Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Bình giảng khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải” chuẩn nhất 11/2024.
Bình giảng khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải- Mẫu 1
Thơ là cái đẹp muôn đời, cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người. Có lẽ mùa xuân là thời gian hội tụ bao vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam nên thơ xuân mới hay và đậm đà như thế. Ta bâng khuâng một nét xuân trong thơ vua Trần Nhân Tông:
Song song đôi bướm trắng
Phấp phới phấn hoa bay.
(Buổi sớm mùa xuân)
Ta cảm một sắc xuân tươi xinh rực rỡ trong thơ của thi hào Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Truyện Kiều)
Ta rạo rực dõi nhìn một cánh đu bay trong ngày hội xuân của làng quê thân thuộc:
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
(Đánh du- Hồ Xuân Hương)
Và đây là thơ xuân của Thanh Hải:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mù vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Có người đã cho rằng: “Đoạn thơ đẹp như bức tranh”. Đó là bức tranh xuân của “Huế đẹp và thơ”, quê mẹ hương yêu của thi sĩ Thanh Hải.
Hai câu thơ đầu là một sắc xuân tươi xinh rực rỡ tắm mát tâm hồn chúng ta. Vần thơ như một tiếng nói thốt lên khi ngạc nhiên chợt thấy một cảnh đẹp mà lòng xôn xao xúc động:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.
Có sông và hoa. Có màu “xanh” của dòng sông làm nền để tô điểm màu “tím biếc” của hoa, bông hoa xuân mới “mục”, mới nở. Dòng sông hiện hữu trong bài thơ Thanh Hải không phải là con sông chung chung nào, mà người đọc dễ nhận ra, đó là sông Hương “bùi thư trữ tình cố đô Huế” như thi sĩ Tố Hữu tâm sự:
Hương Giang ơi, dòng sông êm
Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình…
“Bông hoa tím biếc” mọc giữa dòng sông xanh chỉ có thể là hoa súng, hoa lục bình dân dã mà Lê Anh Xuân từng say mê ngắm nhìn sau những năm dài xa cách mới trở về quê nội:
Hoa lục bình tím củ bờ sông.
Chữ “mọc” nằm đầu câu thơ “Mọc giữa dòng sông xanh” thể hiện một nét xuân đột hiện, một sức xuân mạnh mẽ xuất hiện xinh đẹp, non lơ, lộng lẫy như một nàng xuân trong sắc áo “tím biếc” kiêu sa trên cái nền xanh của dòng sông. Thanh Hải đã sử dụng hai gam màu tươi sáng để vẽ lên một nét xuân đẹp trên bức tranh xuân đẹp.
Ngắm dòng sông, bâng khuâng nhìn hoa xuân đẹp, nhà thơ khẽ reo lên khi bỗng nghe chim hót “vang trời”:
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
“Ơi” là từ cảm thán biểu đạt sự xúc động bồi hồi của nhà thơ khi nghe chim chiền chiện hót. Tiếng chim hót là khúc nhạc đồng quê. Chim chiền chiện làm tổ trên luống cày, nó là người bạn thân thiết của nhà nông. Nghe chiền chiện hót mà mừng vui, chim báo sẽ được mùa: ,”Chiền chiện hót lúa tốt bời bời” (Tục ngữ). Hai tiếng “hót chi” rất gợi cảm, là cách nói “dịu ngọt” của bà con “xứ Huế chúng miềng”. Qua đó, ta thấy nét xuân thứ hai được nhà thơ cảm nhận là một nét vui. Qua tiếng chim hót mà ta cảm được cái mênh mông trong sáng của bầu trời xuân. Ta cảm được tấm lòng hồn hậu của đứa con xứ Huế. Một cử chỉ rất tao nhã đáng yêu:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Không hề nói đến nắng mà ta vẫn cảm nhận được ánh hồng bình minh làm long lanh những giọt sương tròn như hòn ngọc bé tí treo trên đầu ngọn cỏ, lá cây. “Từng giọt long lanh rơi” cũng có thể là những chuỗi âm thanh, từng chuỗi tiếng chim chiền chiện từ trời cao vọng đến, “rơi” xuống? Cái cử chỉ “đưa tay hứng” thể hiện một hồn thơ chan hòa với thiên nhiên, đất ười, tạo vật.
