Updated at: 18-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt” chuẩn nhất 04/2024.

Dàn ý 1 Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

I. Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:

– Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm đẹp và ước mơ tuổi trẻ.

– Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi tác giả là du học sinh Liên Xô.

– Chủ đề bài thơ gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu sâu sắc, thấm thía.

II. Thân bài: Chọn đoạn thơ tiêu biểu và bình giảng, có thể tham khả luận điểm toàn bài sau:

1. Những kỉ niệm tuổi thơ và tình bà cháu

– Dòng hồi tưởng về bà bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa:

+ Bếp lửa “chờn vờn sương sớm” – bếp lửa thực.

+ Bếp lửa “ấp iu nồng đượm” diễn tả sự dịu dàng, ấm áo, kiên nhẫn của người nhóm lửa.

+ Biện pháp điệp từ (điệp từ “bếp lửa”) gợi lên hình ảnh sống động lung linh nhưng hết sức thân thuộc gần gũi với người cháu.

=> Hình ảnh bếp lửa làm trỗi dậy dòng kí ức về bà và tuổi thơ.

– Kỉ niệm về tuổi thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn:

+ “Đói mòn đói mỏi” người cháu thấy ám ảnh bởi nạn đối và quá khứ đau thương của dân tộc.

+ Ấn tượng về khói bếp hun nhèm mắt cháu để khi nghĩ lại “sống mũi còn cay”.

+ Dòng hổi tưởng, kỉ niệm gắn với âm thanh tiếng tu hú của chốn đồng nội: tiếng tu hú được nhắc tới 5 lần trong bài khi thẳng thốt, lúc khắc khoải, mơ hồ tất cả để gợi lên không gian mênh mông, bao la, buồn vắng đến lạnh lùng.

+ Tâm trạng của cháu vì thế cũng tha thiết, mãnh liệt hơn bởi sự đùm bọc, che chở của bà.

– Tuổi thơ khó khăn gian khổ nhưng cháu được mà yêu thương, che chở:

“Bà dạy”, bà chăm” thể hiện sâu đậm tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương vô bờ và sự chăm chút của bà đối với cháu.

+ Ngay cả trong gian khó, hiểm nguy của chiến tranh bà vẫn vững vàng – phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng ( Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh).

→ Qua dòng hồi tưởng về bà, những dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình chính là sự kết hợp, đan xen nhuần nhuyễn giữa các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự, nỗi nhớ của người cháu thể hiện tình yêu thương vô hạn đối với bà.

2. Những suy ngẫm chiêm nghiệm về cuộc đời của bà cũng như hình tượng bếp lửa

* Suy ngẫm về cuộc đời bà

– Từ những kỉ niệm, hình ảnh bếp lửa luôn gắn với hình ảnh người bà

+ Hình ảnh bếp lửa kết tinh trong hình ảnh ngọn lửa: ngọn lửa của tình yêu thương, sự hi sinh luôn ủ sẵn trong lòng bà để làm sáng lên hy vọng, ý chí.

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng

+ Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu, người bà nhen nhóm những điều thiện lương tốt đẹp đối với cháu.

→ Hình ảnh người bà trong lòng cháu là người thắp lửa, giữ lửa và truyền lửa, truyền niềm tin, sức sống tới thế hệ tương lai.

– Sự tần tảo, hi sinh của bà thể hiện: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa” – sự chiêm nghiệm của cháu về cuộc đời bà

+ Cuộc đời bà đầy những gian truân, vất vả, lận đận trải qua nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt.

+ Điệp từ “nhóm” lặp lại bốn lần: người bà đã nhóm lên, khơi dậy những yêu thương, kí ức và giá trị sống tốt đẹp trong lòng người cháu.

– Hình ảnh bếp lửa kết tinh thành hình ảnh ngọn lửa chất chứa niềm tin, hy vọng của bà: Người cháu như phát hiện ra điều kì diệu giữa cuộc sống đời thường “Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa” – người cháu thấm nhuần được tình yêu thương và đức hi sinh của bà.

3. Nỗi nhớ khắc khoải, khôn nguôi về người bà

– Lời tự bạch của đứa cháu khi trưởng thành, xa quê hương: người cháu vẫn cảm thấy ấm áp bởi tình yêu thương vô bờ của bà.

– Kết thúc bài thơ tác giả tự vấn “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”: niềm tin dai dẳng, nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng người cháu.

III. Kết bài:

– Tác giả rất thành công trong việc sáng tạo ra hình tượng mang ý nghĩa thực, mang ý nghĩa biểu tượng: bếp lửa.

– Kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự phù hợp với dòng hồi tưởng và tình cảm của cháu.

– Bài thơ chứa đựng triết lý, ý nghĩa thầm kín: những điều thân thiết của tuổi thơ của mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình cuộc đời, tình yêu thương và lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, quê hương.

Dàn ý 2 Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

1. Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:

– Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm đẹp và ước mơ tuổi trẻ.

– Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi tác giả là du học sinh Liên Xô.

– Chủ đề bài thơ gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu sâu sắc, thấm thía.

2. Thân bài:

Những kỉ niệm tuổi thơ và tình bà cháu

– Dòng hồi tưởng về bà bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa:

+ Bếp lửa “chờn vờn sương sớm” – bếp lửa thực.

