Updated at: 08-05-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng 5 tháng giêng chuẩn nhất 10/2024.

Thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng 5 tháng giêng- Mẫu 1

           Nguyễn Huệ – người anh hùng áo vải quê vốn ở Nghệ An, bị chúa Nguyễn bắt đưa vào đàng trong khai khẩn đất hoang. Sau khi ra đàng trong, Nguyễn Huệ tiến đánh Bắc Hà làm Lê Chiêu Thống rất lo lắng. Lại được tin Lê Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh, Nguyễn Huệ giận lắm vì đến ngày 24 tháng 11 Nguyễn Văn Tuyết mới cấp báo cho mình về việc Tôn Sĩ Nghị mang quân Thanh vào xâm lược Thăng Long. Lê Chiêu Thống không ngờ được là ý định của mình là một ý định sai lầm cõng rắn về cắn gà nhà vì quân Thanh cũng muốn xâm lược nước ta từ trước nhưng thừa cơ hội này quân Thanh tiến ồ ạt sang nước ta. Lê Chiêu Thống nhận sắc phong vua nhà Thanh là Nam Quốc Vương; còn Ngô Văn Sở rút lui về Tam Điệp. Trước biến cố đó, Nguyễn Huệ quyết định lên làm vua, lấy niên hiệu là Quang Trung và mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh.

           Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân 1788. Theo sử sách ghi lại trích trong Các triều đại Việt Nam có thể thấy rõ hơn được Nguyễn Huệ là một vị tướng tài: Đây là người có dung mạo đặc biệt, tóc xoăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, đôi mắt sáng như chớp, có thể nhìn thấy mọi vật trong dêm tối. Vẻ mặt của ông như toát lên một ý chí, một vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt.

           Bấy giờ ở Phú Xuân, vua Quang Trung cho tuyển lính ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ. Rồi nhà vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở Vĩnh Doanh (Nghệ An). Đến Thanh Hoá ông vẫn tiếp tục tuyển thêm binh lính và làm lễ tuyên thệ. Trong lời dụ với các tướng sĩ, Quang Trung lẫm liệt và thể hiện rõ quyết tâm chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của đất nước, với ý chí hiên ngang, bất khuất, với ánh mắt căm thù giặc, Quang Trung đã tuyên bố:

Đánh cho để dài tóc,

  Đánh cho để đen răng,

                Đánh cho nó chích luân bất phản,

                Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,

           Đánh cho sử tư Nam quốc anh hùng chi hữu chủ. Sau đó Quang Trung cũng động viên tướng sĩ của mình với ý chí quyết tâm bằng giọng nói sang sảng, đầy hào khí, khẳng định niềm tin vào ý chí quyết thắng của đội quân chính nghĩa. Ra đến Tam Điệp, Quang Trung đã phân rõ công tội của Sở và Lân qua lời nói rất hào khí. Binh pháp dạy rằng: Quân thua chém tướng, tội của các ngươi tuy đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các người đều là hạng vô dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, nên việc tuỳ cơ ứng biển là không có tài. Và ông khen ngợi kế sách tạm rút quân để bảo toàn lực lượng của Ngô Thì Nhậm và các tướng.

           Vua Quang Trung bèn sai mở tiệc để khao quân. Rồi vua bảo kín với các tướng sĩ: Ta với các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước đã. Đến tối 30 Tết lập tức lên đường, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ đấy đừng cho ta là nói khoác.

Sau đó ông chia ra làm năm đạo quân. Đạo chủ lực do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, thẳng hướng Thuỷ Long. Đạo thứ hai và thứ ba đánh vào tây nam Thăng Long và yểm trợ cho đạo chủ lực. Đạo thứ tư tiến ra phía Hải Dương. Đạo thứ năm tiến lên Lạng Giang – Bắc Giang, chặn đường rút lui của quân địch. Tiến thẳng đến thành Thăng Long. Để giữ sức cho quân lính để sức chiến đấu ông sai dùng cáng làm võng. Hai người khiêng một người nằm ngủ và cứ thế luân phiên nhau đi suốt ngày đêm.

