phô trương, không lãng mạn hóa, thi vị hóa. Và chính những nét thực đó tạo nên sự thành công cho tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác về cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong giai đoạn chống Pháp.

     Đồng chí! Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đều lắng lại những cảm xúc dạt dào. Chúng ta đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ nhàng tha thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng chí ta như thấy rõ hình ảnh của ảnh bộ đội Cụ Hồ hiện lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân thương trong những lời thơ của Chính Hữu.

Nguyễn Thị Út

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu- Mẫu 3

       Đồng chí là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc.

       Toàn bộ tứ thơ của Đồng chí phát triển xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật tôi và anh. Ở đây, nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình cũng là những đồng đội thân thiết với mình để nói lên những hoàn cảnh, biểu hiện những tâm trạng, tình cảm của họ.

                           Quê hương anh nước mặn đồng chua

                           Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

       Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan. Những con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mạng giữa những người nông dân “tứ xứ” này cũng được Hồng Nguyên thể hiện một cách hồn nhiên trong phần mở đầu bài Nhớ:

                           Lũ chúng tôi

                           Bọn người tứ xứ

                           Gặp nhau hồi chưa biết chữ

                           Quen nhau từ buổi một, hai

                           Súng bắn chưa quen

                           Quân sự mươi bài

                           Lòng vẫn cười vui kháng chiến

       Từ “đôi người xa lạ” đến “thành đôi tri kỉ”, từ “chẳng hẹn quen nhau” đến “đêm rét chung chăn” đó dường như là sự gặp gỡ, gắn bó tình cờ nhưng thực lại rất tự nhiên và tất nhiên bởi những con người này cùng chiến đấu, hi sinh vì một lí tưởng cao cả. Hai câu thơ mà chứa đựng, liên kết được nhiều hình ảnh sinh động:

                           Súng bên súng, đầu sát bên đầu

                           Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ

       Chính Hữu đã dùng một từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn tả một tình cảm rất mới. Chữ “tri kỉ” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của mối tri kỉ này là tình đồng chí. Chính vì thế, từ “đồng chí” được tác giả được tác giả tách riêng thành một dòng thơ. Đây là chi tiết nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản lề khép mở, nối kết hai phần của bài thơ.

       Có thể xem dòng thơ hết sức ngắn này là một tiếng gọi tha thiết, trang nghiêm từ đáy lòng những người nông dân mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong một quan hệ mới (Sau chữ “đồng chí” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đó, cần trả nó về hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước Cách mạng thành công ở thời kì giác ngộ lí tưởng cộng sản, theo Đảng đoàn kết hi sinh giành quyền độc lập tự do; trong những năm đầu kháng chiến gian nan khi toàn dân đang nhất tề đứng lên theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” ở những năm tháng, những thời đIểm ấy, nghĩa đồng bào, đồng chí thật thiêng liêng và hết sức được trân trọng (Chữ “đồng chí” chúng ta dùng bây giờ hẳn khác). Tính chất thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người nông dân vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mạng giải phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì thế, chúng ta thêm hiểu vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng chí mà không lấy một cái tên khác, chẳng hạn “đồng đội”. Quả thật, chữ “đồng chí” hàm nghĩa cao rộng hơn, mà cũng sâu hơn. Nghĩa đồng chí, một mặt, là cơ sở, là nền tảng; mặt khác, cũng là cốt lõi, là bản chất của tình đồng đội. Về cuối cuộc kháng chiến chín năm, khi chứng kiến chủ nghĩa anh hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm, cụ thể thêm tình đồng đội:

                           Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội

                           Ta mới hiểu thế nào là đồng đội

                           Đồng đội ta

                           Là hớp nước uống chung

                           Nắm cơm bẻ nửa

                           Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa

                           Chia khắp anh em một mẩu tin nhà

                           Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp

                           Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết

                           (Giá từng thước đất)

       Đó là một bước cụ thể hóa tình đồng chí. Còn lúc này (1948)  ở buổi đầu kháng chiến cái cần nhấn mạnh là sự tập hợp, là sự cùng chí hướng trong thử thách gian nan. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành một dòng thơ của từ “đồng chí” mang ý nghĩa ấy.

       Vừa dồn tụ cảm xúc ở sáu dòng thơ trước, dòng thơ chỉ một từ này đồng thời đóng vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các nhân vật trữ tình (tôi và anh) từ “đồng chí” còn như khắc ấn một khái niệm mới mẻ mà cả phần sau của bài thơ là sự vỡ lẽ, sự nhận thức nhau rõ hơn để cảm thông, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng chí  ấy là gửi lại ruộng nương, từ biệt giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” giữ gìn độc lập tự do của đất nước. Đồng chí ấy là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Đồng chí ấy là sự sẻ chia và động viên nhau trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:

                           Áo anh rách vai

                           Quần tôi có vài mảnh vá

                           Miệng cười buốt giá

                           Chân không giày

                           Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

       Tình đồng chí thắm thiết khiến cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ nhất của đời sống. Điều đáng chú ý là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về bạn trước rồi sau dó mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu đến cuối bài Đồng chí, trong cặp nhân vật trữ tình, bao giờ anh cũng xuất hiện trước, cũng đứng trước tôi (Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người xa lạ”. Lần 3: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “qui luật” trên bề mặt ngôn ngữ ấy phải chăng phản ánh một nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỉ trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng cảnh ngộ, cùng nghĩa vụ.

       Nếu đầy đủ thương nhau đã quí. Nhưng càng gian khổ, càng thiếu thốn lại càng thương nhau, ấy mới là điều đáng quí hơn ở những người chiến sĩ cách mạng. Nhịp ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu một chi tiết hết sức cụ thể. Từng chi tiết cô gọn ấy cứ lần lượt khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn tượng rồi để mở ra biết mấy tâm tình, xúc cảm ở câu thơ cuối đoạn được trải dài hơn:

                           Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

       Dường như đây là cao trào của cảm xúc yêu thương trong người chiến sĩ. Thương nhau vô cùng trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng cứng rắn, nghị lực vô cùng bởi cử chỉ ấy chỉ có khi những người chiến sĩ đã ý thức đầy đủ về hoàn cảnh của đất nước kháng chiến, về nghĩa vụ cao cả của mình. Cử chỉ ấy dường như chứa đựng sự tự ý thức, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và dặn dò nhau. Tình cảm không bồng bột mà đằm sâu.

