Updated at: 07-05-2023 - By: Thầy Vũ Xuân Anh

Admin Chăm Học Bài hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn cách “Suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp qua nhân vật Ông Hai” chuẩn nhất 04/2024.

Dàn ý

I. Mở bài :

– Giới thiệu đôi nét về tác giả Kim Lân.

– Dẫn vào truyện ngắn “Làng” và nội dung phản ánh của tác phẩm là những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

II. Thân bài :

1. Giải thích “chuyển biến mới” trong tình cảm của người nông dân.

2. Những biển hiện của những “chuyển biến mới” trong tình cảm của người nông dân:

* Tình yêu làng – nét truyền thống của người nông dân Việt Nam thể hiện qua nhân vật ông Hai.

– Ông hay khoe về cái làng chợ Dầu của mình, dù ở xa nhưng luôn nhớ về làng.

– Khi nghe tin làng theo Tây, ông đã rất đau lòng.

* Sau cách mạng, theo kháng chiến, ông Hai đã có những chuyển biến mới trong tình cảm :

– Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, về việc xây dựng kháng chiến của quê ông.

– Ông Hai hay quan tâm đến tin tức kháng chiến, ngày nào cũng ra phòng thông tin theo dõi tin tức…

* Tình yêu làng gắn bó với lòng yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong diễn biến tâm lí khi ông Hai nghe tin làng mình theo giặc :

– Mới nghe tin làng theo giặc, ông sững sờ, tủi hổ cắm gằm mặt ra về, thầm nguyền rủa những kẻ phản bội cách mạng,..

– Những ngày sau, ông không dám ra ngoài, cái tin nhục nhã ấy đã trở thành nỗi ám ảnh khủng khiếp.

– Xung đột nội tâm của ông Hai : Có lúc muốn quay về làng nhưng tình yêu nước, tình yêu cách mạng đã để ông đau lòng dứt rằng “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.

– Tình cảm với kháng chiến, với cụ Hồ còn bộc lộ trong lời tâm sự của ông Hai với đứa con.

→ Tình yêu làng gắn bó với tình yêu nước, yêu cách mạng.

* Khi tin làng được cải chính, ông Hai vui sướng, trút bỏ được gánh nặng tâm lí : Ông vội vàng thông báo với mọi nhà, ông chạy đi khoe rằng “nhà ông bị Tây đốt”.

3. Suy nghĩ về những “chuyển biến mới” trong tình cảm của người nông dân

III. Kết bài :

Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước chân thành, mộc mạc mà vô cùng sâu nặng, cao quý của người dân lao động bình thường.

– Sự mở rộng từ tình yêu làng, yêu quê hương sang tình yêu nước, yêu cách mạng chính là chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.

Bài mẫu 1

“Làng quê” – hai tiếng thật êm đềm và thân thuộc biết bao. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ hướng ngòi bút của mình về giếng nước, gốc đa, con đò,… hướng về người nông dân thật thà, chất phác. Kim Lân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn và khai thác rất thành công về đề tài này. Truyện ngắn “Làng” là một truyện ngắn thành công của Kim Lân gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

Như bao con người Việt Nam khác, ông Hai cũng có một quê hương yêu thương, gắn bó. Làng Chợ Dầu luôn là niềm tự hào và là kiêu hãnh của ông. Ông luôn khoe về làng mình, đức tính ấy như đã trở thành bản chất. Ông cũng như mọi người nông dân Việt Nam khác, có quan niệm rằng “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, đối với họ, không có bất cứ đâu đẹp hơn nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trước cách mạng, mỗi khi kể về làng, ông đều khoe về cái sinh phần của viên tổng đốc sừng sững ở cuối làng. Sau Cách mạng, làng ông đã trở thành làng kháng chiến, ông đã có nhận thức khác. Ông Hai không còn khoe về cái sinh phần ấy nữa mà ông lấy làm hãnh diện với sự cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê mình. Ông khoe làng có “những hố, những ụ, những giao thông hào”, “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”… Kháng chiến bùng nổ, ông Hai bất đắc dĩ phải rời làng đi tản cư. Trong những ngày buộc phải rời xa làng tâm trí ông luôn nhớ về nơi ấy, về những anh em đồng chí của mình, ông muốn “cùng anh em đào đường, đáp ụ, xẻ hào, khuân đá…’’.