           Đến đêm 30 Tết âm lịch, quân ta vượt sông Gián Khẩu, tiêu diệt gọn toàn bộ quân địch ở đồn tiền tiêu, khí thế của quân ta càng lớn. Sau những ngày Quang Trung hành quân thần tốc, quân giặc tan vỡ tháo chạy nhưng không thoát, nên không báo được tin về việc tiến quân của quân ta là bí mật. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỉ Dậu, vua Quang Trung tới làng Hà Hồi và lặng lẽ vây kín làng. Quân giặc bị bất ngờ, hoảng sợ, hạ khí giới xin đầu hàng, lương thực và khí giới đều bị quân Nam lấy hết.

           Mờ sáng ngày mồng 5 Tết, quân ta đánh đồn Ngọc Hồi (Thanh Trì, Hà Nội). Đây là đồn điền quan trọng nhất của địch với khoảng ba vạn quân tinh nhuệ đóng giữ. Đồn luỹ được xây đắp kiên cố, xung quanh đều cắm chông sắt và chôn địa lôi dày đặc. Vua Quang Trung thấy thế truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm thành một bức bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Sau đó kén hạng lính khoẻ mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn, hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ nhất. Quân Thanh nổ súng bắn ra, chẳng trúng người nào cà. Nhân có gió bắc, quân Thanh liền dùng ống phun khói lửa ra, toả khói mù trời, cách gang tấc không thấy gì hòng làm quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát sau đó vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khi theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh không chống đỡ nổi, bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết, thây ngổn ngang chết đầy đồng, máu chảy thành suối. Trước đó Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía đông. Đến lúc đó, quân Thanh lại càng sợ tìm lối tắt để trốn. Chợt lại thấy voi từ Đại Áng tới, quân Thanh đều hết hồn hết vía, vội trốn xuống Đầm Mực, làng Quỳnh Đò, quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết hàng vạn người.

           Khi cho quân của Quang Trung đánh đồn Ngọc Hồi thì đạo quân của đô đốc Long tấn công đồn Đống Đa. Được dân địa phương giúp sức, quân ta giáp chiến, đốt lửa thiêu cháy doanh trại giặc. Tướng giặc là sầm Nghi Đống sợ hãi, thắt cổ tự tử.

           Trưa mồng 5 Tết Kỉ Dậu, vua Quang Trung trong bộ chiến bào xạm đen khói thuốc súng, cùng toàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long giữa muôn vàn tiếng reo hò của người dân và binh sĩ:

Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến đến,

Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh…

           Có được thắng lợi to lớn trên trước hết là nhờ ý chí đấu tranh áp bức bóc lột và tinh thần yêu nước cao cả của nhân dân ta. Tiếp đó dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân đã góp phần quan trọng vào thắng lợi. Quang Trung là anh hùng dân tộc vĩ đại của dân ta ở thế kỷ XVIII. Lễ hội gò Đống Đa diễn ra hằng năm tưởng nhớ công lao to lớn của vua Quang Trung, tinh thần quyết thắng của dân tộc ta.

Thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng 5 tháng giêng- Mẫu 2

Việt Nam – một đất nước nhỏ bé phải bao lần oằn mình dưới gót giày ngoại xâm nhưng chưa bao giờ cúi đầu làm nô lệ. Việt Nam – một đất nước anh hùng đã bao phen đánh đuổi các đế quốc xâm lược ra khỏi bờ cõi, làm chấn động năm châu, rung chuyển địa cầu. Việt Nam – một đất nước đã biến những tổn thương thành những chiến tích vàng son khiến người người cúi đầu nể phục. Trận chiến thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung là một trong những trận chiến xuất sắc đã trở thành một dấu son chói lọi sáng ngời trong lịch sử nước nhà.

