Updated at: 19-04-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Bình giảng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy” chuẩn nhất 04/2024.

Dàn ý Bình giảng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy- mẫu 1

I. Mở bài:

Giới thiệu tác giả Nguyễn Duy, tác phẩm Ánh trăng.

II. Thân bài:

Bình giảng bài thơ dựa vào những luận điểm gợi ý sau:

1. Vầng trăng trong quá khứ

– Hồi nhỏ sống với đồng, với sông, với bể -> Điệp từ “với” được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những kí ức tươi đẹp của tuổi thơ.

– “Hồi chiến tranh ở rừng” – những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh,“vầng trăng thành tri kỉ” -> Nghệ thuật nhân hóa -> trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính – nhà thơ.

-> Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng cảm nhận cái giá buốt nơi “Rừng hoang sương muối” (Đồng chí), cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cung xao xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê…

– “Trần trụi với thiên nhiên/ hồn nhiên như cây cỏ” -> Vầng trăng trong quá khứ mới đẹp làm sao.

-> phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật “trần trụi với thiên nhiên”, so sánh độc đáo “hồn thiên như cây cỏ” -> cho ta thấy rõ hơn vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng. Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ: vô tư, hồn nhiên, trong sáng.

– “không…quên…vầng trăng tình nghĩa” -> thể hiện tình cảm thắm thiết với vầng trăng.

=>Vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành,cả trong hạnh phúc và gian lao.

=>Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu; của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi mát, thơ mộng.

=>Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thành “vầng trăng tình nghĩa” biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình.

2.Vầng trăng trong hiện tại

– Hoàn cảnh sống: đất nước hòa bình.

-> Hoàn cảnh sống thay đổi: xa rời cuộc sống giản dị của quá khứ, con người được sống sung túc trong “ánh điện cửa gương” – cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại,xa rời thiên nhiên.

– “Vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”:

+ Vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó.

+ Biện pháp nhân hóa, so sánh-> “Vầng trăng tình nghĩa” trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng vẫn “đi qua ngõ”, vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa, nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình.  Vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết.

-> Rõ ràng, khi thay đổi hoàn cảnh, con người có thể dễ dàng quên đi quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm.Nói chuyện quên nhớ ấy, nhà thơ đã phản ánh một sự thực trong xã hội thời hiện đại.

– Con người gặp lại vầng trăng trong một tình huống bất ngờ:

+ Tình huống: mất điện, phòng tối om.

+ “Vội bật tung”: vội vàng, khẩntrương -> bắt gặp vầng trăng.

-> Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài. Chính cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ -> Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bối rối, gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm nghĩa tình.

3. Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng

– Từ “mặt” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người – trăng và người cùng đối diện đàm tâm.

– Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.

– Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng – biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng,những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.

-> Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”, đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.

– Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu.

– Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.

III. Kết bài: 

Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

Bình giảng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy- mẫu 1

       Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài thơ Tre Việt Nam. Bài Hơi ấm ổ rơm của anh đã từng đoạt giải thưởng báo Văn Nghệ. Hiện nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác. Anh viết đều và khỏe. Ánh trăng là một trong những bài thơ của anh được nhiều người ưa thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ.

Hai khổ thơ đầu tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp:

                                  Hồi nhỏ sống với đồng

                                  với sông rồi với bể

                                  hồi chiến tranh ở rừng

                                  vầng trăng thành tri kỉ.

       Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương vầng trăng mới thành “tri kỉ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau. Trăng chia ngọt sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ.

       Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình cảm yêu thương, quý trọng của mình đối với trăng:

                                  Trần trụi với thiên nhiên

                                  hồn nhiên như cây cỏ

                                  ngỡ không bao giờ quên

                                  cái vầng trăng tình nghĩa

       Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hòa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa” bởi trăng từng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, bởi trăng là người bạn, tri âm, tri kỉ như tác giả đã nói ở trên.

       Ấy thế mà có những thời gian tác giả tự thú là mình đã lãng quên cái “vầng trăng tình nghĩa” ấy:

                                  Từ hồi về thành phố

                                  quen ánh điện, cửa gương

                                  vầng trăng đi qua ngõ

                                  như người dưng qua đường.