+ Bếp lửa “ấp iu nồng đượm” diễn tả sự dịu dàng, ấm áo, kiên nhẫn của người nhóm lửa.

+ Biện pháp điệp từ (điệp từ “bếp lửa”) gợi lên hình ảnh sống động lung linh nhưng hết sức thân thuộc gần gũi với người cháu.

=> Hình ảnh bếp lửa làm trỗi dậy dòng kí ức về bà và tuổi thơ.

– Kỉ niệm về tuổi thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn:

+ “Đói mòn đói mỏi” người cháu thấy ám ảnh bởi nạn đối và quá khứ đau thương của dân tộc.

+ Ấn tượng về khói bếp hun nhèm mắt cháu để khi nghĩ lại “sống mũi còn cay”.

+ Dòng hổi tưởng, kỉ niệm gắn với âm thanh tiếng tu hú của chốn đồng nội: tiếng tu hú được nhắc tới 5 lần trong bài khi thẳng thốt, lúc khắc khoải, mơ hồ tất cả để gợi lên không gian mênh mông, bao la, buồn vắng đến lạnh lùng.

+ Tâm trạng của cháu vì thế cũng tha thiết, mãnh liệt hơn bởi sự đùm bọc, che chở của bà.

– Tuổi thơ khó khăn gian khổ nhưng cháu được mà yêu thương, che chở:

+ “Bà dạy”, bà chăm” thể hiện sâu đậm tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương vô bờ và sự chăm chút của bà đối với cháu.

+ Ngay cả trong gian khó, hiểm nguy của chiến tranh bà vẫn vững vàng – phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng ( Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh).

→ Qua dòng hồi tưởng về bà, những dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình chính là sự kết hợp, đan xen nhuần nhuyễn giữa các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự, nỗi nhớ của người cháu thể hiện tình yêu thương vô hạn đối với bà.

3. Kết bài:

– Tác giả rất thành công trong việc sáng tạo ra hình tượng mang ý nghĩa thực, mang ý nghĩa biểu tượng: bếp lửa.

– Kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự phù hợp với dòng hồi tưởng và tình cảm của cháu.

Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt- Mẫu 1

       Bài thơ viết ra đã được mười năm. Bằng Việt bây giờ đã là tác giả được nhiều bạn đọc yêu mến. Tôi muốn nhớ lại hồi đầu được đọc thơ anh, như đứng trước một cành tơ trĩu quả cứ muốn nhớ đến hương, đến vị của quả bói ngon ngọt đầu mùa. Năm đó là năm 1964, vào một buổi chiều tháng 4, tôi và Hoàng Hưng nằm trên sân cỏ trường Đại học Sư phạm Hà Nội đọc bài thơ Bếp lửa của anh, rồi hai đứa xuýt xoa mãi. Trong phong trào thơ trẻ hãy còn mỏng hồi đó mà nổi lên một tiếng thơ độc đáo của Nguyễn Mỹ và nổi lên một tiếng thơ tâm tình của Bằng Việt thì thật đáng quý.

       Thơ của cái thuở ban đầu thường là nồng, nồng đến vụng dại. Ấy thế mà bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt thì lại đậm, đậm của thơ trẻ tạo ra một nét duyên riêng dễ thương lạ. Đứng trong dàn đồng ca thơ trẻ, thơ Bằng Việt như một giọng trầm với gam thứ (như rê thứ chẳng hạn) tha thiết và đượm buồn, cả hai đều chân thành và trong sáng. Có thể là bài thơ còn thiếu cái này cái nọ, nhưng phải thừa nhận rằng Bếp lửa là tiếng thơ của một tấm lòng có cội nguồn, chứ không chơi vơi, nửa vời, của một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, phong phú và mới mẻ. Nếu tôi không nhầm thì anh có chịu ảnh hưởng phong cách của một vài nhà văn tình cảm hiện đại châu Âu. Những nét tinh hoa của phong cách một vài nhà văn đó đi qua tâm hồn tình nghĩa của anh, bồi cho hồn thơ anh thêm thắm thiết, da diết. Xin nói vào thơ cho có chứng cứ. Dễ thường đã ngoài hai mươi năm, với một khoảng cách không gian hàng vạn dặm, lại giữa nơi phù hoa mà anh vẫn nhớ về một bếp lửa của tuổi thơ, nhớ rành rọt, nhớ ngọn ngành. Không dễ gì mà biết nhớ như vậy. Anh đã thổi hừng lên hết thảy những bếp lửa “ấp iu nồng đượm” trong ký ức của mỗi chúng ta. Và cả mối tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích của anh cũng như riêng của tuổi nhỏ chúng mình. Trong thơ ta còn có mối tình bà cháu nào cảm động hơn? Mối tình bà cháu như một dòng sông, dòng sông êm đềm và trong vắt, một dòng sông chở đầy kỷ niệm. Một bếp lửa và một làn sương sớm. Tiếng tu hú và giọng kể chuyện của bà. Rồi những ngày cha mẹ đi công tác xa. Rồi cháu làm, cháu học với bà… Và những kỉ niệm này xin để nguyên khối, không dám lược:

                                 Lên bốn tuổi cháu đã  quen mùi khói

                                 Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

                                 Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

                                 Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

                                 Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

       “Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu”, anh nói thế tôi cũng thấy cay nơi sống mũi.

       Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình, ầm ĩ, thầm thì, triền miên như nỗi nhớ! Dòng sông êm đềm và trong vắt vẫn âm thầm chảy. Chúng ta được đi dạo trên chiếc thuyền thơ với một tay lái khoan thai, chúng ta đang say mê với những kỷ niệm thì thấy biển cả hiện ra trước mặt! Dòng sông của tình bà cháu đã đổ vào biển cả của tình yêu nước. Biển yên sóng lặng thôi, nhưng cũng bát ngát và sâu thẳm:

                                 Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

                                 Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

                                 Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

                                 Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

                                 “Bố ở chiến khu. bố còn việc bố,

                                 Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

                                 Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”

                                 Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen…

       Mấy câu thơ chẳng có gì là hình là nhạc cả, kỹ xảo cũng không, như lời nói thường thôi. Như tôi được nghe chính lời bà ngoại của mình mà như có một thứ gió lạ kỳ lay động tâm hồn ta mãi. Và chính ánh sáng của bếp lửa đã từng rọi vào tâm hồn thơ bé của đứa cháu, nhóm dậy, “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Nhịp thơ trở nên xôn xao như sự sống sinh sôi, như cây con xòe lá, như chim non chớp cánh. Rồi đứa cháu lớn vụt lên, bay bổng:

                                 Giờ cháu đã đi xa.

                                 Có ngọn khói trăm tàu

                                 Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

                                 Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

                                 – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…

Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt- Mẫu 2

Thương bà cháu nhớ ngày xưa
Dãi dầu cuối chợ nắng mưa sáng chiều
Biển đời đơn độc mái chèo
Thuyền bà chống đỡ trăm chiều bão giông.

(Bà ơi, Phạm Trung Dũng)

Bà ơi! Thế là mùa đông năm nay, mùa đông đầu tiên trong đời cháu phải xa bà. Nhớ nao lòng những mùa đông, những ngày tháng còn ở bên bà. Cháu đã tự hỏi rằng, có phải trong hành trình dài của cuộc đời mỗi người có những ngày tháng, những kỉ niệm và những con người mà ta không thể nào quên được? Mùa đông nơi xứ người với những giấc ngủ ấm áp, đẹp như trong những câu chuyện cổ của An-đéc-xen, nhưng không thể bằng câu chuyện đẹp ấm áp tình yêu thương của bà dành cho cháu. Cháu nhớ bếp lửa ấp iu nồng đượm quá, bà ơi! Chỉ là một bếp lửa chờn vờn sương sớm… mà sao tha thiết nghĩa tình thế, mà sao lắng sâu đến thế! Thì ra; có khi những điều nhỏ nhoi, giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tình, chắt đọng những điều thiêng liêng; lại hiện hình lên những tình cảm thiết tha, chân thành không thể nào quên. Bà ơi! Chỉ là một “bếp lửa” nhỏ đơn sơ thôi mà sao đọng lại trong lòng cháu những dư vị ngọt ngào đến vậy?

Bằng những vần thơ theo dòng hồi tưởng, gợi nhớ về tuổi thơ của đứa cháu xa nhà; bài thơ Bếp lửa đã ca ngợi đức hi sinh, sự tần tảo và tình thương bao la của bà, đồng thời thể hiện lòng kính yêu và biết ơn tha thiết của cháu đối với bà. Ra đời vào năm 1963, bài thơ Bếp lửa đã tái hiện chân thực một khoảng kí ức tuổi thơ của người cháu bên bà của mình. Tuổi thơ của người cháu gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa ấp iu nồng đượm, khiến mỗi khi nhớ về bà, người cháu lại có những cảm xúc vô cùng yêu thương, xen lẫn cảm phục người bà của mình. Bài thơ không chỉ nói lên tình cảm của người cháu dành cho bà mà còn khẳng định bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm cả một đời người.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa, khơi gợi cho người cháu nhớ về người bà yêu thương và đáng kính:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh “bếp lửa” trong màn sương sớm đã được khắc họa giản dị nhưng rõ nét và sống động qua ba câu thơ. Bếp lửa có lúc sáng mãnh liệt; có lúc chập chờn, không định hình; đã trở thành hình ảnh gần gũi và quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân Việt Nam. Đó không chỉ là nơi để đun nấu mà còn là nơi sum họp, ghi dấu những niềm vui; nỗi buồn của mọi gia đình. Điệp ngữ “một bếp lửa” cùng với các từ láy “chờn vờn”; “ấp iu” đã gợi nên sự ấm áp, đầy tình thương yêu như tấm lòng bà. Từ “ấp iu” gợi sự khéo léo của bàn tay bà khi bà nhóm bếp lửa, tấm lòng yêu thương, chi chút của bà đến con cháu. Trong hồi tưởng của cháu, hình ảnh người bà luôn hiện diện cùng bếp lửa qua bao năm tháng. Hình ảnh của bà hiện lên một cách nhẹ nhàng nhưng vô cùng đẹp đẽ trong trái tim người cháu, bà vẫn luôn nhóm bếp lửa mỗi sớm, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời.