Thơ đích thực mở ra trong lòng người đọc những sắc màu và chân trời bao la. Tiếng chim hót, giọt long lanh trong thơ Thanh Hải cũng vậy, nó mở ra bao thế giới về cảnh sắc ban mai trên đồng quê. Cảnh sắc thân thuộc đáng yêu biết bao:
Mặt trời lên càng tỏ
Bông lúa chín thêm vàng
Sương treo trên đầu cỏ
Sương lại cùng long lanh
Bay vút tận trời xanh
Chiền chiện cao tiếng hót…
(Thăm lúa – Trần Hữu Thung)
Đoạn thơ ngũ ngôn sáu câu ba mươi chữ của Thanh Hải quả là một bức tranh xuân đẹp và tươi vui. Có bầu trời và dòng sông. Có hoa khoe sắc và chim cất tiếng hót. Có giọt sương mai long lanh. Hình ảnh con người xuất hiện trên bức tranh xuân với cử chỉ tao nhã, ung dung, với tâm hồn trong sáng, lạc quan yêu đời và giàu tình yêu thiên nhiên.
Mùa xuân nho nhỏ là một bức thơ xuân kiệt tác của Thanh Hải. Ông viết bài thơ này vào tháng 11 năm 1980, một tháng trước lúc ông qua đời. Có thể nói, đoạn thơ trên đây là khát vọng mùa xuân muôn đời.
Bình giảng khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải- Mẫu 2
Đây cả mùa xuân đã đến rồi
Từng nhà mở cửa đón vui tươi
Từng cô em bé so màu áo
Đôi má hồng lên nhí nhảnh cười.
(Thơ xuân, Nguyễn Bính)
Nếu phải chọn ra ý nghĩa nhân văn nhất của thơ ca trong đời sống thì đó là việc thơ ca đã cống hiến cho cuộc đời này những tiếng lòng đẹp đẽ, những vẻ đẹp trong sáng, đầy cảm xúc trong tâm hồn của các thi nhân. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải xứng đáng mang ý nghĩa cao đẹp ấy. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của cuộc đời.
Bài thơ ra đời năm 1980. Khi đó, Thanh Hải đang nằm viện để điều trị một căn bệnh hiểm nghèo và không lâu sau khi sáng tác bài thơ này, nhà thơ đã vĩnh viễn lìa bỏ những mùa xuân khác nữa của cuộc đời mình. Năm 1980 cũng là năm đất nước đang gặp nhiều khó khăn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Trong hoàn cảnh ấy, bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ra đời đã thể hiện cảm hứng đón nhận thanh sắc, đất trời mùa xuân, cảm nhận đầy tự hào về bước đi lên thanh xuân của đất nước, đồng thời cũng là tâm nguyện dâng hiến sức xuân trong cuộc sống cách mạng của đất nước. Mùa xuân nho nhỏ là tiếng thơ đầy cảm động của nhà thơ.
Bức tranh mùa xuân thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được vẽ bằng vài nét phác hoạ nhưng rất đặc sắc. Không gian cao rộng của bầu trời, chiều rộng dài của dòng sông, màu sắc hài hoà của bông hoa tím biếc và dòng sông xanh – đặc trưng của xứ Huế. Sự rộn rã; tươi vui với tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong ánh sáng xuân lan toả khắp bầu trời như đọng thành “từng giọt long lanh rơi”.
Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời thể hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên: “ơi”, “hót”, “chi”, “mà”. Đặc biệt, cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác vừa thể hiện sự trân trọng, vừa tha thiết, trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh” là những giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những hạt ngọc. Ở đây, “giọt long lanh” cũng có thể được hiểu theo nghĩa ẩn dụ, một nghệ thuật chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng xúc giác “đưa tay hứng”. Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, thể hiện mong muốn hoà vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá lạnh khiến ta vô cùng khâm phục.
Hình ảnh “lộc” xuân theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc sống lao động và chiến đấu, xây dựng và bảo vệ, hai nhiệm vụ không thể tách rời. Họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.