       Trước đây, tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi trường sống đã thay đổi. Tác giả về sống với thành phố. Đời sống cũng thay đổi theo, “quen ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện”, “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng… dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả lãng quên, “vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những tháng năm gian khổ. Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những năm tháng gian khổ ấy. “Trăng” bây giờ thành “người dưng”… Con người ta thường hay đổi thay như vậy. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”. Ở thành phố vì quen với “ánh điện, cửa gương”, quen với cuộc sống đầy đủ tiện nghi nên người đời không thèm để ý đến “vầng trăng” từng là bạn tri kỉ một thời.

Phải đến lúc toàn thành phố mất điện:

                                  Thình lình đèn điện tắt

                                  phòng  buyn – đinh tối om

                                  vội bật tungcửa sổ

                                  đột ngột vầng trăng tròn.

       “vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy, tác giả bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm tác giả cứ “rưng rưng” nước mắt:

                                  Ngửa mặt lên nhìn mặt

                                  có cái gì rưng rưng

                                  như là đồng, là bể

                                  như là sông, là rừng.

       Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Tác giả không giấu được niềm xúc động mãnh liệt của mình. “Vầng trăng” nhắc nhở tác giả đừng bao giờ quên những tháng năm gian khổ ấy, đừng bao giờ quên tình bạn, tình đồng chí đồng đội, những người đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi trong những tháng năm chiến đấu đầy gian lao thử thách.

       Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:

                                  Trăng cứ tròn vành vạnh

                                  kể chi người vô tình

                                  ánh trăng im phăng phắc

                                  đủ cho ta giật mình.

       Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ lượng biết bao! Tấm lòng bao dung độ lượng ấy “đủ cho ta giật mình” mặc dù trăng không một lời trách cứ. Trăng tượng trưng cho phẩm chất cao quý của nhân dân, trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình chiến đấu trong những tháng năm “không thể nào quên”.

       Ánh trăng của Nguyễn Duy gây được nhiều xúc động đốì với nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. Ánh trăng còn mang ý nghĩa triết lí về sự thủy chung khiến người đọc phải “mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn.

Bình giảng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy- mẫu 2

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng

Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng.

                    Tố Hữu.

          Trăng là đề tài muôn thuở của thi ca. Với ánh sáng huyền diệu, với chu kì tròn, khuyết lạ lùng, trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều ý tưởng sâu xa. Nguyễn Duy là nhà thơ lớn lên từ đồng quê, trăng như một ám ảnh. Rồi xê dịch với thời gian, với không gian, trăng vẫn đeo đuổi nhà thơ và thế là thành thơ, thành triết lí.

          Nguyễn Duy đã chọn thể thơ năm chữ với nhịp điệu linh hoạt để thể hiện sự vận động của không gian, của thời gian:

                                        Hồi nhỏ sống với đồng

                                        với sông rồi với bể

                                        hồi chiến tranh ở rừng

                                        vầng trăng thành tri kỉ.

          Hồi ức được kể lại bằng hình ảnh. Hình ảnh chuyển rất nhanh. Cái hay là bằng hình ảnh của không gian (đồng – sông – bể – rừng) đã diễn tả sự vận động của thời gian – sự trưởng thành của nhà thơ (một nhà thơ lớn lên từ đồng quê). Khi hình ảnh vầng trăng xuất hiện thì nhịp thơ chậm lại, hợp với sự suy ngẫm:

                                        Trần trụi với thiên nhiên

                                        Hồn nhiên như cây cỏ

                                        ngỡ không bao giờ quên

                                        cái vầng trăng tình nghĩa.