Hình ảnh “bếp lửa” là biểu hiện cụ thể và sinh động về sự tần tảo, chăm sóc và yêu thương của người bà đối với con cháu trong mọi hoàn cảnh khó khăn, gian khổ. Trước sự hi sinh của bà, người cháu luôn “thương bà biết mấy nắng mưa”. Từ đó làm bật lên tình cảm sâu nặng của người cháu một cách thật tự nhiên, không thể tả xiết vì những “nắng mưa”, khó nhọc, vất vả của cuộc đời bà. Từ “thương” diễn đạt rất chân thật mà giản dị, không chút hoa mĩ tấm lòng yêu mến bà của cháu.

Từ tình yêu thương và nỗi nhớ da diết, người cháu đã nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ được sống bên bà:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy.

Những vần thơ nhẹ nhàng như lời kể lại những năm tháng thơ ấu đầy gian khổ của cháu với bóng đêm của nạn đói năm 1945. Khi nhớ về những ngày thơ ấu gian khổ bên bà, người cháu nhớ về năm đói kém đã sống trong sự cưu mang; tình yêu thương sâu đậm của bà khi bố phải đi “đánh xe”, để cháu lại quê nhà cho bà chăm bẵm. Cụm từ “đói mòn đói mỏi” đã diễn tả chân thật những cực khổ của hai bà cháu trong thời kì đó. Hình ảnh “bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy” đã cho thấy cái đáng sợ của giặc đói, tình cảnh cực khổ của nhân dân ta dưới thời kì đó:

Con đói lả ôm lưng mẹ khóc

Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi

Kiếp người cơm vãi, cơm rơi

Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi!

{Ba mươi năm đời ta có Đảng, Tố Hữu)

Thời gian đã đi qua nhưng kí ức tuổi thơ và tình cảm đậm sâu của tình bà trong cháu vẫn vẹn nguyên:

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Người cháu vẫn như cảm nhận được mùi khói vẫn còn cay nồng nơi sống mũi, mùi khói “hun nhèm” cả kí ức tuổi thơ, chân thực và mang đầy nghĩa tình sâu nặng. Sự xúc động lan toả trong tâm hồn người cháu không chỉ vì khói cay của rơm rạ, củi bị ướt sương mà còn là khói bom đạn, là khó khăn thiếu thốn trong chiến tranh và tình yêu thương con cháu da diết của bà. Câu thơ đã thể hiện rất chân thực và xúc động niềm thổn thức của người cháu khi nhớ về những năm tháng tuổi thơ bên bà kính yêu. Với những chi tiết và ngôn từ giản dị, chân thực, đoạn thơ đã thấm đượm bao tình cảm sâu nặng của người cháu với bà của mình.

Lội ngược dòng thời gian từ trong màn sương khói mờ mịt của thời thơ ấU; tác giả tiếp tục đắm mình trong những hồi tưởng về tuổi thơ khi ở cạnh bà:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở

Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Đoạn thơ như đang kể về một câu chuyện cổ tích nhưng lại làm hiện rõ những năm tháng khó nhọc cháu lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của bà. “Tám năm ròng” kháng chiến đầy vất vả gian lao nhưng đối với tác giả, đó là một khoảng thời gian thật đẹp, thật sâu sắc, vui buồn cùng bà bên bếp lửa. Từ bếp lửa nhỏ bé thân thương, tuổi thơ cháu trải dài trên “những cánh đồng xa” với tiếng chim tu hú vang vọng, gợi lại trong tâm hồn người cháu bao kỉ niệm khó quên về người bà, về bếp lửa. Từ đó, gợi lên khoảng thời gian cháu đã bắt đầu tự lập, nhóm lên ngọn lửa tình cảm thắm nồng mà bà dành cho trong tim cháu. Tiếng chim tu hú lúc vang vọng lúc mơ hồ, khi lại gần gũi, xót xa như giục giã, như khắc khoải gợi về miền thương nhớ, gợi về quê hương nơi có người bà giàu tình yêu thương. Từ đó cho thấy tình cảnh vắng vẻ, cô quạnh và nỗi mong nhớ cha mẹ của người cháu. Nhà thơ đang kể, bất chợt quay sang tâm sự “bà còn nhớ không bà?” để nhớ về những câu chuyện bà hay kể, nhớ những việc làm tận tụy, đầy yêu thương của bà dành cho cháu.

Âm thanh đồng quê gần gũi và bình dị của tiếng tu hú tha thiết như lời nói từ tấm lòng của cháu, tiếng quen thuộc đọng lại qua những lần bà “kể chuyện những ngày ở Huế”. Bằng nét thơ sáng tạo, người cháu đã thể hiện tình cảm của mình dành cho bà khi tâm sự chân thành với những tiếng chim tu hú bình dị trên những cánh đồng xa. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỉ niệm có chiều sâu khiến cho nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi.

Từ trong miền kí ức của mình, tác giả chẳng thể nào quên được dù bao nhiêu mùa tu hú đi qua thì bà vẫn luôn tảo tần chăm sóc cháu:

Mẹ cùng cha công tác hận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.

Những lời thơ bình dị đã thể hiện chân thật sự tận tình chăm sóc cháu của bà khi “Mẹ cùng cha công tác bận không về”. Tình thương của bà đối với cháu to lớn như biển trời bao la, bà đảm nhận vai trò của một người cha, một người mẹ và một người thầy. Bà chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến cả việc học hành. Bà dạy cho cháu những bài học làm người, chăm chút cho cháu dẫu vẫn phải vất vả lo toan bao điều. Từ “bà” được lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc “bà – cháu” sóng đôi gợi lên tình cảm gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Hình ảnh “nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc” mang đầy màu sắc trẻ thơ vô cùng đẹp đẽ, giản dị mà hàm súc. Hình ảnh ấy cho thấy cháu đã hiểu được những khó khăn của bà và yêu thương bà mình, ngày ngày giúp bà “nhóm bếp lửa” đỡ đần phần nào công việc của bà.