       Chính quá trình nhận thức rõ về tình đồng chí, chính bước phát triển cao của tình yêu thương lẫn nhau như trên đã dẫn đến đoạn kết thúc độc đáo:

                           Đêm nay rừng hoang sương muối

                           Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

                           Đầu súng trăng treo

       Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu đặc điểm không gian và thời gian: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.

       Không phải ngẫu nhiên mà sau này Chính Hữu đặt tên cho một tập thơ của mình là Đầu súng trăng treo. Cũng không phải tự nhiên mà trên nhiều bìa sách, nhiều bức họa sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân thường xuất hiện hình ảnh này. Nhà thơ đã sáng tạo được một hình ảnh thật độc đáo, giàu sức khái quát. Đầu súng  thể hiện của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo  hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự kết hợp tự nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn trong sáng,bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. Chúng ta bền gan chiến đấu, gian khổ hi sinh chính vì vầng trăng ấy, vì cuộc sống thanh bình. Hình ảnh và nhịp điệu thơ này lơ lửng, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có gian khổ nhưng cũng có niềm vui, vừa là thực vừa mang tính biểu tượng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mạng đậm đà thật khó phân tích hết bằng lời.

       Nhanh chóng vượt ra khỏi những cảm xúc lạc lõng buổi đầu, đến Đồng chí, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp một bài thơ xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu như trước đó chưa đầy một năm, anh bộ đội kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với “đôi giầy vạn dặm”, chiếc “áo hào hoa” thì giờ đây anh xuất hiện trong Đồng chí với chiếc áo rách vai, chiếc quần có vài mảnh vá, với đôi chân không giày và với tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, đầy mến thương trong gian khổ. Đồng chí cũng thể hiện rõ phong cách thơ độc đáo của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng chi tiết, từng hình ảnh để vừa cụ thể, vừa giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết tự bên trong.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu- Mẫu 4

Đồng chí là tiếng gọi thân thương tha thiết, biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng Pháp. Cảm nhận được tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ – chiến sĩ đã xúc động viết bài thơ Đồng chí. Với lời thơ chân chất, tràn đầy tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.

Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ. Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc “cuốc cày” ở những vùng quê nghèo khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng lời thơ thật xúc động:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khổ “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Từ “xa lạ” gặp nhau. Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai người xa lạ mà là “đôi người xa lạ”, vì thế ý thơ được nhấn mạnh, mở rộng thêm. “Hai người” cụ thể quá. Đôi người là từng “đôi” một – nhiều người. Trong đơn vị quân đội ấy, ai cũng thế. Hình ảnh những con người chẳng hẹn quen nhau nói lên một sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng khi tham gia kháng chiến, những con người ấy cùng nhau chiến đấu, cùng nhau chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng chí”.

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí”

Tình cảm ấy thật thân thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang liền mạch nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình, bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ Đồng chí lại được tách ra làm câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy tác giả đã làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ Đồng chí – một tiếng nói thiêng liêng. Đồng chí một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm. Thế là thành đồng chí.

Tình cảm ấy lại được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề bên nhau, họ lại kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày”, “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” cả chuyện “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”… Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng: Các anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong họ. Các anh lại cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ lại tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc ướt mồ hôi, cùng chịu với nhau từng cơn ớn lạnh. Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá… dẫu trời có buốt giá thì miệng vẫn cười tươi. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách nắm lấy bàn tay. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất của cải, không phải là những lời hoa mĩ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí là bàn tay nắm lấy bàn tay. Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩ thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng chí:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo

Câu thơ vừa tả cảnh thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính phục kích chờ giặc trong đêm sương muối. Súng hướng mũi lên trời có ánh trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn Vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thật độc đáo gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.

Bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sự khái quát cao, Chính Hữu đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm cách mạng trong quân đội. Ở đây nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực của cuộc sống thực trong đời thường của người chiến sĩ, không phô trương, không lãng mạn hóa, thi vị hóa, chính những nét thực đó tạo nên sự thành công của tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác và cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong thơ thời kì chống Pháp.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu- Mẫu 5

Giữa những năm tháng chiến tranh khốc liệt, dọc những chiến trường đầy lửa đạn bom rơi, tình đồng đội giữa người lính cách mạng vẫn luôn đầm ấm và ngời sáng. Tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu là một trong số những sáng tác thể hiện rõ điều này. Ra đời vào đầu năm 1948 sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bài thơ đã thể hiện một cách sâu sắc tình đồng đội, đồng chí sâu nặng giữa những người lính cách mạng. Qua đó, chúng ta thấy được bức chân dung người lính rất đỗi chân thực, giản dị nhưng hết sức cao đẹp.

Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả Chính Hữu đã nhấn mạnh về sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng, bởi cách gọi “đồng chí” vừa thể hiện tình chiến đấu, vừa ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về tình thân giữa những con người có cùng chung cảnh ngộ, gắn bó keo sơn để cùng đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt. Sự gắn bó máu thịt và hữu cơ giữa những người lính cầm súng được tạo dựng trên cơ sở về cảnh ngộ xuất thân và lí tưởng chiến đấu. Lời thơ giản dị, mộc mạc “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá” cùng giọng thơ thủ thỉ tâm tình đã phác họa cảnh ngộ và hoàn cảnh xuất thân của người lính. Các anh đều là những người nông dân rũ bỏ bùn đất để hội tụ trong đội ngũ kháng chiến và ngày đêm cầm chắc tay súng, và rồi giữa họ có thêm sự gắn kết về lí trí và mục đích chiến đấu cao cả:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”

Mối tình tri kỉ cùng đi qua những khắc nghiệt, khó khăn của cuộc kháng chiến “đêm rét chung chăn” càng tôi luyện hơn nữa ý chí chiến đấu giữa họ, tạo nên một hình tượng độc đáo: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. Sự chan hòa sẻ chia mọi gian lao của họ bỗng đúc kết thành hai tiếng “Đồng chí!” thật đặc biệt và sâu lắng, thể hiện sự kết tinh một tình cảm hết sức đáng quý và đáng trân trọng. Câu thơ trở thành bản lề, là dấu gạch nối để tác giả miêu tả cụ thể về vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí.