          Nhà thơ nói “hồi chiến tranh ở rừng- vầng trăng thành tri kỉ” là đã quá sâu sắc, vậy mà nhà thơ còn khắc đậm thêm tình cảm giữa nhà thơ với trăng. Người chiến sĩ sống giữa rừng “trần trụi với thiên nhiên”, nói “trần trụi” là nhà thơ muôn nói đến sự gần gũi với thiên nhiên, với trăng, không có gì ngăn cách (như nhà lầu, cửa gương chẳng hạn). Tâm hồn người chiến sĩ thì hồn nhiên vồ tư đến độ “như cây cỏ”. Cho nên vầng trăng chẳng những là “tri kỉ”, mà còn “tình nghĩa”:

                                        Ngỡ không bao giờ quên

                                        cái vầng trăng tình nghĩa.

Nhịp điệu tự sự ban đầu lại tái hiện với sự vận động của không gian, với sự xê dịch của tình cảm. Cái “ngỡ không bao giờ quên” đã quên:

                                        Từ hồi về thành phố

                                        quen ánh điện, cửa gương

                                        vầng trăng đi qua ngõ

                                        như người dưng qua đường,

          Hình ảnh nhân hóa rất hay: “vầng trăng đi qua ngõ”. Trăng đâu có cao xa vời vợi, trăng vẫn gần gũi thân thương, vậy mà “như người dưng qua đường”. Thế mới biết hoàn cảnh tác động đến con người ghê gớm thật! Tố Hữu đã dự báo mấy chục năm về trước rồi. Bây giờ Nguyễn Duy nhắc nhở thêm, càng thấm thía.

          Bài thơ được phát triển đến một tứ thơ có chút kịch tính:

                                        Thình lình đèn điện tắt

                                        phòng buyn- đinh tối om

                                        vội bật tung cửa sổ

                                        đột ngột vầng trăng tròn

                                        Ngửa mặt lên nhìn mặt

                                        có cái gì rưng rưng

                                        như là đồng là bể

                                        như là sông là rừng.

          Vầng trăng hiện ra “đột ngột” giữa lúc “đèn điện tắt”, “phòng buyn – đinh tối om” đã gây xúc động cho con người đã “quen ánh điện, cửa gương”, vầng trăng “tri kỉ”, vầng trăng “tình nghĩa” vẫn “tròn””vầng trăng tròn” xuất hiện giữa lúc thành phố” tối om” làm xáo trộn tâm hồn nhà thơ. Nhìn trăng, nhà thơ nhớ lại những kỉ niệm của tuổi thơ, nhớ lại những kỉ niệm của chiến tranh, của cuộc sống chiến sĩ:

                                        Ngửa mặt lên nhìn mặt

                                        có cái gì rưng rưng

                                        như là đồng là bể

                                        như là sông là rừng.

          Trong câu thơ “ngửa mặt lên nhìn mặt”, tác giả dùng hai từ “mặt” rất hay. Nếu từ “mặt” thứ hai mà nói rõ là “mặt trăng” thì câu thơ sẽ tầm thường. “Ngửa mặt lên nhìn mặt” là nhìn mặt của tri kỉ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu mình dửng dưng. Sự thủy chung của vầng trăng đã làm động lòng “người vô tình”. Thì ra “mình với ta tuy hai mà một”.

          Cánh cửa sổ phòng buyn – đinh định mở ra với vầng trăng là mở ra với thế giới bao la, tâm linh của nhà thơ cũng mở ra đến chiều sâu thẳm:

                                        Trăng cứ tròn vành vạnh

                                        kể chi người vô tình

                                        ánh trăng im phăng phắc

                                        đủ cho ta giật mình.

          Hình ảnh “vầng trăng tròn” còn được nhà thơ nhìn lại: “tròn vành vạnh”, thật là đẹp, một vẻ đẹp viên mãn (đẹp của ánh sáng, của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu). Nhìn thấy “trăng tròn vành vạnh”, người vô tình càng thấy cái “khuyết” của mình. “Người vô tình” gặp lại người tri kỉ sáng trong, tình nghĩa, nhân hậu mà vô ngôn thì thật đáng sợ:

                                        ánh trăng im phăng phắc

                                        đủ cho ta giật mình.

          Cái “giật mình” chân thành có sức cảm hóa lòng người.

          Bằng hình ảnh ánh trăng hiện ra đột ngột giữa khung cảnh thành phố, bài thơ như một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu … Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà lắng sâu. Khổ cuối của bài thơ đưa tới chiều sâu lí tưởng triết lý: vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân, mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.