Ở nơi tản cư, ông luôn đến phòng thông tin để theo dõi và mong ngóng tin tức về làng nhằm nguôi ngoai nỗi nhớ. Trong lúc mong tin làng, những tin vui chiến thắng ở khắp nơi khiến ông vui sướng vô cùng, “ruột gan cứ múa cả lên”. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà đi tản cư, ông Hai vô cùng sửng sốt, “cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Đến khi nghe kể rành rọt, không thể không tin vào điều xấu ấy, niềm tin và tình yêu bấy lâu nay của ông về làng như sụp đổ. Ông đã “gầm mặt xuống”, đánh trống lảng rồi bước đi như kẻ trốn nợ. Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người nhưng lại không tin họ theo giặc. Mấy hôm liền, ông không dám đi đâu vì xấu hổ, luôn bị ám ảnh cái tin khủng khiếp ấy và hay hốt hoảng giật mình. Những ngày này mâu thuẫn nội tâm trong con người ông Hai diễn ra một cách quyết liệt và ngày càng dâng cao. Đã có lúc ông nghĩ đến việc “quay về làng” nhưng ông đã dứt khoát  “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tuy quyết định như thế nhưng ông vẫn rất đau đớn xót xa. Tất cả những cử chỉ của ông Hai khẳng định tình yêu làng của ông đã hòa quyện vào cuộc kháng chiến của dân tộc và ông sẽ gắn bó cả cuộc đời với nó bằng suy nghĩ và hành động. Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông trút nỗi lòng vào lời nói với đứa con út ngây thơ: “Bố con mình theo kháng chiến, theo Cụ Hồ con nhỉ?” để giãi bày tâm sự, trút bỏ, an ủi lòng mình. Đồng thời, ông cũng truyền cả tình yêu nước sang cho con mình và khẳng định tình cảm của bố con ông với kháng chiến, với Cụ Hồ là trước sau như một.

Đau khổ là thế, lo âu là thế nhưng cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã được cải chính. Niềm vui trong ông Hai như vỡ òa. Ông chạy đi khoe ngay với bác Thứ rồi gặp bất cứ ai ông cũng khoe Tây đã đốt nhà mình như muốn chứng minh làng mình không theo giặc với tất cả niềm tin và tình cảm của ông. Đối với ông hai cũng như mọi người nông dân khác, con trâu, mảnh ruộng, gian nhà là vô cùng quý giá nhưng họ thà mất đi tất cả chứ không chịu mất nước và ý chí ý đã trở thành một truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta.

Cách mạng và sự nghiệp kháng chiến đã tác động mạnh mẽ, đem lại những nhận thức, những tình cảm mới lạ cho những người nông dân. Từ đó khiến họ nhiệt tình tham gia kháng chiến và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào lãnh tụ. Ở nhân vật ông Hai, tình cảm đẹp đẽ có tính chất truyền thống của người nông dân Việt Nam là tình yêu làng quê đã được nâng lên thành tình yêu nước. Sự hòa quyện và gắn bó của tình yêu quê hương và tình yêu đất nước là nét mới mẻ trong nhận thức của người nông dân, của quần chúng cách mạng trong giai đoạn văn học chống Pháp.