Là những người con lên đường ra trận vì tiếng gọi của Tổ quốc, các anh đã để lại sau lưng “ruộng nương”, “Gian nhà không”- những gì thân thương nhất của “nơi chôn rau cắt rốn”. Họ đã chấp nhận hi sinh và dứt khoát đi theo lí tưởng giải phóng dân tộc với một thái độ kiên quyết nhưng những người nông dân ấy vẫn nặng lòng nhớ về quê hương, bởi tình yêu quê hương luôn quyện hòa trong tình yêu đất nước và tạo thành sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi khó khăn, gian lao thử thách ác liệt trên chiến trường:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày”

Bức tranh về hiện thực tàn khốc của chiến tranh đã được tác giả Chính Hữu khắc họa thông qua những nét vẽ về những hiểm nguy về căn bệnh sốt rét và khó khăn thiếu thốn và gian khổ. Giữa những đêm đông gió lạnh nơi “rừng thiêng nước độc”, chỉ với chiếc áo đã rách vai, quần “có vài mảnh vá”, “chân không giày”, những người lính vẫn giữ vững lí tưởng chiến đấu. Hình ảnh của họ bỗng hiện lên đẹp đẽ hơn qua sự sẻ chia, sự cảm thông và tình thương dành cho nhau: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Để mạnh mẽ bước qua những gian khổ, họ đã động viên và truyền cho nhau sức mạnh tình thương bằng hành động “tay nắm lấy bàn tay” đầy xúc động. Hình ảnh đó mang ý nghĩa biểu tượng cho sự kết tinh vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”

Giữa không gian âm u, hoang vắng, lạnh lẽo và đầy hiểm nguy của núi rừng bao la, sương muối giăng kín mọi cành cây kẽ lá, người lính vẫn nắm chắc tay súng để hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu. Họ đứng cạnh nhau để truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng chí trong tư thế sẵn sàng đối mặt với kẻ thù một cách đầy quyết tâm. Và rồi tầm vóc của người lính bỗng trở nên kì vĩ và lớn lao hơn bao giờ hết với hình ảnh biểu tượng “Đầu súng trăng treo”. Người lính bộ đội Cụ Hồ với vũ khí chiến đấu là cây súng cùng vầng trăng cùng quyện hòa đan cài vào nhau trong mối quan hệ độc đáo. Hai hình ảnh “đầu súng” dưới mặt đất – biểu tượng của chiến đấu, của chiến tranh và “trăng” trên bầu trời khuya vắng – biểu tượng của cái đẹp, của thiên nhiên cùng đồng hiện dựa trên sự kết nối qua từ “treo” đầy thú vị. Hiện thực tàn khốc của chiến tranh không thể tiêu diệt tâm hồn lãng mạn cùng niềm vui, tin yêu và lạc quan của những người lính. Hình tượng thơ độc đáo giữa súng và trăng đã tạo nên vẻ đẹp thơ mộng của không gian và vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của tác phẩm.

Như vậy, thông qua ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc cùng những hình ảnh thơ chân thực và giàu sức gợi kết hợp giọng thơ sâu lắng, xúc động, bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng người nông dân – chiến sĩ cách mạng với những phẩm chất của anh bộ đội Cụ Hồ. Đồng thời thể hiện rõ tình cảm giữa những người lính – tình đồng chí đầy thiêng liêng, cao đẹp luôn ngời sáng trong những năm tháng kháng chiến gian lao.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu- Mẫu 6

Văn chương là một bức tranh muôn màu, nó hiện ra dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ được lấy chất liệu từ hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những thứ xa xôi, hào nhoáng để mãn nhãn người đọc mà tiếp cận với người đọc bằng những thứ tình cảm chân thành, những chủ đề gần gũi. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ không chỉ thể hiện tinh thần bất khuất của dân tộc mà nó còn phả một luồng gió mới vào văn chương đương thời. Hòa mình vào không khí ấy, Chính Hữu với “ Đồng chí” như một hiện tượng xuất sắc về đề tài người lính. Cảm nhận bài thơ “ Đồng chí”, Chính Hữu đưa bạn đọc vào thế giới hiện thực nơi núi rừng biên giới tưởng xa lạ nhưng thấm đẫm tình đồng đội bằng thứ văn chương giản dị, mộc mạc.

Không thể phủ nhận rằng, để có được hai chữ “Độc lập Tự do” dân tộc ta đã đánh đổi bằng máu và nước mắt, bằng thanh xuân tươi trẻ của cả một thế hệ qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Từ hiện thực đầy đau thương, mất mát hình ảnh người lính đi vào thơ ca thời thì cách mạng như một tượng đài vĩnh cửu, một nguồn cảm hứng dạt dào, vô tận không bao giờ vơi cạn và góp phần làm nên tên tuổi của nhiều thế hệ các nhà văn, nhà thơ. Và Chính Hữu là một trong số đó.

Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông thường viết về đề tài chiến tranh và người lính bằng thứ ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng. “Đồng chí” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Chính Hữu, được trích trong tập thơ “Đầu súng trăng treo” viết vào đầu mùa xuân năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Bài thơ ca ngợi tình đồng chí cao cả và thiêng liêng, gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của những người nông dân mặc áo lính giữa thời khói lửa.