Bình giảng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy- mẫu 3

Cát trắng và Ánh trăng là hai tập thơ của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Một hồn thơ tươi trẻ tỏa mát bóng tre, như con sóng vỗ dòng sông thơ ấu phảng phất hương vị đồng quê:

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
Níu váy bà đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trầm.

(Đò Lèn)

Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng, Đò Lèn… là những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy. Bài thơ Ánh trăng rút trong tập thơ cùng tên, được tác giả viết vào năm 1978, tại Thành phố Hổ Chí Minh. 3 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như một lời tâm sự chân thành: vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mà nó còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên và đừng vô tình lãng quên

Nếu như trong bài thơ Tre Việt Nam, câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng thì ở bài thơ Ánh trăng này lại có một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian, kỉ niệm?

Hai khổ thơ đầu nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng thời chiến tranh. Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la: “Hồi nhỏ sống với đồng – với sông rồi với bể”. Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng – sông); từ “với” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, từng được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể. Tuổi thơ của chúng ta dễ có mấy ai được cái cơ may ấy như nhà thơ? Thuở bé nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng chỉ được ngắm trăng nơi sân nhà: “Ông trăng tròn sáng tỏ – Soi rõ sân nhà em… Chỉ có trăng sáng tỏ – Soi rõ sân nhà em… “(Trăng sáng sân nhà em).

Tuổi thơ được ngắm trăng thích thế, như một chút hoài niệm xa vời. Hai câu thơ tiếp theo nói về hồi máu lửa, trăng với người lính, trăng đã thành ” tri kỉ”:

Hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.

“Tri kỉ”: biết người như biết mình; bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ- Người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng “Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm” (Hồ Chí Minh). Giữa rừng khuya sương muối, người chiến sĩ đứng chờ giặc tới “Đầu súng trăng treo” (Chính Hữu). Nẻo đường hành quân của người chiến sĩ nhiều đêm đã trở thành “nẻo đường trăng dát vàng”. Trăng đã chia sẻ ngọt bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận với người lính tiền phương. Đất nước trải qua những năm dài máu lửa, trăng với anh bộ đội đã vượt lên mọi tàn phá hủy diệt của bom đạn quân thù:

Và vầng trăng, vầng trăng đất nước
Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao.
(Phạm Tiến Duật)

Các tao nhân ngày xưa thường “đăng lâu vọng nguyệt”, còn anh bộ đội Cụ Hồ một thời trận mạc đã nhiều phen đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi cũng say sưa ngắm vành trăng cao nguyên. Thật là thú vị khi đọc vần thơ Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người một trường liên tưởng: “hồi chiến tranh ở rừng – vầng trăng thành tri kỉ”.

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Lại một vần lưng nữa xuất hiện – Một ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên người lính những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh:

Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ.

Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” ngỡ như không bao giờ có thể quên. Một ý thơ làm động đến đáy tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình: “ngỡ không bao giờ quên – cái vầng trăng tình nghĩa ”

Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống đổi thay, con người dễ thay đổi, có lúc dễ trở nên vô tình, có kẻ dễ trở thành “ăn ở bạc”. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được trưng diện và xài sang: buyn-đinh, cao ốc, quen ánh điện, cửa gương… Và “vầng trăng tri kĩ”, “vầng trăng tình nghĩa”đã bị người lãng quên, dửng dưng. Cách so sánh thấm thía làm chột dạ nhiều người:

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.

Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối. Biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách, tự vươn lên, hướng tâm hồn về ánh sáng và cái cao cả. Không đao to búa lớn, không đại ngôn, mà trái lại, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày tâm sự, nhà thơ đang trò chuyện với mình. Chất trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành.