Với kếu cấu đơn giản, xoay quanh nhân vật ông Hai với tình yêu làng sâu sắc, “Làng” đã để lại trong lòng người đọc nhiều ý vị sâu sắc. Làng Nhà văn Kim Lân đã xây dựng rất thành công nhân vật ông Hai với các phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Đồng thời nhà văn còn khôn khéo xây dựng tình huống thử thách làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật. Tác giả đã miêu tả đặc biệt tài tình nội tâm của nhân vật với những suy nghĩ phức tạp, giằng xé. Tác giả đẩy các chi tiết đến cao trào rồi giải quyết một cách nhẹ nhàng, thỏa đáng và có hậu, tạo hứng thú và bất ngờ cho người đọc, người nghe. Cách sử dụng từ ngữ địa phương mộc mạc, gần gũi với nông dân trong đối thoại, giao tiếp kết hợp với sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ khiến những trang viết của Kim Lân thật gần gũi nhưng không kém phần sâu sắc.

Nhân vật ông Hai gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại nhiều tình cảm tốt đẹp, sự yêu mến, trân trọng và cảm phục trong lòng người đọc. Tình yêu làng của ông Hai mang tinh chất truyền thống đã được nâng lên thành tình yêu nước nồng nàn như “dòng suối đổ vào sông, dòng sông đổ vào dải trường giang Vônga, dòng sông Vônga đi ra biển…”. Qua nhân vật ông Hai như là nông dân với những phẩm chất tốt đẹp bước từ đời thực vào tác phẩm, có được những biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.
“Làng” đã trở thành một truyện ngắn đặc sắc, Kim Lân đã thành công trong việc thể hiện những chuyển biến mới mẻ trong nhận thức và tình cảm của người dân Việt Nam. Nhân vật ông Hai đã trở thành một hình tượng điển hình cho những người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác nhưng luôn cháy bỏng tình yêu quê hương, yêu đất nước. Họ đã góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng và là nhân tố trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bản thân mỗi chúng ta cần phải học tập tấm gương của họ, ngày càng yêu thương quê hương, đất nước mình hơn.

Bài mẫu 2

Kim Lân sinh ra ở vùng quê giàu truyền thống văn hoá. Nó được coi là cái nôi của vùng văn hoá Kinh Bắc. Từ nhỏ ông đã sống ở thôn quê, vì thế ông rất gần gũi với người nông dân, gần với những thú vui, nỗi khổ của họ.

Truyện ngắn Làng gợi cho em nhiều suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Suy nghĩ ấy đến khi em cảm nhận hết những vẻ đẹp của nhân vật ông Hai.

Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, nhiều thành phố, làng mạc gần thủ đô hoặc các địa phương trọng yếu tản đi nơi khác. Nằm trong vùng kháng chiến, làng Chợ Dầu của ông Hai phải tản cư. Phải rời làng ra đi nhưng tình cảm của ông Hai luôn gắn chặt với làng. Tình cảm ấy được thể hiện trước hết ở cái tính hay khoe làng, lấy làm hãnh diện về làng của mình. Đối với ông, cái gì ở làng ông cũng đáng tự hào. Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên. Ông khoe làng ông có phòng thông tin rộng rãi nhất vùng, có chòi phát thanh, có nhà ngói san sát, sầm uất nhất tỉnh. Đường làng lát toàn đá xanh.

Sự hãnh diện về bộ mặt của làng cũng không có gì lạ lắm bởi nó xuất phát từ tình yêu của ông đối với quê hương. Nhưng đôi khi tình yêu ấy khiến ông thái quá. ông hãnh diện cho làng có được cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông. Khi có khách lên chơi ông dắt ra xem cho kì được cái sinh phần ấy. Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, ông mới nhận ra sai lầm của mình vì chính cái làng ấy nó làm khổ ông, làm khổ bao nhiêu người trong làng. Cái chân khập khiễng của ông bây giờ cũng vì cái làng ấy. Ông thù nó lắm, nó không đáng để ông hãnh diện nữa. Từ ngày kháng chiến, ông không chỉ tự hào vì nó đẹp mà còn vì làng ông tham gia kháng chiến, ông hãnh diện vì cái làng kháng chiến của mình trong những buổi tập quân sự, có nhiều hố, nhiều ụ, nhiều giao thông hào để chuẩn bị cho kháng chiến.