        Lúc bấy giờ, Nguyễn Huệ – Bắc Bình Vương đóng quân tại Phú Xuân, ông là người dữ tướng, tóc xoăn, da sần, mắt sáng như chớp có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối. Mọi người sợ ông đến nỗi không dám nhìn thẳng vào mắt ông. Ngày 24 tháng 11, Nguyễn Văn Tuyết được lệnh của Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm chạy trạm vào Nam cấp báo cho Nguyễn Huệ biết về việc Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, mở đường cho Tôn Sĩ Nghị kéo hai mươi chín vạn quân sang xâm lược nước ta. Xem ra chúng là một đạo quân ô hợp, kinh thường nước ta. Trước thế giặc ồ ạt như vậy, Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm bèn cho quân rút lui, quân thuỷ đóng ở vùng Biện Sơn, quân bộ đóng ở vùng Tam Điệp, nghĩa là ta đã mất đất nước từ vùng cửa ải Lạng Sơn đến kinh thành Thăng Long.

        Tại Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị cho quân đi cướp bóc, giết người, bắt nhân dân phải nộp trâu, bò, có nơi phải nộp cỏ để nuôi ngựa. Chúng bắt nhân dân ta phải xây nhà và thành luỹ cho chúng. Còn Lê Chiêu Thống, ông được nhà Thanh phong là An Nam Quốc Vương nhưng thực ra chỉ là bù nhìn. Nhân dân thành Thăng Long nói với nhau rằng: từ khi nước Nam có đế có vương đến nay, chưa từng thấy một ông vua nào đê hèn như thế.

        Về phần Nguyễn Huệ, sau khi nghe tin xong thì tức giận lắm, ông giận đến nỗi mắt ông có thể đốt cháy mọi vật. Ông họp các tướng sĩ lại và tự mình thân chinh đi đánh giặc. Các tướng sĩ đều ngăn cản, khuyên ông hãy ban lệnh ân xá khắp trong ngoài để yên kẻ phản trắc và giữ được lòng người, rồi đánh quân Thanh cũng chưa muộn. Nghe lấy làm phải, ngày 25 tháng chạp, năm Mậu Thân, Nguyễn Huệ lập đàn trên núi Bân, tế thần sông thần núi, chế ra áo cổn mũ miện. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung, vẻ mặt ông cương trực mà thẳng thắn, oai phong lẫm liệt. Lễ xong, Quang Trung hạ lệnh xuất quân, tự mình đốc suất binh lính. Ngày 29 tháng chạp đến Nghệ An, ông có hỏi qua ý của Nguyễn Thiếp và được biết rằng: không quá mười ngày có thể dẹp được quân Thanh ra khỏi bờ cõi. Nghe vậy, Quang Trung mừng thầm, ông cho tập cuộc duyệt binh. Những hàng quân thẳng tắp, tay cầm cờ, gươm giáo, vũ khí rất chỉnh tề. Trong khuôn mặt mỗi người thể hiện ý chí chiến quyết thắng để bảo vệ đất nước hoà bình yên ổn, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm. Lời nói ông sang sảng mà đầy hào khí, tuyên bố với ba quân ý chí đánh tan quân xâm lược, bảo vệ nền độc lập, giữ gìn văn hoá và những phong tục tập quán lâu đời của nhân dân. Ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc, khiến quân thù phải hiểu rằng nước Nam là nước anh hùng có chủ, không ai có thể xâm chiếm được. Quang Trung nói xong, thì các quân sĩ đồng loạt vâng lệnh.

        Hôm sau, ông hạ lệnh tiến quân, đến núi Tam Điệp, Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm đều mang gươm trên lưng mà chịu tội. Quang Trung phân tích rõ công tội của họ, khen ngợi kế hoạch tạm rút binh để bảo toàn lực lượng. Qua những lời nói do, Quang Trung đã thể hiện mình là người sáng suốt, mưu lược, có sự am hiểu, lòng vị tha độ lượng, sử dụng quân lệnh rất nghiêm minh. Ngày 30 tháng chạp, vua mở tiệc khao quân, tuyên bố với mọi người mồng 7 sẽ vào thành ăn mừng chiến thắng. Những lời nói đó của ông đã đốc thúc được lòng quân, giúp quân sĩ lấy được tinh thần chiến đấu. Quang Trung chia quân sĩ thành năm đạo. Đạo chủ lực do ông trực tiếp chỉ huy, tấn công vào thành Thăng Long, đạo thứ hai và thứ ba tấn công vào tây nam Thăng Long và yểm trợ cho đạo thứ nhất. Đạo thứ tư tiến ra phía Hải Dương, đạo thứ năm tiến lên Lạng Giang, chặn đường rút lui của quân địch. Cả năm đạo quân đúng ngày tháng giêng lên đường, để giữ được sức chiến đấu. Vua cho sai dùng cáng làm võng, cứ hai người khiêng một người, cứ thế luân phiên nhau mà nghỉ ngơi. Khí thế của quân sĩ rất hùng dũng và oai nghiêm, ai cũng đồng lòng đánh đuổi quân giặc. Đêm 30 Tết, quân ta vượt sông Gián tiêu diệt toàn bộ quân địch, không để cho tên nào chạy thoát nên những đạo quân Thanh đóng ở Thăng Long và Ngọc Hồi không hay biết gì. Nửa đêm ngày mồng 3 Tết, sau khi đi được hai ngày ba đêm thì đã tới làng Ngọc Hồi.