Hình ảnh “mùa xuân người cầm súng, lộc giắt đầy trên lưng” khiến chúng ta liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận mà trên vai, trên lưng họ có cành lá ngụy trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ. Từ “lộc” còn làm cho người ta liên tưởng đến hình ảnh người lính khi ra trận, mang theo sức sống của cả dân tộc. Chính màu xanh ấy đã tiếp cho người lính có thêm sức mạnh, ý chí để họ xông lên phía trước tiêu diệt quân thù. Hình ảnh “mùa xuân người ra đồng, lộc trải dài nương mạ” nói về những người lao động, những người ươm mầm cho sự sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh đồng quê hương. Từ “lộc” cho ta nghĩ tới những cánh đồng trải dài mênh mông với những chồi non mới nhú xanh mướt. Từ “lộc” còn mang sức sống, sức mạnh của con người. Có thể nói, chính con người đã tạo nên sức sống của mùa xuân thiên nhiên, đất nước. Cuối cùng chỉ đọng lại, đan kết lại trong ý thơ:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.
Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận mùa xuân đất nước bằng hai từ láy “hối hả” và “xôn xao”, thể hiện tinh thần và hành động khẩn trương, liên tục không dừng lại. “Xôn xao” khiến ta nghĩ tới những âm thanh liên tiếp vọng về, hoà lẫn với nhau xao động. Đây chính là tâm trạng của tác giả, là sự náo nức trong tâm hồn. Tiếng lòng của tác giả như reo vui, náo nức trước tinh thần lao động khẩn trương của con người. Mùa xuân đất nước được làm nên từ tinh thần hối hả ấy. Sức sống của đất nước, của dân tộc cũng được tạo nên từ sự hối hả, náo nức của người cầm súng, người ra đồng. Như vậy, hình ảnh mùa xuân đất nước đã được mở rộng dần. Đầu tiên, nó chỉ gói gọn trên đôi vai, tấm lưng của người ra trận, rồi cuối cùng được mở rộng thành một cánh đồng bao la.
Nhà thơ tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng của đất nước cho dù trước mắt còn nhiều vất vả, khó khăn. Và đất nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh thật đẹp, mang nhiều ý nghĩa:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
“Sao” là một nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp vĩnh hằng vượt qua mọi không gian và thời gian. Sao cũng là hình ảnh rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc đang tung bay trong gió. Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về một đất nước Việt Nam anh hùng và giàu đẹp. Đất nước mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao giờ mất đi và không một thế lực nào ngăn cản được, nhất định đất nước cũng sẽ toả sáng như những vì sao trong hành trình đến tương lai rực rỡ, đến bến bờ hạnh phúc. Đó là ý chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào, lạc quan của cả dân tộc. Ở câu thơ thứ hai, phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước, vượt qua tất cả mọi khó khăn thử thách. Cảm xúc của nhà thơ là sự lạc quan, tin tưởng, ngợi ca sức sống của quê hương đất nước, của dân tộc khi mùa xuân về.
Từ những cảm xúc về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của mình về lẽ sống, về ý nghĩa, giá trị của cuộc đời mỗi con người:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Làm “con chim hót” giữa muôn ngàn tiếng chim vô tư, cống hiến tiếng hót vui, làm “một cành hoa” giữa vườn xuân rực rỡ, làm “một nốt trầm” giữa bản hoà tấu muôn điệu, làm “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung. Ở phần đầu bài thơ, tác giả đã phác hoạ hình ảnh mùa xuân bằng các chi tiết “bông hoa” và “tiếng chim hót”. Câu từ lặp đi lặp lại như vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Hình ảnh chọn lọc ấy trở lại đã mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên. Điệp từ “ta” như một lời khẳng định. Nó không chỉ là lời tâm niệm thiết tha, chân thành của nhà thơ mà còn đề cập đến một vấn đề lớn là khát vọng chung của nhiều người:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Ước nguyện hoá thân đó vô cùng cháy bỏng, nhưng được tác giả âm thầm, “lặng lẽ dâng cho đời”. “Nho nhỏ”, “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành mà giản dị, là cách sống cao đẹp. Tác giả muốn mỗi người là một mùa xuân nhỏ hoà vào cuộc sống, là ước nguyện sống có ích, được cống hiến cho đời:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.