Khi nghe anh dân quân đọc báo về tin kháng chiến, ông mừng rỡ trước những chiến thắng của ta, ông hả hê trước thất bại của địch khiến ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá! Nhưng đau khổ thay cho ông là làng Chợ Dầu của ông theo giặc. Ông lão trở nên sững sờ cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được.

Bấy lâu nay ông luôn tự hào về cái làng ấy mà nay bỗng dưng sụp đổ. Bản thân ông cảm thấy như chính mình mang nỗi nhục của tên Việt gian, ông cúi gằm mặt xuống đi về nhà nằm vật ra giường. Có lẽ từ nay ông không còn mặt mũi nào mà nhìn bà con hàng xóm, ông không dám sang nhà bác Thứ nữa. Có lẽ chỉ những người yêu mến tha thiết làng quê mới day dứt nhục khổ như thế. Giờ đây, trong lòng ông luôn băn khoăn giữa hai ý nghĩ: trở về làng hay ở lại đây. Ở lại đây thì ông không còn mặt mũi nào đi đến đâu nhưng về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ. Ổng nghĩ làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.

Nhưng cuối cùng cái điều mà ông Hai chờ đợi cũng đã đến: ông chủ tịch làng lên thông báo làng Chợ Dầu không đi theo Việt gian, ông vui mừng không tả xiết. Ông đi đến sẩm tối mới về với vẻ mặt rạng rỡ và còn chia quà cho bọn trẻ, rồi ông sang nhà bác Thứ, đi hết nơi này đến nơi khác thông báo làng ông không theo Việt gian cho mọi người.

Trong ông Hai luôn cháy bỏng tình yêu tha thiết với làng lộ rõ trên gương mặt của ông: ông vui sướng khi kể về làng Chợ Dầu của ông và ông cảm thấy khổ nhục nếu làng theo giặc, ông Hai chính là đại diện cho những chuyển biến mới trong tình cảm của người dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Người nông dân đã ý thức rõ hơn vai trò, nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp giải phóng. Ý thức ấy đã chuyển thành những hành động cao cả và tốt đẹp.

Bài mẫu 3

Tình yêu làng, yêu quê hương đất nước là những tình cảm tốt đẹp trong lòng mỗi người dân. Và có lẽ, nó cũng là một đề tài xuyên suốt trong hầu hết mọi tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ. Nhà văn Kim Lân đã khắc hoạ tình yêu ấy qua một tác phẩm rất tiêu biểu và đặc sắc, trở thành một biểu tượng nghệ thuật bất hủ. Đó là truyện ngắn Làng, cùng viết về đề tài nông dân nhưng được biểu hiện trên một phương diện mới qua một tình huống bất ngờ và trớ trêu để bộc lộ tình yêu đất nước của ông Hai nói riêng và tình yêu nước của nhân dân Việt Nam nói chung thời kì cách mạng chống Pháp.

Ông Hai mang những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân từ bao đời: Hiền lành, chất phác, chăm chỉ, chịu thương chịu khó và tình yêu sâu sắc với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Ngày giặc đến làng, cả gia đình ông phải tản cư nơi miền khác. Khi xa làng, ông luôn nghĩ về ngôi làng của mình với bao niềm thiết tha và thương mến. Nghĩ về làng, “ông thấy mình như trẻ ra”, bao nhiêu kỉ niệm cùng những người anh em của mình trở về trong kí ức:

” Ồ, sao độ ấy mà vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, cũng bông phèng, cũng đào, cũng cuốc, mê man suốt ngày Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc là còn khướt lắm. Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá”. Ông yêu làng của mình và nhớ da diết cái làng ấy. Ông luôn mong mình trở về để tham gia vào kháng chiến chống giặc, là người rất có trách nhiệm với công cuộc kháng chiến. Tình yêu làng của ông Hai bắt nguồn từ những điều gần gũi và bình dị, mở rộng ra là tình yêu lớn lao với kháng chiến, với Tổ quốc.