        Quang Trung dùng kế nghi binh, lặng lẽ cho quân lính bao vây xung quanh làng rồi bắc loa truyền gọi, tiếng quân sĩ luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng. Lúc bấy giờ trong đồn mới biết, quân giặc rụng rời sợ hãi xin hàng, nộp toàn bộ khí giới và lương thực. Rồi Quang Trung cho ghép hai mươi bức ván, chọn người khoẻ mạnh, cứ mười người khiên một bức. Mờ sáng ngày mồng 5, quân ta tiến sát đến Hà Hồi. Đây là đồn quan trọng nhất của địch với khoảng hai mươi vạn quân tinh nhuệ. Đồn lũy được xây dựng kiên cố, xung quanh đều cắm chông sắt và chôn địa lôi. Mở đầu trận đánh, hơn một trăm voi chiến của quân ta ào ạt tiến vào, tiếp sau là đội mang những tấm lá chắn bằng gỗ tẩm rơm ướt bên ngoài, đội bảo vệ bộ binh theo sau với hai mươi nghìn người cầm binh khí dàn thành trận thứ nhất. Khi tiến sát đến gần. Quang Trung truyền lệnh cho tượng binh và bộ binh đồng loạt xông tới, quân Thanh nổ súng nhưng không trúng bèn phun khói lửa nhưng không ngờ gió đổi hướng, quân Thanh tự làm hại mình, thế gọi là gậy ông đập lưng ông. Được lệnh, đội quân khiêng ván vừa che vừa xông lên, khi đà chạm nhau thì quăng ván xuống; dùng dao ngắn chém bừa, những quân sĩ đằng sau cũng nhất tề xông lên. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại. Cùng lúc đó, đạo quân thứ hai và thứ ba tấn công vào đồn Đống Đa, được nhân dân địa phương ủng hộ, quân ta giáp chiến, đốt lửa thiêu cháy doanh trại. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống khiếp sợ, thắt cổ tự tử. Quân Thanh tháo chạy về phía đông trông thấy đạo quân thứ tư càng khiếp sợ, bèn tìm lối tắt nhưng bị đạo quân thứ năm chặn đường. Hết hồn vía, quân Thanh bèn trốn xuống làng Quỳnh Đô, bị voi quân ta giày đạp, chết hàng loạt.

        Tôn Sĩ Nghị nghe tin cấp báo thì bàng hoàng mất vía, thật là tướng từ trên trời rơi xuống, quân chui dưới đất lên. Sợ mất mặt, Tôn Sĩ Nghị vội vã bỏ trốn quân sĩ nghe tin thì hoảng hốt tranh nhau qua cầu, xô đẩy nhau rơi xuống nước mà chết. Khi cầu gãy, quân lính rơi xuống sông làm nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn, về phần vua Lê, đang chăm chú mải mê yến tiệc, nghe tin liền chạy trốn. Trời nhá nhem tối thì đến kịp chỗ của Tôn Sĩ Nghị. Trưa mồng 5 Tết Kỉ Dậu, Quang Trung cùng đoàn quân tiến thẳng vào Thăng Long giữa muôn ngàn tiếng reo hò của nhân dân.