Với giọng thơ như một cách kể chuyện thủ thỉ, tâm tình cùng Ngòi bút tài hoa, ngôn ngữ giản dị, đầy tính tự nhiên Chính hữu đã đi về với xuất thân để hình thành nên tình đồng chí:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Anh và tôi đều có xuất thân từ những người nông dân chân chất, mộc mạc. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn chất liệu dân gian để nói về quê hương của mình cùng với cấu trúc song hành, đối xứng , Chính Hữu đã thổi hồn vào để cho lời thơ đầy chân thành, chất thơ mộc mạc. Phải chăng sự đồng cảm và hiểu nhau là nhân tố, là bệ phóng cho tình đồng chí?.

“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.

Cùng hoàn cảnh, cùng chung lý tưởng lớn, các anh đã bước chân vào con đường đầy gian nan nhưng cũng rất đỗi hào hùng. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ là một cái duyên để cho các anh gặp gỡ, để cho những trái tim nồng nàn yêu nước có dịp hội tụ, đưa các anh từ những người nông dân chân lấm tay bùn xa lạ, chẳng hề thân quen thành những người bạn tri kỷ:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”

Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Những người nông dân mặc áo lính ấy chiến đấu vì chính mình và sự nghiệp chung của đất nước đã xóa nhòa mọi khoảng cách về không gian, thời gian, địa vị câu thơ: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi thế đứng trong đêm hành quân. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều, không chỉ gần nhau về không gian địa lý mà còn là chung suy nghĩ, chung lý tưởng cách mạng. Tố Hữu cũng đã nói đến tình cảm người lính trong tập thơ Việt Bắc

Thương nhau chia củ sắn lùi
át cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Câu thơ 7, 8 rút ngắn với hai từ “đồng chí” như nghẹn lại như cái choàng vai tin cậy, như một dáng đứng vững chãi thu về một tâm điểm của sức mạnh niềm tin rắn rỏi .Xúc động xen lẫn tự hào khi nói về tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lý tưởng chiến đấu những người nông dân nồng nàn lòng yêu nước, thiết tha mong hai chữ độc lập tự do cho dân tộc. Chính Hữu đã thật tài tình khi sử dụng các từ ngữ như bên, sát, chung, thành đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỷ, tình đồng chí.

Những người lính ra đi có cùng chung xuất thân, hoàn cảnh. Vì vậy nỗi nhớ, động lực của các anh nơi tiền tuyến mưa bom bão đạn đều có chung hai chữ quê hương, từ đó làm thắm đượm thêm tình đồng chí:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính……

Nếu hình ảnh người lính trí thức trong “Tây tiến” của Quang Dũng ra đi từ mảnh đất ngàn năm văn hiến sẽ nhớ về dáng Kiều thơm thì người lính trong thơ Chính Hữu lại nhớ về giếng nước, mái đình, gốc đa. Những chất liệu, hình ảnh dân gian “Cây đa cũ, bến đò xưa… …”, được Chính Hữu sử dụng một cách đầy tinh tế, điêu luyện, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, đong đầy nỗi nhớ quê hương của chàng trai mặc áo lính. Hai nỗi nhớ ở cả tiền tuyến và hậu phương, tình yêu quê hương và sự đồng cảm nơi xuất thân đã làm thắm đượm thêm hai chữ “ Đồng chí” , là nhân tố góp phần làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, thậm chí là đánh cược cả sinh mạng nơi tuyền tuyến mưa bom bão đạn.

Tình đồng chí, đồng đội trong thời kì kháng chiến chống Pháp như một nguồn cảm hứng dồi dào để các nhà thơ, nhà văn chắp bút. Và trong gian khổ, vẻ đẹp của tình người ấy tỏa ra một nguồn sáng hơn bao giờ hết:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Giờ đây, tác giả đã đưa vào câu thơ hàng loạt những chi tiết đầy tính chân thực. Đó là áo rách, quần vá, chân không giày. Câu thơ hiện lên bao sự gian khổ, thiếu thốn về vật chất của những người lính trong cuộc kháng chiến giành độc lập cho dân tộc. Không những thế, nó còn là căn bệnh sốt rét rừng kinh niên mà người lính phải chịu đựng. Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng cũng từng nói đến căn bệnh này

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Nhưng trong cùng khổ, với việc sử dụng thế đối xứng tôi – anh, Chính Hữu đã gợi lên sự đồng cảm, chia sẻ của người lính sát cánh bên nhau:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày..
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Những câu thơ tưởng chừng như là kể, là tả nhưng đến câu thơ “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nó không còn là kể, là tả nữa. Nó có gì đó một chút ngượng ngùng, vụng về trong tình cảm chân thật của người lính Cái hay của tứ thơ là sự lặp lại của những cặp đối xứng so sánh thật hồn nhiên “Tôi – anh”, “Quần – áo”, “Cười buốt giá – Chân không giày”. Hình ảnh người lính- đồng chí được nâng dần lên từ sự gian khó thiếu thốn bao nhiêu thì vẻ đẹp tâm hồn càng được nâng lên bấy nhiêu

Ba câu thơ cuối là một bức tranh đẹp nhất, hoàn hảo nhất về hình ảnh người lính:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo

Trong bức tranh ấy, nổi bật lên trên nền rừng hoang sương muối là sự kết hợp của ba hình ảnh: người lính, khẩu súng và vầng trăng. Nó tạo nên một khung cảnh vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh nơi rừng núi hoang vu, khắc nghiệt của thời tiết khi phải chịu cái rét thấu xương như hàng ngàn mũi dao đâm vào da thịt, khi mà cái chết đang cận kề bên mình người lính vẫn ung dung, bình thản cùng nhau “ chờ giặc tới”. Cách nói của Chính Hữu không chỉ cho ta thấy rõ hơn hoàn cảnh của cuộc chiến mà còn sáng ngời tinh thần chiến đấu của chú bộ đội cụ Hồ. Và trong không gian ấy, nhà thơ đã có một phát hiện rất thi vị:

“Đầu súng trăng treo”.