Cũng như dòng sông có thác ghềnh, có quanh co, uốn khúc, cuộc đời cũng có nhiều biến động li kì. Ghi lại một tình huống “cuộc sống thị thành”của những con người mới ở rừng về thành phố, nhà thơ chỉ sử dụng 4 câu thơ 20 từ. Các từ “thình lình”, “vội”, “đột ngột” gợi tả tình thái đầy biểu cảm. Có nhà triết học nói: “Cuộc đời dạy ta nhiều hơn trang sách . Vần thơ của Nguyễn Duy nói với ta rất nhiều:

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bạt tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.

Trăng xưa đã đến với người, vẫn “tròn”, vẫn “đẹp”, vẫn thủy chung với mọi người, mọi nhà, với thi nhân, với người lính. Người ngắm trăng rồi suy ngẫm bâng khuâng:

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng như là đồng,
là bể như là sông, là rừng.

Nguyễn Tuân từng coi trăng là “cố nhân”, nhà thơ Xuân Diệu, trong bài Nguyệt cầm viết cách đây 60 năm cũng có câu: “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”. Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ này. Một cái nhìn đầy áy náy xót xa: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ “mặt” trong vần thơ: mặt trăng và mặt người cùng “đối diện đàm tâm”. Trăng chẳng nói, trăng chẳng trách thế mà người lính cảm thấy “có cái gì rưng rưng”. “Rưng rưng” nghĩa là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại, cái tốt lành hé lộ. Bao kỉ niệm đẹp một đời người ùa về, tâm hồn gắn bó, chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với sông, với rừng, với quê hương đất nước. Cấu trúc câu thơ song hành, với biện pháp tu từ so sánh, với điệp từ (là) cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa:… “như là đồng, là bể – như là sông, là rừng”. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, tính hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.

Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình

“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. “Im phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “kể chi người vô tình” là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thuỷ chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.

Ánh trăng là một bài thơ hay. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, tài hoa. Sự phong phú vần điệu, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhà thơ tâm sự với người đọc những sâu kín nhất nơi lòng mình. Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng “ánh trăng”đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình. Phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, với nhân dân – đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.

Bình giảng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy- mẫu 4

Có những tác phẩm vừa ra đời đã nhanh chóng bị lãng quên. Có những tác phẩm gây xôn xao dư luận một thời rồi bị “nhấn chìm” theo thời gian. Nhưng cũng có những bài thơ, truyện ngắn để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc. Ánh trăng của Nguyễn Duy chính là tác phẩm tiêu biểu cho điều đó – bài thơ vượt dòng thời gian đi cùng năm tháng. Trăng là đề tài muôn thuở của thi ca. Với ánh sáng huyền diệu, với chu kì tròn khuyết lạ lùng, trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều ý tưởng sâu xa. Nguyễn Duy là nhà thơ lớn lên từ đồng quê, trăng như một ám ảnh, rồi xê dịch cùng thời gian và không gian rồi thành thơ, thành triết lí…

Tác phẩm ra đời năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh, ba năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như một lời tâm sự chân thành: “Vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước mà nó còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ”. Bài thơ Ánh trăng được viết theo thể thơ năm chữ, nhịp điệu linh hoạt thể hiện sự vận động của không gian, thời gian. Nếu như trong bài Tre Việt Nam, câu thơ lục bát có khi được tách ra thành hai hoặc ba dòng để tạo hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng, thì bài thơ Ánh trăng này lại có một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian kỉ niệm?

Vầng trăng đối với mỗi chúng ta là kỉ niệm thiêng liêng, nó đem lại ánh sáng xua tan đêm tối và đồng thời nó cũng là tri kỉ. Hai câu thơ đầu tác giả nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng của thời chiến:

Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la. Hai câu thơ mười tiếng, gieo vẩn lưng (đồng – sông), từ “với” được điệp lại ba lần nhằm diễn tả một tuổi thơ êm đềm, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, từng được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể. Hồi ức được kể lại bằng hình ảnh. Hình ảnh chuyển rất nhanh, cái hay là bằng hình ảnh không gian đã diễn tả được sự vận động của thời gian.