Tâm hồn cháu lúc này chỉ còn ngập tràn niềm yêu thương với bà. Cháu trách những chú chim tu hú:

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Bằng lời thơ tha thiết và trầm buồn, cháu như đang trách cứ những chú tu hú bay ngoài đổng xa không đến ở cùng bà để bà đỡ cô quạnh, buồn tủi hay tác giả đang trách chính bản thân mình vô tâm? Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm thương yêu, xót xa của tác giả trước nỗi cô đơn và sự vất vả của bà.

Những dòng kỉ niệm của năm tháng cũ như những thước phim quay chậm về cuộc sống của hai bà cháu trong chiến tranh gian khổ:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi… Trong hoàn cảnh ấy, người bà hiện lên thật đẹp với đức hi sinh cao cả. Từ “lầm lụi” thể hiện hình ảnh người bà cũng như bao người hàng xóm lặng lẽ sớm hôm muốn chia sẻ, gánh vác cùng con cháu những vất vả, lo toan. Gian khổ là thế nhưng có được sự giúp đỡ của hàng xóm, tình cảm của những người cùng cảnh ngộ, hai bà cháu đã dựng lại được túp lều tranh.

Ở bên bà, cháu thấy được những đức tính cao đẹp của bà. Bà vẫn chịu thương chịu khó cặm cụi vì không muốn con mình lo lắng:

Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Chiến tranh gian khổ nhưng bà luôn “vững lòng”, chính phẩm chất cao đẹp ấy đã làm cho cháu luôn tự hào khi nhớ về bà. Lời dặn của bà chân thật và cảm động, chan chứa bao ý nghĩa từ tấm lòng bà. Qua đó không chỉ thể hiện tình yêu thương con cháu của bà mà còn để cao phẩm chất cao quý, đức hi sinh, nhẫn nại của những người phụ nữ Việt Nam để yên lòng người nơi chiến tuyến. Trong ý thơ còn hàm chứa cả lòng khâm phục và kính trọng mà cháu dành cho bà, như tình cảm hướng về Tổ quốc, về những người thân yêu.

Từ bếp lửa thân thương như bao bếp lửa của gia đình Việt, cháu nghĩ đến ngọn lửa thắp sáng của người bà kính yêu:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Ba câu thơ như một nốt nhấn, một điệp khúc khó quên trong bản tình ca về bà cháu đầy thiêng liêng và cao quý. Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ. Giữa những mất mát đau thương, bà vẫn ngày ngày nhóm bếp lửa, chất chứa bao nét đẹp ý nghĩa, sự tinh tế, bình dị đơn sơ và tình yêu thương của cháu với bà. “Rồi sớm rồi chiều” bà vẫn nhen lên ngọn lửa như nhen nhóm lên trong lòng người cháu một tình cảm rộng lớn, ấp ủ bằng tình thương bao la, dạt dào suốt cuộc đời. “Bếp lửa” của tình yêu gia đình, quê hương giờ đây đã trở thành một “ngọn lửa” mang đậm giá trị biểu tượng, bếp lửa ấy được bà “nhen” lên từ ngọn lửa trong lòng bà. Ngọn lửa ấy là ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin vào kháng chiến, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa hồng soi sáng con đường cháu đi. Hình ảnh người bà hiện lên tuy mộc mạc nhưng thật rực rỡ, bà luôn cần cù, chắt chiu, giàu nghị lực và đức hi sinh cao cả như bao người phụ nữ Việt Nam trong cuộc kháng chiến.

Đi qua những hồi ức năm tháng của tuổi thơ, giờ đây, tác giả chợt suy ngẫm về cuộc đời bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” được lặp lại từ khổ một như điểm nhấn nói về rất nhiều “lận đận”, nhiều “nắng mưa” trong cuộc đời bà. Thế nhưng, bà vẫn luôn âm thầm chịu đựng, cần mẫn và chu đáo chăm lo cho con cháu của mình. Dù đã “mấy chục năm” đi qua gian khổ, nhọc nhằn nhưng bà vẫn giữ “thói quen dậy sớm”, tần tảo, chịu thương chịu khó tưởng như không bao giờ dứt. Cháu vẫn thương mãi thói quen của bà, thương bà nhóm bếp lửa suốt cả cuộc đời. Bà đã nhóm lửa bằng cả lòng đôn hậu để những vần thơ của cháu thấm đẫm tình cảm sâu nặng và lòng biết ơn sâu sắc.

Chiến tranh đã đi qua, nhưng bà ngày ngày vẫn:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần mang bốn nghĩa khác nhau, vang lên theo từng cung bậc tình cảm lớn dần, toả sáng dần nét “kì lạ”, thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà. Đó như là một lời khẳng định bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa yêu thương bằng đức hi sinh cao cả, thể hiện niềm xúc động thiết tha, kết lại trong miền kí ức của người cháu. Bà “nhóm tình yêu thương khoai sắn ngọt bùi”, dạy cho cháu tình yêu xóm làng, yêu mảnh đất quê hương nghèo khổ, bà “nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”, dạy cho cháu biết yêu thương, san sẻ với mọi người. Cuối cùng, người bà kì diệu ấy “nhóm dậy”, thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu cả về tâm hồn và cách sống, bà còn là người truyền lửa và giữ cho ngọn lửa ấy cháy sáng trong lòng mọi người.