Đây có lẽ là câu thơ hay nhất, lan tỏa nhất khi viết về anh bộ đội cụ Hồ của Chính Hữu. Lấy chất liệu từ hiện thực, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời trong một đêm khuya tĩnh mịch. Hai hình ảnh mang đầy tính đối lập. Súng là biểu tượng của cuộc chiến đấu gian khổ, hy sinh nơi hiểm trở; trăng là biểu tượng của một sự yên bình – điều mà những người lính đang mong mỏi hướng tới. “Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh đầy thi vị, trong cuộc chiến gian khổ, thậm chí phải hy sinh cả tính mạng của mình cho nền độc lập của Tổ quốc, họ vẫn bình thản, lạc quan, yêu đời. Họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Dù trong rừng hoang sương muối đêm tối và biết bao hiểm nguy, người lính thời kháng chiến chống Pháp vẫn mở rộng tâm hồn để cảm nhận hình ảnh đẹp đẽ của vầng trăng treo trên đầu mũi súng. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh đẹp nhất của Chính Hữu về người lính. Nó có thể coi là một sự đột phá thi ca mang nguồn cảm hứng,vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca cách mạng thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp. Dùng hình ảnh ánh trăng để tô đậm cái tư thế bình tĩnh, chủ động “chờ giặc tới”. Mọi khó khăn, gian khổ, không khí căng thẳng của trận chiến đã lùi xa để nhường chỗ cho vẻ đẹp lung linh, huyền diệu của ánh trăng nơi rừng núi hoang sơ, hiểm trở.

Cảm nhận về bài thơ “Đồng chí”, có thể thấy Chính Hữu đã thổi một luồng gió nhẹ nhàng về tình đồng chí, đồng đội trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đầy gian lao. Với sự kết hợp của bút pháp hiện thực và lãng mạn, ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, sử dụng chất liệu dân gian để làm cho những lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc. Hình ảnh người lính cụ Hồ trong lời thơ của Chính Hữu đã sáng ngời vẻ đẹp của một tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu- Mẫu 7

Bài thơ Đồng chí như là lời nói chuyện tâm tình thủ thỉ của hai người chiến sĩ trong một đêm rét chung chăn. Có hai nhân vật trữ tình là và “tôi” với những nét riêng của từng người và những nét chung của cả hai người. Một điều thú vị là nếu đem thay tất cả những chỗ của “anh” bằng “tôi” (và dĩ nhiên, “tôi” lại được thay bằng “anh”) thì cả về vần lẫn nhịp lẫn nội dung tư tưởng của bài thơ hầu như không thay đổi. Sự hoán vị ấy thực hiện được dễ dàng chính bởi vì “anh” và “tôi” rất giống nhau, vì tác giả không nhằm mục đích nói về nét riêng, nét cá thể, của “anh” và của “tòi”. Cái đích mà tác giả hướng tới là Đồng chí, là gương mặt tinh thần của đội quân cách mạng thời bây giờ. Vì thế mà khi đọc bài thơ, ta thấy có anh, có tôi, có đôi tri kỷ, có người áo rách vai, có người quần vài mảnh vá, có bàn chân không giày.

Những chi tiết thơ rất chọn lọc gợi nhớ ngay về một thời các chiến sĩ vừa rời luống cày, mảnh ruộng “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”. Nhưng bài thơ không hề dừng lại ở những nét bề ngoài của các chiến sĩ qua “anh” qua “tôi”, nhà thơ muốn qui nạp, muốn khái quát lên những nét chung nhất cho quê hương, làng mạc, anh và tôi, dần dần gần gũi nhau, thân thiết nhau, gắn bó với nhau và hòa lẫn trong nhau. Điều này thấy rõ trong cả cấu trúc từng câu thơ và cả đoạn thơ:

Quê hương anh…
Làng tôi…

Sự sóng đôi ở cả hai câu thơ của anh và tôi dẫn đến sự gần gũi “anh với tôi” trong cùng một câu thơ, tiếp đó là đôi người – thành một đôi, nhưng là “đôi người xa lạ” – sau đó mới là “đôi tri kỷ”. Và cuối cùng sau những gắn bó “súng bên súng đầu sát bên đầu” sau những “đôi tri kỉ” là một tình cảm mới mẻ nhất thiêng liêng nhất gắn bó tất cả mọi người ĐỒNG CHÍ. Hai từ “Đồng chí” mới mẻ đó đã như là sự kết tinh, sự tụ hội những gì tốt đẹp và tinh hoa trong tình cảm xã hội của con người. Đồng chí là tri kỷ, nhưng cao hơn tri kỷ, mới hơn tri kỷ vì nó là tình cảm của một đội quân đông đảo những người chân đất áo nâu, nó là tình bạn chiến đấu của những người cách mạng.

Đoạn hai của bài thơ lại quay trở về lại những cái nét riêng, những con người gắn bó với nhau bằng tình đồng chí. Đồng chí được xây dựng từ những con người của mọi miền quê, từ một làng nghèo “đất cày lên sỏi đá” của một vùng trung du hay miền núi, tới một vùng “nước mặn đồng chua” đồng bằng ven biển. Đồng chí được hình thành trong khi kề vai sát cánh “súng bên súng đầu sát bên đầu”.

Đồng chí được thử thách bằng những thiếu thốn, bệnh tật (áo rách vai, quần vá, chân không giày, sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.)

Đồng chí được vun đắp bởi tình cảm hậu phương (giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính). Đoạn thơ tiếp tục những chi tiết khác nhau để làm nổi bật tinh thần đồng chí của những chiến sĩ, một lần nữa “anh” và “tôi” lại hòa lẫn vào gương mặt chung của đồng chí, đồng đội:

Miệng cười buốt giá,

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Những câu thơ không rõ chủ thể này chính là nói về đồng chí – điểm sáng ngời trong tâm hồn các chiến sĩ vô danh. Chỉ một hành động tay nắm lấy bàn tay mà biết bao ý nghĩa. Tình cảm đồng chí là thế đấy, biểu lộ rất mộc mạc, không ồn ào, nhưng lắng sâu thấm thía. Bàn tay nói lời im lặng của sự đoàn kết, sự gắn bó, sự cảm thông, và cả niềm hứa hẹn lập công.