Hai câu thơ tiếp theo nói về thời chiến tranh, vầng trăng của người lính, trăng thành tri kỉ:

hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ

Tri kỉ là biết người biết mình; bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ. Người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng, giữa rừng khuya sương muối; người chiến sĩ đứng chờ giặc tới dưới ánh trăng. Con đường hành quân của người lính nhiều đêm đã trở thành con đường dát vàng. Trăng đã chia sẻ ngọt bùi; hân hoan trong niềm vui thắng trận với người lính tiền phương. Đất nước đã trải qua những năm dài máu lửa; vầng trăng với anh bộ đội đã vượt lên mọi tàn phá huỷ diệt của bom đạn quân thù. Thật thú vị khi đọc những vần thơ của Nguyễn Duy, vì đối với nhiều người; nó đã mở ra một trường liên tưởng.

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, với đất nước bình dị; hiền hậu. Bằng nghệ thuật ẩn dụ, so sánh; nhà thơ làm nổi bật chất trần trụi; chất hồn nhiên của người lính những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh:

Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa

Vầng trăng là biểu tượng của những năm tháng ấy, đã trở thành vầng trăng tri kỉ; vầng trăng tình nghĩa, ngỡ như không bao giờ có thể quên. Một ý thơ lay động tâm hồn như một thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình.

Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống thay đổi; con người dễ đổi thay, có lúc trở nên vô tình, bội bạc. Từ ở rừng; sau chiến tranh trở về thành phố, được sống sung sướng ở buyn-đinh cao Ốc, quen ánh điện cửa gương, vầng trăng tri kỉ – vầng trăng tình nghĩa đã bị con người dửng dưng, lãng quên.

Từ hồi về thành phố

quen ánh điện, cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường

Trăng được nhân hoá lặng lẽ đi qua đường, trăng bây giờ như người dưng đi qua chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Những câu thơ rất bình dị, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày tâm sự cho nên chất trữ tình của thơ trở nên sâu lắng, chân thành.

Cũng như dòng sông có thác ghềnh; quanh co uốn khúc, cuộc đời người cũng có những biến động li kì. Ghi lại cuộc sống thành thị của những con người mới ở rừng về thành phố; nhà thơ chỉ sử dụng bốn câu thơ hai mươi từ. Các từ “thình lình”, “vội”, “đột ngột” gợi tả trạng thái đầy biểu cảm:

Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn

Trăng xưa đã đến với người; vẫn tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với mọi người, mọi nhà, với thiên nhiên, với người lính. Người ngắm trăng rồi suy ngẫm bâng khuâng:

Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng

Hai chữ “mặt” trong một câu thơ. Mặt trăng, mặt người cùng “đối diện đàm tâm” với nhau. Trăng chẳng nói, trăng chẳng trách gì cả, thế mà người lính cảm thấy “có cái gì rưng rưng”. “Rưng rưng” là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại, cái tốt lành hé lộ, bao kỉ niệm đẹp một đời người ùa về, tâm hồn gắn bó, chan hoà với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng với bể, với sông, với rừng, với quê hương, đất nước. Cấu trúc câu thơ song hành, với biện pháp tu từ so sánh và điệp ngữ “là” cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa. Ta thấy đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, ở hình tượng và cảm xúc. Từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng, thấm thìa.

Một khoảnh khắc im lặng trong hiện thực nhưng từ nội tâm con người, nỗi xúc động trào dâng đến đỉnh điểm. Mọi kí ức của một thời xa xăm, một thời gian khó, gắn bó thuở nào bỗng dội về trước mặt: Trăng! Đó là những kỉ niệm tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc. Trăng! Đó là đồng là bể, là quê hương làng xóm và những người thân yêu ruột thịt. Trăng! Đó còn là sông là rừng, là những người đồng chí anh em. Trăng! Đó là những vui buồn – hạnh phúc, những đắng cay ngọt bùi một thuở. Thế mà, lòng người đã sớm quên mau để bây giờ chợt giật mình, chợt sực tỉnh, xót xa ân hận, để phải rưng rưng không nói thành lời.