Âm điệu thơ dạt dào như những con sóng, giàu sức lan toả như đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim nhà thơ. Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương về bà. Câu thơ “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa” bộc lộ rõ nhất thái độ kính trọng và cảm xúc đang ào ạt trong tâm hồn người cháu. Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà. Cách ngắt nhịp là một dấu gạch ngang đầy nghệ thuật, chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ không thể diễn tả hết bằng ngôn từ.

Chính tấm lòng yêu thương của bà đã khiến cho cháu không thể nào quên đi những năm tháng ấu thơ, dù cháu đã trưởng thành:

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…

Đoạn thơ đã đúc kết thật đằm thắm lòng thương nhớ, kính yêu và biết ơn bà sâu sắc của tác giả. Bao năm dài đằng đẵng, đứa cháu giờ đã khôn lớn, sống trong một khung cảnh mới, một cuộc đời mới đầy đủ và ấm no nhưng chẳng thể nào nguôi nhớ về bà. Đặc biệt, câu hỏi tu từ “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” cho thấy người cháu chẳng thể quên được bếp lửa thân thương của bà. Câu hỏi khép lại bài thơ có sức ám ảnh day dứt như tình cảm người cháu luôn nhớ về bà, nhớ về bếp lửa quê hương.

Bằng những lời thơ trong sáng, bình dị và giàu chất trữ tình, âm điệu thơ sâu lắng, bài thơ mang triết lí sâu xa, thầm kín. Một trong những thành công của tác giả là kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự, bình luận và sự sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với người bà.

Qua những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu, bài thơ Bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước. Bếp lửa là một bài học đạo lí tha thiết. Bài thơ nhắc nhở ta về lối sống thuỷ chung ân nghĩa, về lòng biết ơn, cách cư xử với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc.

Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt- Mẫu 3

Thuở ấu thơ, lớn lên trong chốn làng quê nghèo khó, thường lưu lại trong lòng mỗi đứa trẻ nhiều kỷ niệm khó quên. Đó có thể là gốc đa, giếng nước, hay những hôm đợi mẹ, đợi bà đi chợ về cho cái kẹo bột, cái bánh rán phủ đường. Đặc biệt đối với những con người phải xa quê hương, xa gia đình thì nỗi nhớ mong về quá khứ lại càng sâu sắc hơn cả. Trong trái tim người đi xa lúc nào cũng có một nỗi niềm mong nhớ về quê cũ, như trong Bếp lửa ấy là nỗi nhớ bà và bếp lửa hồng hồng ấm áp bà nhen mỗi sớm chiều.

Bằng Việt sinh năm 1941, quê ở Hà Tây (Hà Nội ngày nay), ông là một trong những nhà thơ trẻ trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Phong cách thơ ông giàu tính suy tưởng, triết lý, trong sáng và gắn liền với tuổi trẻ, đặc biệt là tầng lớp sinh viên.

Bếp lửa được sáng tác vào năm 1963, khi Bằng Việt còn là lưu học sinh đang du học tại Liên Xô cũ. Trong cái nỗi nhớ thương về người bà đã nuôi nấng mình từ thuở ấu thơ, Bằng Việt đã vết bài thơ để thể hiện những ân tình, ân nghĩa sâu nặng. Trước hết là đối với người bà tần tảo, lam lũ giàu đức hi sinh vô cùng thiêng liêng cao cả của mình, đồng thời thể hiện lòng yêu thiết tha đối với cội nguồn, đối với quá khứ, với quê hương đất nước, với gia đình và làng xóm của mình. Bài thơ được in trong tập Hương cây – Bếp lửa, tập thơ in chung với Lưu Quang Vũ, xuất bản năm 1968.

Toàn bộ tác phẩm là thế gới của kỷ niệm, là những dòng hồi tưởng thiết tha của Bằng Việt về tuổi ấu thơ của mình, về hình ảnh người bà thân yêu bên cạnh bếp lửa.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa, đây là hình ảnh khơi nguồn nên mạch cảm xúc củ tác giả, là hình ảnh trung tâm gắn liền với hình ảnh người bà thân yêu của nhà thơ. Tuy được viết trong hiện tại, nhưng hình ảnh bếp lửa ở đây là hình ảnh trong quá khứ, trong những năm tháng của tuổi ấu thơ hiện về, đang sống dậy đang tỏa sáng lung linh trong tâm hồn của tác giả. Từ láy “chờn vờn”, gợi được hình ảnh của một ngọn lửa đang nhảy nhót, vui mừng trong sương sớm, lại cũng vừa thể hiện được cái hình ảnh bếp lửa in đậm trong nỗi nhớ khôn nguôi của đứa cháu, nỗi nhớ da diết về bà. “Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” nó thể hiện được cái khéo léo, kiên nhẫn, cái tháo vát đảm đang tần tỏa của người bà, phải nhen ngọn lửa lên từ khi còn rất nhỏ, chăm chút, che chắn từng ngọn gió, ấp ủ bằng tất cả tấm lòng để nó được “nồng đượm” trong sương sớm, trong tâm trí của đứa cháu mãi về sau này. Từ những kỷ niệm về bếp lửa, tác giả đã bộc lộ cái nỗi lòng của đứa cháu đối với bà. Chỉ một chữ “thương” thôi mà ẩn giấu biết bao nhiêu tình cảm, lòng yêu thương, bao nhiêu sự biết ơn và lòng trân trọng của đứa cháu đối với bà. Dù đứa cháu ấy bây giờ đã lớn, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay, rời xa bếp lửa ấm áp của bà. Chi tiết “biết mấy nắng mưa” đã gợi lên bao nhiêu thời gian đã trôi qua, gợi nên cái lam lũ, vất vả của cuộc đời bà.