Những dòng thơ cuối cùng như một tượng đài sừng sững cho tình cảm đồng chí thiêng liêng. Trên nền hùng vĩ của thiên nhiên, cánh rừng trải rộng, bầu trời lồng lộng, người chiến sĩ đứng với khẩu súng và vầng trăng. Đây là một hình ảnh thực trong những đêm phục kích của tác giả, nhưng chính tầm cao tư tưởng và lí tưởng chiến đấu của quân đội cách mạng đã tạo cho hình ảnh đó một vẻ đẹp khái quát, tượng trưng.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu- Mẫu 8

Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, ông tham gia quân đội năm 1947 và bắt đầu làm thơ, Chính Hữu viết không nhiều nhưng có vị trí rất xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt Nam, tiêu biểu là bài thơ ” Đồng chí” ra đời năm 1948 sau khi Chính Hữu cùng đồng đội vừa trải qua chiến dịch Việt Bắc thu- đông năm 1947. Bài thơ đã đề cập tới một thứ tình cảm mới mẻ và thiêng liêng của những người lính, anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đó là tình đồng chí.

Bài thơ gồm hai mươi dòng thơ với ngôn ngữ bình dị giọng điệu thủ thỉ tâm tình cảm xúc dồn nén, ” Đồng chí” ca ngợi tình đồng chí gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của người lính anh bộ đội cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi đánh giặc trong những năm đầu gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Đến với bảy câu thơ đầu tác giả lý giải về cơ sở hình thành tình đồng chí, trước hết tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngô xuất thân nghèo khó.

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Hai câu thơ có cấu trúc sóng đôi đối ứng nhau như lời tâm tình, thủ thỉ về quê hương anh bộ đội. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khó là nơi” nước mặn đồng chua”, ” đất cày lên sỏi đá”, mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê nơi chôn rau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị chất thơ mộc mạc đáng yêu như tâm hồn người trai cày đánh giặc.

Chung cảnh ngộ xuất thân những người lính còn chung lý tưởng chiến đấu và độc lập tự do của Tổ Quốc:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

Chính điều đó đã khiến họ từ những người xa lạ trở nên thân quen với nhau và tập hợp trong hàng ngũ quân đội cách mạng.

“Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Đặc biệt tình đồng chí được nảy nở và kết thành bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ gian lao cũng như niềm vui trong cuộc đời người lính.

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Trong những đêm trường gió lạnh, những người lính cùng đắp chung chăn, có thể tâm sự cùng nhau nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, chính vì vậy từ những người xa lạ họ đã trở thành tri kỉ.

Sau sáu câu thơ đầu tác giả hạ một dòng đặc biệt : ” Đồng chí! ” chỉ có 2 chữ và một dấu chấm than nhưng ý nghĩa vô cùng hàm xúc, nó tạo thành một nốt nhấn, nó vang lên như một tiếng gọi tha thiết, xúc động từ đáy lòng, đây là tình cảm được kết tinh từ mọi cảm xúc, là cao độ của tình bạn, tình người, bắt nguồn từ những tình cảm mang tính truyền thống, đồng thời cũng là sự gắn kết của bài thơ.

Mười hai câu thơ tiếp theo là những biểu hiện xúc động của tình đồng chí và sức mạnh của tình cảm ấy ở người lính, tình đồng chí trước hết là sự cảm thông sâu sa tâm tư nỗi lòng của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Căn nhà không mặc kệ gió lung lay”

Khi tấm chăn chung đắp lại, có bao nhiêu tâm sự của người lính được mở ra, họ kể cho nhau nghe chuyện ruộng lương, nhà cửa, người thân… đó là những hình ảnh vô cùng gắn bó với người lính.

Đằng sau thái độ dứt khoát ra đi ấy những người lính vẫn gắn bó với quê hương:

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính

Giếng nước, gốc đa là hình ảnh hoán dụ chỉ những người ở hậu phương, là người mẹ già, người vợ, con thơ đang dõi theo, đang nhớ tới người trai cày ra trận, cũng có thể nói đây là nỗi nhớ của người lính đang ôm ấp hình bóng quê hương, bởi những gì giản dị gần gũi nhất là những thứ dễ gợi nhớ gợi thương nhất.

Những dòng thơ tiếp theo vẫn thể hiện tình đồng chí một cách cảm động, đồng chí đó là cùng nhau chia sẻ những thiếu thốn gian lao của cuộc đời người lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”

Đến đây tác giả đưa vào câu thơ của mình hàng loạt những chi tiết chân thực, đó là chiếc áo rách, quần vá và đôi chân không giày, đó còn là căn bệnh sốt rét rừng kinh niên mà người lính phải chịu đựng. tất cả làm nổi bật không gian thiếu thốn của người lính. Đây cũng là những khó khăn chung của quân và dân ta trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng điều chủ yếu mà Chính Hữu muốn nói ở đây không phải là cái khổ mà là sự hiểu nhau trong cái khổ. Những câu thơ có cấu trúc sóng đôi, đối ứng nhau, cộng với các từ ” tôi” “anh” cùng xuất hiện đã góp phần diễn tả sự chia sẻ, sự giống nhau trong mọi cảnh ngộ của người lính.

Khó khăn gian khổ thế nhưng họ vẫn sáng ngời nụ cười lạc quan” miệng cười buốt giá” và xúc động nhất họ vẫn truyền cho nhau hơi ấm của tình thương ” thương nhau… tay”, hình ảnh nắm lấy bàn tay thật giản dị nhưng vô cùng gợi cảm, nó vừa thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của người lính, vừa gián tiếp nói lên sức mạnh của tình cảm ấy, dường như chỉ bằng một cử chỉ ” tay nắm bàn tay” mà người lính được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi gian khổ.