        Chiến công thần tốc Quang Trung đại phá quân Thanh đã để lại một dấu ấn lịch sử to lớn của nước ta và làm tăng thêm sự oai hùng một lần nữa người phương Bắc lại thua người phương Nam. Lễ hội Đống Đa hằng năm chính là lễ hội mừng cho chiến thắng lần ấy.

Thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng 5 tháng giêng- Mẫu 3

Nhà Tây Sơn gồm ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ. Mỗi người xưng vương một miền. Nguyễn Huệ được mọi người gọi là Bắc Bình Vương. Trong thời kì đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam những năm 30 cuối thế kỷ XVIII, Lê Chiêu Thống rất lo sợ cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên đã cầu cứu mở đường cho quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Trần Văn Tuyết chạy vào thành Phú Xuân cấp báo cho Bắc Bình Vương về việc quân Thanh xâm lược nước ta; Lê Chiêu Thống nhận sắc phong của vua nhà Thanh là Nam Quốc Vương; Ngô Văn Sở cho quân rút lui về Tam Điệp nghĩa là nước ta mất hết đất từ cửa ải phía Bắc đến Thăng Long. Nghe được tin cấp báo, Bắc Bình Vương giận lắm. Biết là biến cố lớn, ông quyết định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh.

        Ông cho họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay nhưng mọi người đến họp đều ngăn lại, xin ngài trước hết hãy chính vị hiệu; ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau cất quân ra đánh dẹp cõi bắc là chưa muộn. Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi. Trong nghi lễ, ngài khoác lên mình chiếc áo long bào có thêu hình rồng uốn lượn lấp loáng, đầu ngài đội mũ miện, cổ đeo chuỗi hạt bằng ngọc, chân đi giày vàng. Trông ngài thật uy nghi và nghiêm trang bước lên đàn tế trời đất. Như cuốn Các triều đại Việt Nam có viết: Ngài là người có dung mạo đặc biệt. Tóc quăn, da sẫm, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối. Trên gương mặt ngài vẻ cương nghị, oai phong lẫm liệt và dữ tướng đến mức không ai dám nhìn thẳng vào mặt ngài.

        Bắc Bình Vương lên ngôi hoàng đế đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung. Lễ xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy là ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh cả thuỷ lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 đến Nghệ An, vua cho gọi Nguyễn Thiếp, một người có tài tiên đoán vào hỏi về mưu đánh và giữ, cơ được hay thua. Được Nguyễn Thiếp trả lời: chuyến này ra đi không quá mười ngày quân Thanh sẽ bị dẹp tan. Vua Quang Trung mừng lắm liền sai đại tướng là Hám Hổ Hầu tuyển lính ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người. Ai cũng có thân hình vạm vỡ, bắp tay cuồn cuộn, họ đều là những nông dân lực điền. Chưa mấy chốc đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ, hàng ngũ thẳng tắp, cờ trống rợp trời, giáo mác sắc nhọn sẵn sàng chiến đấu.

        Vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn chia làm bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu là số quân ở Thuận Hoá, Quảng Nam còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì cho làm trung quân. Quang Trung cưỡi voi ra doanh trại an ủi quân lính bằng khẩu dụ vang rõ, sang sảng đầy hào khí trước ba quân, khẳng định niềm tin ý chí quyết thắng của quân đội chính nghĩa. Nghe xong các quân lính đều xin vâng lệnh, không dám hạ lòng. Hôm sau, vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Khi đến núi Tam Điệp, Sở và Lân đều ra đón, mang gươm trên lưng mà xin chịu tội. Vua phân tích rõ công, tội của Sở và Lân: Giặc đến mà không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: “Quân thua chém tướng” tội các người đều đáng chết một vạn lần. Tuy nhiên ta nghĩ các người đều là hạng vô dùng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tuỳ cơ ứng biến thì cũng không có tài. Vì lẽ đó vua đã cho Ngô Thì Nhậm ở lại làm việc cùng Sở và Lân. Thì Nhậm bèn lạy hai lạy để tạ ơn. Vua Quang Trung lại nói lần này phương lược tính sẵn rồi chẳng qua mười ngày có thể đuổi quân Thanh. Nhưng chúng gấp mười nước mình, thua đau sẽ trả thù thì đời sống nhân dân sẽ vô cùng khốn khổ vì nạn binh đao. Chờ mười năm nữa nước ta lớn mạnh có sợ gì chúng.