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Những hình ảnh, những kỷ niệm thuở ấu thơ hiện lên như một thước phim quay chậm, rất sống động, sâu sắc qua từng mốc thời gian. Bắt đầu là những kỷ niệm khi người cháu có nhận thức, đó là “Lên 4 tuổi cháu đã quen mùi khói”. Điều đó chứng tỏ cháu đã biết bao nhiêu lần cùng bà nhóm lửa, mùi khói đã trở thành một mùi hết sức thân quen, gắn liền với cuộc đời với nỗi nhớ, gắn liền với tâm trạng của đứa cháu này. Khói là một mùi vị bình dị, thân thuộc với cuộc sống, nếu bình thường sẽ chẳng ai để tâm tới, nhưng đối với Bằng Việt đối với ký ức của một đứa trẻ lên 4 lại trở thành một nỗi nhớ tha thiết không nguôi, lại trở thành một thứ được trân trọng gìn giữ trong tâm hồn. Ngoài mùi khói, tác giả còn nhớ đến những kỷ niệm khác, là những ngày khó khăn vất vả nhất của hai bà cháu. Đó “năm đói mòn đói mỏi”, nạn đói năm 1945 đã hằn sâu và trong ký ức của tác giả, cái đói quấn quýt lấy từng người đến mòn mỏi, sự sống trở nên hữu hạn, héo hắt vô cùng. Nhưng người cháu nhỏ nhớ nhất vẫn là hình ảnh “khói hun nhèm mắt cháu”, mà cho đến tận bây giờ, người cháu dường như vẫn cảm nhận được cái cay cay vì hít phải khói. Ngoài ra cái “cay” ấy còn là nỗi lòng xót xa của tác giả khi nhớ về những năm tháng ấu thơ nghèo đói, về sự nhọc nhằn của bà, của bố.

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Khi lớn hơn một chút, bố mẹ đều đi xa tham gia vào kháng chiến, tác gỉa đã có 8 năm sống cùng bà, được bà chăm sóc nuôi nấng. Nó cứ chảy trôi trong dòng hồi tưởng cảu Bằng Việt, thật êm đềm và nhiều cảm xúc. “Tám năm ròng” thể hiện một khoảng thời gian vô cùng, vô cùng dài, trong khoảng thời gian thật dài ấy, trước hết bà đã dạy cho cháu biết nhóm lửa, ngọn lửa của niềm tin, của sự sống, của ấm áp tình thân. Ngọn lửa ngày ngày cháu cùng bà nhen nhóm đã trở thành một ký ức sâu sắc trong tâm trí nhà thơ, trở thành mạch cảm xúc chính cho cả tác phẩm. “Tiếng tu hú” kêu vang vọng trên khắp cánh đồng xa, trở đi trở lại trong cả đoạn thơ tới ba lần vừa khắc khoải vừa tha thiết. Gợi ra không gian xa rộng trên những cánh đồng xa, rồi lại gợi lên cảnh căn nhà tranh nghèo khó bên bếp lửa nồng đượm. Tiếng chim ấy còn gợi về biết bao kỷ niệm nơi tâm hồn của người bà bình dị lam lũ tảo tần. Bà thường kể cho cháu nghe những chuyện ở Huế và những câu chuyện ấy cứ sống mãi trong tâm trí của người cháu, của Bằng Việt. Giọng thơ như tâm tình, như thủ thỉ với bà mang lại cảm giác thật ấm áp, gần gũi. Dường như khoảng cách giữa bà và cháu chẳng phải là nửa vòng trái đất mà là cháu đang bên bà cùng bà nhóm lửa. “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”, câu thơ như có sự ái ngại, xót thương cho chút chim bé bỏng sao không được ở cùng bà, để được bà nâng niu, chăm sóc mà phải lang bạt kêu tha thiết trên những cánh đồng vô tận. Cháu ở cùng bà, được bà dạy dỗ, chăm chút, bảo ban thật ân cần, bà đã thay bố thay mẹ cháu nuôi nấng cháu bằng tất cả những tình thương. Bà không chỉ là chăm sóc cho đứa cháu của mình, mà còn góp phần nuôi dạy thế hệ tương lai, đảm bảo hậu phương vững chắc cho những người đi xa được yên tâm kháng chiến, với một niềm tin dai dẳng sau này đất nước được độc lập, tự do. Hơn thế nữa hình ảnh của đứa cháu cũng hiện lên rất hiếu thảo, rất ngoan ngoãn, chịu thương chịu khó. Cháu tuy nhỏ nhưng đã hiểu được nỗi vất vả của bà, không muốn bà phải nhọc lòng hơn nữa.