Ba câu thơ cuối bài thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, là biểu tượng đẹp của cuộc đời người lính:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”

Trong bức tranh, nổi bật trên nền cảnh rừng đêm sương muối giá rét là ba hình ảnh gắn kết với nhau: người lính, khẩu súng, vầng trăng… Ba hình ảnh này đã tạo nên một bức tranh vừa hiện thực vừa lãng mạng, trước hết tính hiện thực được thể hiện ở không gian và tình huống cụ thể, thời gian: đêm nay, không gian: rừng hoang sương muối, còn tình huống là hoàn cảnh những người lính: đứng canh bên nhau chờ giặc tới, tất cả đều thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh, không những phải chịu cái rét thấu xương như hàng ngàn mũi kim trâm vào da, thịt mà cái chết còn dình dập bên mình bởi có thể trong chốc lát nữa thôi quân thù sẽ nổ súng và biết đâu một trong số họ sẽ ngã xuống, nhưng tình đồng đội đã tạo lên sức mạnh giúp họ vượt qua mọi khó khăn gian khổ.

Như vậy, bằng thể thơ tự do với những câu thơ dài ngắn khác nhau, ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh thơ giản ị, chân thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, bài thơ đồng chí của Chính Hữu đã thể hiện một cách xúc động tình đồng chí đồng đội sâu nặng thắm thiết của người lính anh bộ đội cụ hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, họ chính là những con người cao đẹp nhất, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu- Mẫu 9

Đồng chí là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc.

Toàn bộ tứ thơ của Đồng chí phát triển xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật tôi và anh. Ở đây, nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình cũng là những đồng đội thân thiết với mình để nói lên những hoàn cảnh, biểu hiện những tâm trạng, tình cảm của họ.

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan. Những con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mạng giữa những người nông dân “tứ xứ” này cũng được Hồng Nguyên thể hiện một cách hồn nhiên trong phần mở đầu bài Nhớ:

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một, hai
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến…

Từ “đôi người xa lạ” đến “thành đôi tri kỉ”, từ “chẳng hẹn quen nhau” đến “đêm rét chung chăn” đó dường như là sự gặp gỡ, gắn bó tình cờ nhưng thực lại rất tự nhiên và tất nhiên bởi những con người này cùng chiến đấu, hi sinh vì một lí tưởng cao cả. Hai câu thơ mà chứa đựng, liên kết được nhiều hình ảnh sinh động:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ

Chính Hữu đã dùng một từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn tả một tình cảm rất mới. Chữ “tri kỉ” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của mối tri kỉ này là tình đồng chí. Chính vì thế, từ “đồng chí” được tác giả được tác giả tách riêng thành một dòng thơ. Đây là chi tiết nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản lề khép mở, nối kết hai phần của bài thơ.

Có thể xem dòng thơ hết sức ngắn này là một tiếng gọi tha thiết, trang nghiêm từ đáy lòng những người nông dân mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong một quan hệ mới (Sau chữ “đồng chí” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đó, cần trả nó về hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước Cách mạng thành công ở thời kì giác ngộ lí tưởng cộng sản, theo Đảng đoàn kết hi sinh giành quyền độc lập tự do; trong những năm đầu kháng chiến gian nan khi toàn dân đang nhất tề đứng lên theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” ở những năm tháng, những thời đIểm ấy, nghĩa đồng bào, đồng chí thật thiêng liêng và hết sức được trân trọng (Chữ “đồng chí” chúng ta dùng bây giờ hẳn khác). Tính chất thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người nông dân vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mạng giải phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì thế, chúng ta thêm hiểu vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng chí mà không lấy một cái tên khác, chẳng hạn “đồng đội”. Quả thật, chữ “đồng chí” hàm nghĩa cao rộng hơn, mà cũng sâu hơn. Nghĩa đồng chí, một mặt, là cơ sở, là nền tảng; mặt khác, cũng là cốt lõi, là bản chất của tình đồng đội. Về cuối cuộc kháng chiến chín năm, khi chứng kiến chủ nghĩa anh hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm, cụ thể thêm tình đồng đội:

Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội
Đồng đội ta
Là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết…
(Giá từng thước đất)

Đó là một bước cụ thể hóa tình đồng chí. Còn lúc này (1948) ở buổi đầu kháng chiến cái cần nhấn mạnh là sự tập hợp, là sự cùng chí hướng trong thử thách gian nan. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành một dòng thơ của từ “đồng chí” mang ý nghĩa ấy.

Vừa dồn tụ cảm xúc ở sáu dòng thơ trước, dòng thơ chỉ một từ này đồng thời đóng vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các nhân vật trữ tình (tôi và anh) từ “đồng chí” còn như khắc ấn một khái niệm mới mẻ mà cả phần sau của bài thơ là sự vỡ lẽ, sự nhận thức nhau rõ hơn để cảm thông, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng chí ấy là gửi lại ruộng nương, từ biệt giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” giữ gìn độc lập tự do của đất nước. Đồng chí ấy là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Đồng chí ấy là sự sẻ chia và động viên nhau trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Tình đồng chí thắm thiết khiến cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ nhất của đời sống. Điều đáng chú ý là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về bạn trước rồi sau đó mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu đến cuối bài Đồng chí, trong cặp nhân vật trữ tình, bao giờ anh cũng xuất hiện trước, cũng đứng trước tôi (Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người xa lạ”. Lần 3: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “qui luật” trên bề mặt ngôn ngữ ấy phải chăng phản ánh một nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỉ trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng cảnh ngộ, cùng nghĩa vụ.