Có cái gì đó trào dâng lên trong lòng người, rưng rưng, cay xè và giọt lệ như sắp tuôn trào bên hàng mi. Nước mắt có thể thanh lọc tâm hồn con người, khi nào người ta còn biết khóc là khi họ còn có một trái tim, một tấm lòng để rung động và để yêu thương. Cái tốt lành trong sáng đã hé nở trong hai chữ “rưng rưng” nao lòng ấy. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại một không gian tình nghĩa: đổng, bể, sông, rừng. Ánh trăng soi rọi tâm hồn, khiến nhà thơ bừng tỉnh:

Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.

Khổ thơ kết bài của bài thơ là hai vế đối lập mà song song. Đối lập giữa cái tròn đầy vành vạnh của vầng trăng là hao khuyết thiếu hụt của kẻ đã vô tâm quên đi quá khứ – cái quá khứ ân tình, thuỷ chung mà họ “ngỡ không bao giờ quên”. Đối lập giữa cái im lặng độ lượng của vầng trăng là sự thức tỉnh trong lương tri con người. Đối lập giữa hiện tại và quá khứ. Suy nghĩ của tác giả ở khổ thơ này đã được nâng lên tầm cao triết lí. Nếu ai đó có lúc quên đi những điều thiêng liêng tốt đẹp của quá khứ, thì phải có những lúc giật mình tỉnh thức trong hiện tại mới mong đạt được những ân nghĩa tốt lành ở tương lai. Bởi đó là chân lí đã trở thành đạo lí của người Việt ta: “Uống nước nhớ nguồn”.

Tròn vành vạnh là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. “Im phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung, độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn, trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời chiến tranh chống Mĩ.

Ánh trăng là bài thơ hay của Nguyễn Duy. Qua bài thơ, tác giả tâm sự với người đọc những nỗi niềm sâu kín nhất nơi lòng mình. Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng ánh trăng đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình, phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, nhân dân. Đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này. Từ một câu chuyện riêng, tiếng thơ của Nguyễn Duy như một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở thấm thía về thái độ sống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ. Có lẽ vì vậy mà đến với Ánh trăng, người đọc nào cũng thấy lòng mình dường như lắng lại.

Bình giảng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy- mẫu 5

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng

Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng.

                    Tố Hữu.

          Trăng là đề tài muôn thuở của thi ca. Với ánh sáng huyền diệu, với chu kì tròn, khuyết lạ lùng, trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều ý tưởng sâu xa. Nguyễn Duy là nhà thơ lớn lên từ đồng quê, trăng như một ám ảnh. Rồi xê dịch với thời gian, với không gian, trăng vẫn đeo đuổi nhà thơ và thế là thành thơ, thành triết lí.

          Nguyễn Duy đã chọn thể thơ năm chữ với nhịp điệu linh hoạt để thể hiện sự vận động của không gian, của thời gian:

                                        Hồi nhỏ sống với đồng

                                        với sông rồi với bể

                                        hồi chiến tranh ở rừng

                                        vầng trăng thành tri kỉ.

          Hồi ức được kể lại bằng hình ảnh. Hình ảnh chuyển rất nhanh. Cái hay là bằng hình ảnh của không gian (đồng – sông – bể – rừng) đã diễn tả sự vận động của thời gian – sự trưởng thành của nhà thơ (một nhà thơ lớn lên từ đồng quê). Khi hình ảnh vầng trăng xuất hiện thì nhịp thơ chậm lại, hợp với sự suy ngẫm:

                                        Trần trụi với thiên nhiên

                                        Hồn nhiên như cây cỏ

                                        ngỡ không bao giờ quên

                                        cái vầng trăng tình nghĩa.

          Nhà thơ nói “hồi chiến tranh ở rừng- vầng trăng thành tri kỉ” là đã quá sâu sắc, vậy mà nhà thơ còn khắc đậm thêm tình cảm giữa nhà thơ với trăng. Người chiến sĩ sống giữa rừng “trần trụi với thiên nhiên”, nói “trần trụi” là nhà thơ muôn nói đến sự gần gũi với thiên nhiên, với trăng, không có gì ngăn cách (như nhà lầu, cửa gương chẳng hạn). Tâm hồn người chiến sĩ thì hồn nhiên vồ tư đến độ “như cây cỏ”. Cho nên vầng trăng chẳng những là “tri kỉ”, mà còn “tình nghĩa”:

                                        Ngỡ không bao giờ quên

                                        cái vầng trăng tình nghĩa.