(Một khúc ca xuân, Tố Hữu)
Mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ đầy sáng tạo độc đáo, cũng là cách thể hiện thiết tha, cảm động. Nó đã khắc sâu ý tưởng:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
(Đất Nước, Nguyễn Khoa Điểm)
Đó không phải là mong muốn trong một khoảnh khắc mà là cả một cuộc đời:
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Điệp từ “dù là” khiến âm điệu câu thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được nhấn mạnh làm cho người đọc không chỉ xúc động trước giọng thơ ấm áp, mà còn bồi hồi trước lời tâm sự thiết tha của một người đã từng trải qua hai cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn cuộc đời và sự nghiệp cho cách mạng, vẫn tha thiết được sống đẹp, sống có ích với tất cả sức sống tươi trẻ của mình cho cuộc đời chung.
Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về miền cát bụi nhưng không gợi chút băn khoăn về bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân. Và một nhịp láy lại của khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm đã góp phần làm tăng giá trị biểu hiện của các khổ thơ trên, đem lại thi vị của xứ Huế mộng mơ, trìu mến mà tha thiết:
Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Bài thơ khép lại trong âm điệu “khúc Nam ai, Nam bình” xứ Huế. Đoạn thơ kết thúc như một khúc hát ca ngợi mùa xuân, để lại dư vị sầu lắng. Nhà thơ muốn hát lên điệu “Nam ai, Nam bình”, điệu dân ca tha thiết xứ Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca nghe như một lời từ biệt để hoà vào cát bụi vĩnh viễn. Nhưng ở đây không phải là lời ca buồn mà ta đã từng nghe:
Anh đi rồi xứ Huế buồn hiu đó anh
Chim xa đàn không còn nghe hót trên cành…
(Huế buồn, Lê Dinh)
mà là “nhịp phách tiền đất Huế” nghe giòn giã, vang xa. “Nước non ngàn dặm mình, nước non ngàn dặm tình” còn ngân nga mãi mãi. Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm mới có thể hát lên trong hoàn cảnh nhà thơ lúc đó (đang ốm nặng và sắp qua đời). Điều đó làm ta càng trân quý tiếng hát và tấm lòng nhà thơ.
Như vậy, bài thơ không chỉ đơn thuần viết về mùa xuân của thiên nhiên, đất trời. Từ tiếng chim chiền chiện tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm một nốt nhạc trầm nhập vào bản hoà ca đất nước, và đến đây là khúc hát tạo ấn tượng một bài ca không dứt, bài thơ đã trở thành bài ca yêu cuộc sống và thể hiện khát vọng cống hiến của tác giả. Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành khúc ca xuân quen thuộc, xúc động, còn mãi với đời. Thể thơ năm chữ gần với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần liền tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc. Hình ảnh tự nhiên, giản dị, giàu ý nghĩa biểu tượng, đặc biệt một số hình ảnh cành hoa, con chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và nâng cao, gây ấn tượng sâu đậm. Câu từ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa xuân đất trời đến mùa xuân đất nước và con người. Giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: ở đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước. Và cuối cùng là trầm lắng, trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm.
cống hiến không mệt mỏi cho đất nước, nhà thơ vẫn khao khát “làm con chim hót”, “làm một cành hoa”, “một nốt trầm xao xuyến”, “một mùa xuân nho nhỏ” để “lặng lẽ dâng cho đời”. Tiếng thơ đã thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ là được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của cuộc đời.
Hơn ba thập niên đã trôi qua từ ngày thi phẩm Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ra đời nhưng chưa một mùa xuân nào đất nước lại thiếu vắng những tiếng thơ ông hoà trong lời nhạc sôi nổi, say mê: “Mùa xuân, mùa xuân, một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời…”. Bài thơ ấy đã, đang và sẽ trở thành bản nhạc lĩnh xướng cho dàn hoà ca đóng góp và dựng xây đất nước của toàn dân tộc.
Kết luận
Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Bình giảng khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.
Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 11/2024!