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Lời thơ mở ra những kỷ niệm về sự mất mát đau thương mà kẻ thù đã gây ra cho dân tộc cho đất nước, cho cả ngôi làng quê bé bỏng của nhà thơ. Lời thơ cũng gợi nên nỗi căm phẫn trước tội ác của kẻ thù, “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi” là một kỷ niệ đau xót mãi nhói lên trong lòng của nhà thơ. Nhưng cũng trong tình cảnh lầm than ấy, thì hình ảnh của người bà và bếp lửa vẫn nổi bật lên. Trước cảnh hàng xóm bốn bên đều lầm lụi, vật vã thì người bà kiên cường lại một tay dựng lại túp lều tranh, còn đinh ninh dặn cháu không được cho cha mẹ biết. Bởi bà không muốn vì chuyện nhà con cái của mình lo lắng, không tập trung chiến đấu, bà luôn vững vàng mạnh mẽ như vậy, luôn là hậu phương vững chắc cho những người đi xa.

“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

“Rồi sớm rồi chiều” gợi lên một khoảng thời gian lặp đi lặp lại, ngày ngày sớm chiều bà nhóm lửa, chẳng thiếu hôm nào. Đó không phải là một công việc bình dị hằng ngày mà nó còn là một hành động rất kiên nhẫn, bền bỉ và tảo tần của người bà. Ngọn lửa bà hằng nhen không chỉ là ngọn lửa đang bập bùng mỗi sớm chiều mà nó còn là ngọn lửa bà luôn ủ sẵn trong lòng mình. Là hiện diện của niềm tin dai dẳng, tin vào một ngày mai đất nước được bình yên, con cái lại trở về sum họp, đứa cháu của bà lớn khôn, tài giỏi, là niềm tin về một cuộc sống tuơi đẹp hơn. Hình ảnh người bà trong thơ Bằng Việt không chỉ là người nhóm lửa, người giữ lửa mà còn là người truyền lửa, ấy là ngọn lửa niềm tin đầy lạc quan về sự sống cho người cháu, cho những thế hệ trẻ thơ.

Sau rất nhiều những hồi tưởng của cảm xúc của kỷ niệm, nhà thơ bắt đầu đi đến những suy tư về người bà của mình.

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Lời thơ nổi lên với mạch suy tư kết hợp với mạch cảm xúc rất nhuần nhuyễn. Câu “Lận đời bà biết mấy nắng mưa/Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ”, vừa bộc lộc cảm xúc của Bằng Việt vừa thể hiện những suy tư của tác giả về người bà của mình. Từ láy”Lận đận” được đảo lên đầu câu đã nhấn mạnh cái nỗi vất vả lam lũ, cái chịu thương chịu khó trong cuộc đời của người bà, bà chẳng quản ngại nắng mưa. Bà là người phụ nữ rất tần tảo, chăm chỉ bà quen dậy sớm, đã mấy chục năm chưa bao giờ đổi. Bà quen nhóm bếp sáng chiều, từ bếp lửa hồng ấy, bà đã nấu những bữa ăn tuy giản dị khoai sắn, nhưng đầy ắp tình thương yêu, chia sẻ ngọt bùi, nắng mưa cùng chịu. Ngọn lửa của bà tuy thân thuộc và binh dị, nhưng nó lại nhen vào lòng đứa trẻ là tác giả những kỷ niệm khắc sâu, những niềm tin dai dẳng về sự sống, về tình thương trong gia đình. Chính vì ngọn lửa của bà mang nhiều ý nghĩa triết lý như vậy nên nhà thơ đã phải cảm thán một câu thật sâu sắc để ca ngợi bếp lửa ấy: “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa!”.

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”

Quay trở về với thực tại, nhà thơ tuy đã đi xa, đã nhìn thấy biết bao nhiêu ngọn khói, bao nhiêu bếp lửa và bao nhiêu niềm vui khác. Nhưng tất cả cũng chẳng thể nào xóa nhòa đi cái ký ức đẹp đẽ, gian khổ đã khắc sâu vào lòng tác giả. Nhà thơ băn khoăn một nỗi niềm suy tư tha thiết: “Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”. Cháu đi xa biền biệt tin của bà, nỗi nhớ thương khắc khoải cứ hằn lên trong tâm trí, cháu nhớ bà nhớ cả ngọn lửa của bà nữa, chẳng biết liệu bà có còn khỏe mạnh, còn dậy sớm nhen bếp như khi cháu còn ở nhà không. Câu hỏi ấy là lời tâm tình, là sự lo lắng, là nỗi nhớ sâu sắc mà cháu dành cho bà ở một nơi cách xa nửa vòng trái đất.

Bếp lửa là thế giới của nỗi nhớ, là dòng kỷ niệm thiết tha là mạch hồi tưởng, suy ngẫm của một đứa cháu đã trưởng thành về kỷ niệm của một thời ấu thơ. Qua đó Bằng Việt bộc lộ niềm xúc động lòng tri ân sâu nặng đối với người bà tảo tần, lam lũ, kiên cường, bền bỉ, chịu thương chịu khó. Không những thế nhà thơ còn thể hiện lòng kính yêu trân trọng, biết ơn của một người cháu đối với bà, đối với đất nước, đối với quê hương, gia đình.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách “Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!