Nhắc đến Chợ Dầu, ông luôn tự hào và trong ánh mắt ngời sáng bao niềm vui. Ông căm ghét lũ giặc cướp nước. Ông luôn theo dõi những tin tức của làng mình qua phòng thông tin đọc báo. Ông vờ xem tranh để nghe những thông tin về đất nước, khi nghe được tin thắng lợi của quân ta, tin quân địch bị tập kích “ruột gan ông lão cứ múa cả lên”. Ông yêu kháng chiến và quan tâm nồng nhiệt đến kháng chiến.

Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, thì “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được”. Ông nghẹn ngào không nói nên lời, cứ cúi gằm mặt xuống. Từ niềm tin, niềm tự hào về ngôi làng trở thành niềm tuyệt vọng, xót xa. Ông không dám tin điều mình vừa nghe là sự thật. Càng yêu làng ông càng đau khổ khi nghĩ về làng mình với cái tiếng khủng bố. Ông thắc mắc, nghi ngờ vào cái điều mà người ta nói về làng ông. Sau cái ngày nghe tin, ông luôn cảm thấy xấu hổ, tủi nhục. Lúc về đến nhà, lão nhìn lũ con rồi tủi thân mà giàn giụa nước mắt. Lão thương các con: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?…”, lão thương cho chính mình, cho ngôi làng và thương cho kháng chiến. Tình yêu làng càng lớn thì nỗi tủi hổ ấy càng sâu đậm. Nhiều ngày, ông không dám ra ngoài, quanh quẩn trong ngôi nhà chật hẹp mà nghe ngóng tin tức. “Nghe ngóng xem tình hình bên ngoài ra sao? Một đám đông xúm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”.

Dường như, trong tâm trí ông lúc này là sự đau đớn đến cùng cực, tuyệt vọng đến cùng cực, làng ông theo Tây nghĩa là làng ông phản bội kháng chiến, phản bội cụ Hồ.

Làng Chợ Dầu là máu thịt của ông, cách mạng là ánh sáng của cuộc đời ông, của gia đình và của dân tộc. Ông Hai đứng giữa hai bờ lựa chọn: hoặc về làng theo Tây, hoặc từ bỏ làng theo kháng chiến. Cuối cùng, ông khẳng định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đây là một quyết định rất cao đẹp và đúng đắn, ông đã gạt bỏ những tình cảm riêng tư để hướng tới tương lai, niềm vui chung của đất nước, của dân tộc. Tình yêu nước của ông rât đỗi sâu nặng và thiêng liêng, đó là niềm tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào cụ Hồ , vào cuộc kháng chiến cả dân tộc , “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”.

Khi tin làng Chợ Dầu được cải chính “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui , rạng rỡ hẳn lên”. Bao ngày đau khổ giờ bỗng phấn khích, đi đâu ông cũng khoe làng ông bị đốt nhẵn, nhà ông bị đốt sạch. Ông chứng minh cho mọi người rằng Chợ Dầu không phản bội cách mạng, không theo Tây. Với mỗi người nông dân, căn nhà như là một cơ nghiệp bền vững nhưng sự mất mát vật chất ấy không thể sánh được với danh dự, với tinh thần cách mạng lớn lao. Điều đó, như một khẳng định chắc chắn về tình yêu làng, lòng trung thành với cách mạng trong ông.

Kim Lân đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật ông Hai – một người nông dân giàu tình yêu quê hương đất nước – là đại diện tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Có ý thức giác ngộ cách mạng từ sớm, trung thành với kháng chiến, tình yêu bình dị với làng quê thống nhất trong tình yêu của đất nước, dân tộc.

Kết luận

Hy vọng với các giải đáp trên thì mong là quý độc giả đã biết được cách ” Nêu Suy nghĩ  về những chuyển biến mới trong tình cảm của người dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp qua nhân vật Ông Hai” chuẩn và chính xác nhất hiện nay. Các thông tin trên được admin cập nhật cũng như thu thập thông tin từ nhiều nguồn chuẩn xác, hy vọng các bạn sẽ thích và ủng hộ cho Chamhocbai.com.

Bài viết đã được cập nhật mới nhất vào 04/2024!