        Bọn Sở và Lân đều lạy tạ, trong lòng chúng thấy rất rõ sự am hiểu; quân lệnh nghiêm minh và vô cùng cảm kích trước sự vị tha độ lượng của vua Quang Trung. Đêm 30 tháng chạp, vua cho mở tiệc khao quân linh đình, chia quân làm ba đạo và bảo kín với các tướng đêm 30 lập tức lên đường hẹn ngày mồng 7 năm mới thì vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Giọng nói người sang sảng âm vang khắp quân lính. Trong bữa tiệc ai cùng vui mừng, vui chơi thoả thích. Đúng ngày, cả năm đạo quân đều vâng lệnh, gióng trống lên đường ra Bắc. Để giữ sức chiến đấu cho binh lính vua cho dùng cáng làm võng cứ hai người khiêng một người ngủ, luân phiên đi suốt ngày đêm. Khi đến sông Gián, ai nấy đều mệt lử, áo quần lôi thôi, mặt mũi bơ phờ, người bám đầy bụi bặm do hành quân quá dài nhưng vì lòng yêu nước, yêu Tổ quốc, nghĩ đến lời an ủi của vua binh lính lại phấn chấn, sẵn sàng chiến đấu. Nghĩa binh giặc trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước nháo nhác, lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt. Vua cho binh lính chạy theo bắt sống được hết vì vậy quân Thanh không hề có ai chạy về báo tin. Việc tiến quân của ta là hoàn toàn bí mật đến đồi Hà Hồi, Ngọc Hồi.

         Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỉ Dậu (1789), vua tới đồn ở làng Hà Hồi huyện Thượng Phúc lặng lẽ vây kín làng mới dùng kế nghi binh bắc loa truyền gọi: Quân. Tiếng quân lính luân phiên nhau: Dạ…dạ ran khắp cả vùng trời để hưởng ứng nghe như có hơn vài vạn người. Trong dồn lúc ấy mới biết, ai nấy run lẩy bẩy, rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân ta lấy hết. Vua lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm là một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức, rồi kén hạng lính khoẻ mạnh cứ mười người khiêng một bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác dùng binh khí theo sau, dàn thành hàng ngang. Mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng chẳng trúng người nào. Tiện có gió Bắc, chúng dùng súng phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không nhìn thấy gì cả hòng làm quân ta hoảng loạn. Không ngờ trời bổng trở gió Nam khiến khói bay ngược lại, quân Thanh tự hại mình. Quân ta gấp rút khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa bãi những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy rẫy, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.

        Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía đông. Đến lúc ấy. quân Thanh đều hết hồn vía, vội trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô. Quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người. Giữa trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành. Lại nói không nghe thấy tin cấp báo nên trong ngày Tết mọi người chỉ chăm chú yến tiệc. Nào ngờ cuộc vui chưa tàn cơ trời đã đổi. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cấp báo, Tôn Sĩ Nghi sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên. người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã chuồn trước qua cầu phao rồi nhằm hướng bắc mà chạy. Quân sĩ nghe tin hỏang hồn, tan tác bỏ chạy đánh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính rơi xuống nước đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa. Quân ta ăn mừng chiến thắng vô cùng giòn giã.

        Chiến công đại phá quân Thanh đã chứng tỏ nước ta là một nước mạnh mẽ, có độc lập, chủ quyền. Khắc hoạ sâu sắc hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ với tài mưu lược, ý chí kiên cường đấu tranh. Hằng năm, dân ta vẫn tổ chức lễ hội Đống Đa để nhớ đến công lao của ông cha ta thời xưa và ôn lại chiến thắng lịch sử hào hùng của dân tộc đã đại phá quân Thanh rất thần tốc.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng 5 tháng giêng hay nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 10/2024!