Nhịp điệu tự sự ban đầu lại tái hiện với sự vận động của không gian, với sự xê dịch của tình cảm. Cái “ngỡ không bao giờ quên” đã quên:

                                        Từ hồi về thành phố

                                        quen ánh điện, cửa gương

                                        vầng trăng đi qua ngõ

                                        như người dưng qua đường,

          Hình ảnh nhân hóa rất hay: “vầng trăng đi qua ngõ”. Trăng đâu có cao xa vời vợi, trăng vẫn gần gũi thân thương, vậy mà “như người dưng qua đường”. Thế mới biết hoàn cảnh tác động đến con người ghê gớm thật! Tố Hữu đã dự báo mấy chục năm về trước rồi. Bây giờ Nguyễn Duy nhắc nhở thêm, càng thấm thía.

          Bài thơ được phát triển đến một tứ thơ có chút kịch tính:

                                        Thình lình đèn điện tắt

                                        phòng buyn- đinh tối om

                                        vội bật tung cửa sổ

                                        đột ngột vầng trăng tròn

                                        Ngửa mặt lên nhìn mặt

                                        có cái gì rưng rưng

                                        như là đồng là bể

                                        như là sông là rừng.

          Vầng trăng hiện ra “đột ngột” giữa lúc “đèn điện tắt”, “phòng buyn – đinh tối om” đã gây xúc động cho con người đã “quen ánh điện, cửa gương”, vầng trăng “tri kỉ”, vầng trăng “tình nghĩa” vẫn “tròn””vầng trăng tròn” xuất hiện giữa lúc thành phố” tối om” làm xáo trộn tâm hồn nhà thơ. Nhìn trăng, nhà thơ nhớ lại những kỉ niệm của tuổi thơ, nhớ lại những kỉ niệm của chiến tranh, của cuộc sống chiến sĩ:

                                        Ngửa mặt lên nhìn mặt

                                        có cái gì rưng rưng

                                        như là đồng là bể

                                        như là sông là rừng.

          Trong câu thơ “ngửa mặt lên nhìn mặt”, tác giả dùng hai từ “mặt” rất hay. Nếu từ “mặt” thứ hai mà nói rõ là “mặt trăng” thì câu thơ sẽ tầm thường. “Ngửa mặt lên nhìn mặt” là nhìn mặt của tri kỉ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu mình dửng dưng. Sự thủy chung của vầng trăng đã làm động lòng “người vô tình”. Thì ra “mình với ta tuy hai mà một”.

          Cánh cửa sổ phòng buyn – đinh định mở ra với vầng trăng là mở ra với thế giới bao la, tâm linh của nhà thơ cũng mở ra đến chiều sâu thẳm:

                                        Trăng cứ tròn vành vạnh

                                        kể chi người vô tình

                                        ánh trăng im phăng phắc

                                        đủ cho ta giật mình.

          Hình ảnh “vầng trăng tròn” còn được nhà thơ nhìn lại: “tròn vành vạnh”, thật là đẹp, một vẻ đẹp viên mãn (đẹp của ánh sáng, của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu). Nhìn thấy “trăng tròn vành vạnh”, người vô tình càng thấy cái “khuyết” của mình. “Người vô tình” gặp lại người tri kỉ sáng trong, tình nghĩa, nhân hậu mà vô ngôn thì thật đáng sợ:

                                        ánh trăng im phăng phắc

                                        đủ cho ta giật mình.

          Cái “giật mình” chân thành có sức cảm hóa lòng người.

          Bằng hình ảnh ánh trăng hiện ra đột ngột giữa khung cảnh thành phố, bài thơ như một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu … Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà lắng sâu. Khổ cuối của bài thơ đưa tới chiều sâu lí tưởng triết lý: vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân, mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách ” Bình giảng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!