Nếu đầy đủ thương nhau đã quí. Nhưng càng gian khổ, càng thiếu thốn lại càng thương nhau, ấy mới là điều đáng quí hơn ở những người chiến sĩ cách mạng. Nhịp ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu một chi tiết hết sức cụ thể. Từng chi tiết cô gọn ấy cứ lần lượt khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn tượng rồi để mở ra biết mấy tâm tình, xúc cảm ở câu thơ cuối đoạn được trải dài hơn:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Dường như đây là cao trào của cảm xúc yêu thương trong người chiến sĩ. Thương nhau vô cùng trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng cứng rắn, nghị lực vô cùng bởi cử chỉ ấy chỉ có khi những người chiến sĩ đã ý thức đầy đủ về hoàn cảnh của đất nước kháng chiến, về nghĩa vụ cao cả của mình. Cử chỉ ấy dường như chứa đựng sự tự ý thức, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và dặn dò nhau. Tình cảm không bồng bột mà đằm sâu.

Chính quá trình nhận thức rõ về tình đồng chí, chính bước phát triển cao của tình yêu thương lẫn nhau như trên đã dẫn đến đoạn kết thúc độc đáo:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo

Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu đặc điểm không gian và thời gian: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.

Không phải ngẫu nhiên mà sau này Chính Hữu đặt tên cho một tập thơ của mình là Đầu súng trăng treo. Cũng không phải tự nhiên mà trên nhiều bìa sách, nhiều bức họa sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân thường xuất hiện hình ảnh này. Nhà thơ đã sáng tạo được một hình ảnh thật độc đáo, giàu sức khái quát. Đầu súng thể hiện của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự kết hợp tự nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn trong sáng,bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. Chúng ta bền gan chiến đấu, gian khổ hi sinh chính vì vầng trăng ấy, vì cuộc sống thanh bình. Hình ảnh và nhịp điệu thơ này lơ lửng, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có gian khổ nhưng cũng có niềm vui, vừa là thực vừa mang tính biểu tượng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mạng đậm đà thật khó phân tích hết bằng lời.

Nhanh chóng vượt ra khỏi những cảm xúc lạc lõng buổi đầu, đến Đồng chí, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp một bài thơ xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu như trước đó chưa đầy một năm, anh bộ đội kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với “đôi giày vạn dặm”, chiếc “áo hào hoa” thì giờ đây anh xuất hiện trong Đồng chí với chiếc áo rách vai, chiếc quần có vài mảnh vá, với đôi chân không giày và với tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, đầy mến thương trong gian khổ. Đồng chí cũng thể hiện rõ phong cách thơ độc đáo của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng chi tiết, từng hình ảnh để vừa cụ thể, vừa giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết tự bên trong.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu- Mẫu 10

Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố. Mỗi lần biến động là mỗi lần dân ta sít gần lại nhau hơn, cùng nhau vì mục đích cao cả chung. Đó là những năm tháng hào hùng, khí thế của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu tranh chống Pháp, chống Mĩ vĩ đại. Giữa những đau thương chiến đấu, cuộc chiến còn góp phần đắp xây nên mối quan hệ giữa những người lính với nhau. Cho nên không có gì khó hiểu khi vào năm 1948, tác phẩm ” Đồng Chí” của nhà thơ Chính Hữu lại tạo nên một sự bùng nổ, lan truyền rộng khắp trong giới quân đội. Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong nhữg năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ.

Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã khắc hoạ thành công cái chất hiền lành, tình nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng như tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính nông dân áo vải. Từ moi miền quê trên dải đất quê hương, những con người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ Quốc, cùng họp lại với nhau, trở thành một con người mới: Người Lính. Họ là những người nông dân từ những vùng quê lam lũ đói nghèo, quanh năm chỉ biết đến con trâu mảnh ruộng, các anh giã từ quê hương lên đừơng chiến đấu:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Không hẹn mà nên, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất nước. Từ những người “xa lạ” rồi thành “đôi tri kỉ”, về sau thành “đồng chí”. Câu thơ biến hoá 7,8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người xa lạ-Tự phương trời chẳng hen quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, súng bên súng, chia nhau gian khổ, nguy hiểm, đêm đắp chung một chiếc chăn chịu rét. Đắp chung chăn trỏ thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng ruột thịt. Những cái chung đã biến những con người xa lại thành đôi tri kỉ. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc để làm nên tình bạn, tình đồng chí.

Tấm lòng của họ đối với đất nước thật càm động khi giặc đến các anh đã gửi lại người bạn thân mảnh ruộng chưa cày, mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung lay để ra đi kháng chiến . Bình thường vậy thôi, nhưng nếu không có một tình yêu đất nước sâu nặng không thể có một thái độ ra đi như vậy.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay “

Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: yêu nuớc Tình yêu đất nước, ý thức dân tộc là máu thịt, là cuộc đời họ, bởi vậy, nông dân hay trí thức chỉ mới nghe tiếng đau thương của quê hương, họ sẽ bỏ lại tất cả, cả ruộng nương, xóm làng. Chỉ đến khi ở nơi kháng chiến người lính nông dân áo vải lại trở mình, lòng lại bận tâm lo lắng về mảnh ruộng chưa cày, với căn nhà bị gió lung lay. Nỗi nhớ của các anh là thế: cụ thể nhưng cảm động biết bao. Người lính luôn hiểu rằng nơi quê nhà người mẹ già, ngừơi vợ trẻ cùng đám con thơ đang trông ngóng anh trở về:

“Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.”

Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật, nhưng thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời ông cha gắn với quê hương ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mình.

Cảm nhận về bài thơ “Đồng chí”, có thể thấy Chính Hữu đã thổi một luồng gió nhẹ nhàng về tình đồng chí, đồng đội trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đầy gian lao. Với sự kết hợp của bút pháp hiện thực và lãng mạn, ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, sử dụng chất liệu dân gian để làm cho những lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc. Hình ảnh người lính cụ Hồ trong lời thơ của Chính Hữu đã sáng ngời vẻ đẹp của một tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, ngữ văn lớp 9” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!